Chương 5 MỞ RỘNG MẠNG LƯỚI Ở THỤY ĐIỂN
Chẳng bao lâu sau khi từ Na Uy trở về tôi lại phải sang Thụy Điển. Mục đích chuyến công tác lần này không phải do nhu cầu tình báo mà do Hitler muốn thúc đẩy việc phổ biến tư tưởng phân biệt chủng tộc của ông ta. Bản thân chuyện đó chẳng có ý nghĩa gì và tôi cũng chẳng buồn mất dù là năm phút cho nó nếu như không có mối quan tâm của Himmler bắt tôi phải tỏ ra hết sức lưu tâm. Ông ta vẫn mang một quan niệm hết sức lãng mạn về tình báo và thường xuyên khuyên bảo tôi. Đôi khi cố nghe hết những gợi ý hoàn toàn vô ích của Himmler, khó khăn lắm tôi mới giữ được vẻ mặt nghiêm túc.
Mặc dù mục đích cơ bản chuyến đi của tôi là vô bổ và không cần thiết, tôi vẫn quyết định lợi dụng cơ hội này và thử đưa người của mình vào mạng lưới tình báo Xô Viết ở Thụy Điển. Nhiệm vụ không chỉ ở chỗ là đấu với người Nga mà còn ở chỗ phải đưa được người của mình vào mạng lưới của họ, để qua đó đánh giá được tầm vóc và tính hiệu quả trong hoạt động của người Nga. Tất nhiên những điệp viên của tôi càng chiếm được vị trí cao bao nhiêu thì công sức của họ càng có hiệu quả bấy nhiêu. Tôi không chỉ có thể nhận được các tin tức về nhiệm vụ và hiệu quả các hoạt động của người Nga chống lại chúng tôi mà còn sử dụng được kết quả các điệp vụ tình báo của họ ở các nước khác.
Đảng Cộng sản Thụy Điển, mặc dù có số lượng người ủng hộ đông đảo, nhưng không đủ mạnh để đóng một vai trò chính trị quyết định. Nhiệm vụ chính của đảng là cung cấp phương tiện, tổ chức các cơ sở bí mật và giúp đỡ các điệp viên Xô Viết hoạt động chống lại các nước Bắc Âu và Tây Âu. Do đó họ chắc sẽ có lợi cho tôi.
Tôi được biết mấy năm trước một công dân Thụy Điển có tên là Nilsh Flisz đã ra khỏi Đảng Cộng sản sau khi tư tưởng chính trị của anh ta thay đổi ngả sang hướng phát xít và dân chủ xã hội. Anh ta đã thành lập một nhóm chính trị của riêng mình được tổ chức không tồi và cho ra tờ báo “Folkets Dagblat”. Tổ chức của Flisz có gần một nghìn thành viên là công nhân. Biết rằng Flisz đang gặp khó khăn về tài chính, tôi quyết định mạo hiểm sử dụng anh ta cho mục đích của mình, nhưng đầu tiên tôi muốn gặp gỡ với anh ta. Tôi đã quen nghi ngờ tất cả mọi chuyện và tất cả mọi người. Suy xét từ việc là bình thường theo chiến thuật của phía Xô Viết, Flisz có thể ra khỏi Đảng Cộng sản với sự cho phép và ủng hộ của tình báo Nga và họ đã giao cho anh ta một nhiệm vụ đúng kiểu như chúng tôi đang làm, nói thẳng là thâm nhập vào mạng lưới tình báo của chúng tôi. Theo kinh nghiệm, tôi biết người Nga sử dụng rộng rãi chiến thuật “con ngựa thành Troa” và cho phép các điệp viên thoải mái về thời gian để thu xếp hoạt động của mình. Tôi cần phải hành động cực kỳ thận trọng, không để những bạn bè Thụy Điển của mình lâm vào tình thế khó xử. Vì vậy tôi cần phải làm cho họ hiểu rõ rằng hoạt động của tôi không nhằm chống lại Thụy Điển. Trách nhiệm của Flisz đối với đất nước của mình không làm tôi băn khoăn, đó là công việc nội bộ của người Thụy Điển. Tôi quyết định sang đó không cần phải giấu giếm mà sẽ đến Stockholm một cách đường hoàng minh bạch.
Ban Đối ngoại của cảnh sát tư pháp Thụy Điển đặt ra cho tôi một số câu hỏi theo thủ tục và điều đó tạo cớ hợp pháp để thiết lập mối liên hệ với các đơn vị của cảnh sát mật Thụy Điển. Nhược điểm của một chuyến công vụ công khai là ở chỗ người ta sẽ bố trí theo dõi tôi một cách chặt chẽ. Nhưng tôi cũng đã chuẩn bị cho mình những điều kiện, như tôi hy vọng, sẽ giúp tôi khi cần thiết cắt được đuôi.
Tôi biết nhiều và yêu mến Stokholm, vì vậy hai ngày đầu tôi nghỉ ngơi giải toả sau mấy tháng liền làm việc căng thẳng. Lần đầu tiên tôi hiểu rằng cuộc đấu tranh của tôi chống lại cỗ máy của một nhà nước cảnh sát đã khiến tôi lo lắng như thế nào. Đứng đầu nhà nước đó là những người không hề chú ý tới những sơ xuất và nhược điểm của từng người thừa hành. Cỗ máy chạy ầm ầm, lao hết tốc độ, tiếng ầm đó đối với họ là bằng chứng của quyền lực họ nắm và sự an toàn của chính họ; trong niềm say sưa quyền lực ấy, họ hoàn toàn không hiểu rằng đã tiến rất gần tới sự sụp đổ. Tôi lo lắng không chỉ cho số phận của nước Đức mà còn cho số phận của chính bản thân. Không phải tôi nghi ngờ vào thắng lợi của nước Đức hoặc không làm mọi việc tôi có thể làm để đạt được thắng lợi đó. Nhưng chính ở Stockholm, lời cảnh báo đầu tiên đã vang lên trong tiềm thức của tôi. Lần đầu tiên tôi nhận thức rõ sự cần thiết phải sử dụng mọi khả năng của riêng mình và của cơ quan mà tôi lãnh đạo để thiết lập mối liên hệ với kẻ thù. Trong điều kiện chiến tranh, cuộc chiến tranh mà có thể kết thúc bằng thắng lợi triệt để hoặc thất bại hoàn toàn, tôi quyết định định hướng hoạt động tình báo, với tất cả các mối liên hệ rối rắm và đa dạng của nó, không chỉ nhằm thu thập các thông tin bí mật mà còn để thiết lập sự tiếp xúc với các cường quốc đang giao tranh: vào một ngày đẹp trời nào đó những mối liên hệ ấy có thể cứu chúng tôi khỏi tai họa thảm khốc và đưa tới hòa bình. Khi nói chuyện với những người dưới quyền của mình ở Thụy Điển, tôi thành thật thú nhận rằng cuộc chiến tranh với nước Nga cực kỳ khốc liệt, nhưng tôi tin vào thắng lợi cuối cùng của nước Đức.
Những ngày làm việc đầu tiên