← Quay lại trang sách

Chương 4 CHUYẾN VIẾNG THĂM OLSO

Tháng 9 năm 1941, Heydrich được bổ nhiệm làm quyền toàn quyền xứ Bohemia-Moravia dưới sự lãnh đạo trên danh nghĩa của ngài Von Neirat. Ông ta coi sự bổ nhiệm đó là một bước thăng tiến lớn và rất hài lòng, nhưng ông ta bày tỏ ý muốn tôi đi cùng ông ta tới Praha với tư cách trợ lý. Đề nghị đó làm tôi lo sợ: rõ ràng cần phải ngăn chặn trước khi nó trở thành mệnh lệnh chính thức. Phải trổ hết tài năng để thuyết phục Heydrich rằng vì lợi ích của ông ta, trợ lý cần phải ở lại Berlin để cải tổ Cơ quan Mật vụ. Cuối cùng ông ta miễn cưỡng đồng ý.

Đầu tiên, vào tháng 9 năm 1941 tôi định bay sang Madrid một chuyến để ra chỉ thị cho tổ chức mới của chúng tôi ở đó và nghiên cứu vài vấn đề. Nhưng tôi buộc phải hoãn chuyến đi đó. Heydrich bất thình lình quyết định đưa tôi theo đến Na Uy. Ông ta muốn làm sáng tỏ vài vấn đề còn lấn cấn trong mối quan hệ với viên toàn quyền Đức ở Na Uy là Terboven. Ông ta còn có một mục đích nữa - ông ta muốn thực hiện một vài nhiệm vụ bí mật với tư cách một sĩ quan không lực Luftwaff trong thành phần phi đội tiêm kích xuất phát từ Stavangher. Khi đó ông ta sẽ hoàn thành đủ số lượng nhiệm vụ chiến đấu để nhận huân chương Chữ Thập Sắt hạng nhất theo quy định và như vậy ông ta có thể sẽ nhận được huân chương Chữ Thập Vàng từ tay Goering.

Như thường lệ, chúng tôi bay trên chiếc chuyên cơ của ông ta. Trong chuyến bay, Heydrich ngồi sau bàn và bắt các sĩ quan tùy tùng của mình chạy lăng xăng, chủ yếu là ông ta ra các chỉ thị về chương trình công tác của chúng tôi ở Oslo. Ông ta đã mở rộng chương trình và kết quả là khó có thể hoàn thành dù chỉ một nửa các công việc đã ấn định.

Tôi quyết định sẽ đọc hai bài thuyết trình trước các điệp viên được gọi đến họp nhân mục đích này. Tôi cũng dự định nghiên cứu hoạt động của Cơ quan Tình báo Anh ở Na Uy và làm sáng tỏ hoàn cảnh của các điệp viên hai mang người Na Uy gia nhập phong trào kháng chiến nhưng thực tế là làm việc cho nước Đức. Tôi quan tâm tới khả năng cơ quan chúng tôi sử dụng các công ty hàng hải của Na Uy vẫn đang duy trì mối liên hệ với các quốc gia bên kia đại dương. Ngay sau khi bay đến Oslo, chúng tôi được viên toàn quyền tiếp ngay. Theo quy chế, Heydrich với tư cách ủy nhiệm toàn quyền phải được đối xử như cấp bộ trưởng. Lúc đầu Terboven cố gắng giữ đúng điều đó. Thực tế ông ta và Heydrich là hai kẻ thù truyền kiếp và tôi rất thích thú quan sát xem họ gặp nhau như thế nào.

Sau bữa sáng là buổi nói chuyện trao đổi đầu tiên. Nguyên nhân thực sự của mối hiềm khích giữa Heydrich và Terboven là sự tranh giành quyền lực tối cao (cả hai đều nhằm mục đích đó) đối với các quan chức cao cấp SS và cảnh sát Na Uy. Hoặc Terboven với tư cách toàn quyền sẽ giành được vị trí ưu thế hơn đối với người đứng đầu lực lượng cảnh sát mật được tập trung hóa cao độ và SD; hoặc thủ lĩnh của các lực lượng mật vụ sẽ có quyền lực đáng kể hơn. Terboven coi mình là ông chủ toàn quyền ở Na Uy với quyền lực vô biên. Cảnh sát Đức phải thực hiện các chỉ thị của ông ta. Các chỉ thị của chính quyền trung ương bị phớt lờ hoặc giễu cợt; chỉ riêng ông ta chịu trách nhiệm trước Quốc trưởng về Na Uy. Himmler và Heydrich chỉ được Terboven quan tâm như là người quen của cá nhân ông ta. Ông ta có thể cư xử như một nhà quý tộc háo danh, nhờ vào mối quan hệ chặt chẽ với Goering - người vào thời đó mới nẩy mũi sủi tăm, trong khi Terboven đã là thủ hiến vùng Ruhr. Lúc đó hai người cùng tham gia vào các âm mưu đáng ngờ mà kết quả là đã tịch thu một phần các xí nghiệp luyện thép Đức với cớ bảo vệ quyền lợi dân tộc.

Cuộc thảo luận lâm vào bế tắc và họ đề nghị tôi trình bày quan điểm của mình về vấn đề, và tôi đã trình bày, bất chấp sự thù địch lúc đầu còn giấu giếm sau bộc lộ công khai của Terboven. Dù sao thì cũng đã đạt được tiến bộ nhất định và cuộc trò chuyện kết thúc bằng lời tuyên bố của Terboven rằng theo ý ông ta chúng tôi đã đạt được giải pháp mà cả hai bên chấp nhận được.

Buổi tối diễn ra cuộc đón tiếp chính thức. Terboven giám sát để sao cho không có sơ suất gì xảy ra: trong mọi việc ông ta đều bắt chước y hệt người bạn thân thiết của mình là Goering. Như chúng tôi dự kiến, cuộc tiếp tân đã biến thành bữa tiệc nhậu say bí tỷ. Terboven uống quá nhiều và đốc thúc để không ai tụt lại sau ông ta. Đó là cách giết thời gian ưa thích của ông ta. Tôi cảm thấy mình lạc lõng và hai lần định lặng lẽ chuồn ra ngoài nhưng không được. Cuối cùng Terboven ra lệnh cho hai cô nữ thư ký của mình đi xe đạp quanh trong phòng. Tiếng hò reo tán thưởng của đám quan khách say mềm dậy lên. Ngay lúc đó tôi hét lên tương đối to: “Đúng là trò xiếc hề!”. Terboven chắc là nghe thấy câu tôi nói: có lẽ ông ta chỉ chờ dịp để gây sự. Ông ta đứng dậy rời khỏi bàn, vẻ cương quyết bước lại và đứng ngay trước mặt tôi, nói to:

— Hãy cầm lấy vại bia - ông ta cầm trong tay chiếc cốc vại một lít - và uống cạn ngay đi, nếu không tôi sẽ coi anh là kẻ phá rối.

Tôi tỏ vẻ lấy làm tiếc và từ chối, lấy cớ do tình trạng sức khỏe. Tôi chưa kịp nói hết, Terboven đã định hắt bia vào mặt tôi. Heydrich can thiệp, ngăn ông ta lại. Tôi cảm ơn Heydrich vì điều đó. Năm phút sau tôi ra về không chào ai cả.

Sáng sớm ngày hôm sau, một trong những nữ thư kí của Terboven gọi điện và mời tôi đến sớm vì viên toàn quyền mời chúng tôi ăn sáng. Tôi trao đổi qua loa với cô gái; cô ta nói cho tôi biết rất nhiều những chi tiết thú vị trong cuộc sống và những tập tục kì quái của “triều đình của đức vua Terboven”. Tôi cảm thấy thương hại cho cô.

Ngay lúc gặp gỡ, Terboven vụng về tìm cách xin lỗi về chuyện hôm qua:

— Hình như tối qua chúng tôi đã uống quá nhiều, nhưng anh Schellenberg này, khổ một nỗi là anh quá tỉnh táo.

Sau bữa sáng lại còn một cuộc họp nữa mà tất cả các quan khách đều tham gia, trong đó có cả Muller do Heydrich gọi đến. Terboven nhượng bộ tất cả. Buổi trưa chúng tôi dạo chơi bằng du thuyền trên vịnh Oslo. Ngày hôm sau tôi có thể bình tâm hoàn tất công việc theo dự định, Tôi bị ấn tượng mạnh trước hoạt động của tình báo Anh, mà họ tất nhiên là lợi dụng sự ủng hộ mạnh mẽ của những người Na Uy yêu tự do. Người Anh thường xuyên sử dụng phong trào kháng chiến Na Uy vào mục đích do thám về mặt quân sự và chính trị, cũng như tổ chức phá hoại ngầm. Đôi khi chúng tôi cũng đưa được các điệp viên hai mang vào tổ chức đó, nhưng dù tôi dã cố bằng mọi phương cách nghĩ ra được để thúc họ hoạt động, chúng tôi vẫn không nhận được những thông tin có giá trị thật sự. Trong vài trường hợp có sự phản bội chúng tôi mới được giúp đỡ thật sự, thêm vào đó chúng tôi nhận được các xuồng đánh cá, điện đài sóng ngắn v…v…

Vào thời đó, cả hải quân, cả không quân đều khăng khăng đòi lập trên đảo Greenland một trạm khí tượng trang bị máy phát sóng ngắn. Nhiệm vụ này là do bên tình báo quân sự giải quyết, tôi chỉ phải áp dụng các biện pháp phòng ngừa để phong trào kháng chiến Na Uy không phát hiện ra việc này. Tôi đề nghị cho bắt tất cả những công nhân Na Uy làm việc lắp đặt đường cáp cấp điện và liên lạc như những phần tử không đáng tin cậy và đưa họ về Đức. Đó là cách tốt nhất để xoá đi sự nghi ngờ của phong trào kháng chiến Na Uy. Nhưng ý tưởng đó bị coi là biểu hiện của thái độ thận trọng quá mức. Bất hạnh là tôi lại đúng. Hai lần cố gắng lập đài sóng ngắn đều thất bại và thời gian quý báu cứ trôi đi. Lần cố gắng thứ ba đem lại kết quả và máy phát sóng ngắn đã hoạt động có hiệu quả trong một thời gian cho đến khi các máy định vị của Anh xác định vị trí của nó và bắt tất cả các nhân viên của đài làm tù binh.

Vào một trong những buổi tiếp tân tối, tôi gặp một thiếu nữ Na Uy rất dễ thương. Cô ta nói được tiếng Thụy Điển, tiếng Anh, tiếng Pháp và một chút tiếng Đức. Tôi nói chuyện với cô ta chừng nửa giờ rồi sau đó bắt chuyện với một trong các nữ điệp viên của mình và thôi không để ý đến cô gái đó nữa. Nhưng tôi có cảm giác là cô ta vẫn chú ý đến tôi và cuối cùng ngày hôm sau cô ta gọi điện đến chỗ tôi và đề nghị hẹn gặp. Khi chúng tôi gặp nhau, tôi thấy cô gái bồn chồn lo lắng gì đó và sau một hồi lâu nói chuyện, cô ta chợt nói:

— Ông biết không, tôi có nhiệm vụ hoạt động chống lại các ông và hoàn thành một nhiệm vụ đặc biệt. Tuy tôi quen ông chưa lâu, song tôi thấy ông không phải là loại người như người ta thường nói về ông. Xin hãy giúp tôi, tôi không muốn phản bội ai, song tôi cũng không muốn làm hại các ông.

Lời thú nhận đó nghe thật lạ lùng. Dĩ nhiên do còn nghi ngờ nên tôi nghĩ ngay: “Đây chắc là một cái bẫy đây”. Tôi không dám quyết định. Tôi chăm chú ngắm khuôn mặt cô ta và thấy cô ta không có vẻ hoàn toàn tự chủ. Đôi mắt đỏ, cô ta có vẻ bồn chồn - nhưng điều đó lại không gây cho ta ấn tượng của một cơn loạn thần kinh hay đóng kịch. Có thể, tôi nghĩ, cô ta đang thật sự dằn vặt không yên trong lòng, một tâm trạng mà cô ta không chế ngự nổi. Tôi hỏi:

— Liệu các đồng chí của cô có biết vào lúc này cô đang ở đâu không?

— Tôi nghĩ là họ không biết, - cô gái nói. - Tôi đến đây bằng đường vòng và đăng kí tên người khác ở phòng tiếp tân, hơn nữa ở đây không ai biết tôi cả.

Tôi cảnh báo cô ta, khuyên cô ta hãy cẩn thận hơn và nói với các đồng chí của cô ta là cô ta đã đến chỗ tôi nhưng không thực hiện được nhiệm vụ. Tôi hỏi xem cô ta có người thân ở Đan Mạch và Thụy Điển không. Cô ta nói là ở Thụy Điển có họ hàng.

— Thế cô có thể sang Thụy Điển một thời gian ngắn mà không làm người Đức chú ý và không làm các bạn mình nghi ngờ không?

Lưỡng lự một chút, cô ta nói có thể được. Chúng tôi thỏa thuận là sẽ có người gọi điện cho cô ta theo địa chỉ ở Unsal và giải thích là phải liên hệ với tôi theo địa chỉ bí mật ở Stockholm thế nào.

— Nếu có chuyện gì xảy ra thì sao? - cô ta thận trọng hỏi.

— Tôi sẽ bố trí để một nữ điệp viên của tôi cứ hai tuần gọi cho cô một lần - cô ta mang tên là Selman. Nếu như cô có gì chuyển cho tôi, cô có thể thông báo cho cô ta.

Sau này tôi lại gặp cô ta ở Stockholm và thu xếp cho cô ta ở trong căn hộ của một trong những nhân viên tình nguyện của chúng tôi. Những nghi ngờ ban đầu của tôi đối với cô ta hóa ra hoàn toàn không có cơ sở. Đó là một trong những trường hợp lạ lùng, khi một cô gái quan tâm tới tôi mà không có một nguyên nhân gì rõ rệt. Những lời vu khống về tôi đã quay ngược chống lại những kẻ giao nhiệm vụ cho cô ta và cô ta trở nên căm ghét họ. Cô ta thú nhận với tôi rằng bấy lâu nay đã hoạt động chống lại chúng tôi. Nếu tôi là người đúng như cô ta nhận định, tôi phải hiểu cô ta căm ghét những người như Terboven và các cận thần của hắn đến mức nào.

Khi tổ chức ra lệnh cho cô ta chống lại tôi, cô ta tỏ vẻ miễn cưỡng và khi họ tìm cách khai thác để cô ta nói ra và gây sức ép đã làm cô ta giận dữ thực sự. Những điều đó dẫn tới sự thay đổi sâu sắc trong tâm hồn cô ta và từ đó đã nảy sinh một tình cảm say mê thực sự đối với tôi mà tôi không thể đáp lại. Vì thế, mặc dù cô ta không thể dâng hiến riêng cho tôi, cô ta vẫn làm việc với tôi một cách rất hiệu quả. Thậm chí một lần, nhân danh phong trào kháng chiến Na Uy, cô ta đã đến nước Anh và ở đó hai tháng. Tuy vậy cô ta không thể cung cấp cho tôi một tin tức quan trọng nào, bởi vì mọi hoạt động di chuyển của cô ta bị kiểm soát rất chặt. Những lần khác cô ta đạt được kết quả nhiều hơn. Có lần một mình cô ta đến Lisbon và trở về trên một chiếc tàu chở hàng Bồ Đào Nha với những thông tin cực kỳ giá trị về không lực hoàng gia Anh. Sau này cô ta còn hoạt động ở nhiều nước, chủ yếu là do thám tình hình xã hội. Cô ta thích đi du lịch và được đặt dưới quyền sử dụng của tôi để thực hiện các nhiệm vụ đặc biệt khác nhau. Nhưng dần dần hiệu quả hoạt động của cô ta giảm sút. Cô ta thành thực thú nhận rằng cô ta không thích cuộc sống như thế nữa. Chúng tôi đã có buổi nói chuyên rất lâu, bởi vì tôi cũng muốn giúp cho cô ta trở lại với cuộc sống bình thường. Nhưng trong chuyện này cô ta luôn mang tâm trạng bi quan. Cô ta đã kiếm được một món tiền tương đối, có được cảm giác hài lòng với công việc và hiểu rằng không bao giờ có thể đạt được những tham vọng đích thực của mình, mà chính những tham vọng ấy là động cơ thúc đẩy cô ta làm việc. Vì lợi ích của cô ta, tôi bố trí cho cô ta luôn ở trong tầm theo dõi. Cô ta chuyển đến Paris, sống biệt lập dưới một lốt do cô ta tự nghĩ ra. Sau này các điệp viên của tôi thông báo rằng cô ta bắt đầu sài ma túy. Việc gì xảy ra với cô ta sau này tôi cũng không được biết. Có tin đồn hình như vào tháng 5 năm 1945 cô ta tự vẫn, nhưng cũng có tin rằng cô ta đã lặn mất với một cái tên khác cùng tấm hộ chiếu Phần Lan và làm việc cho tình báo Nga.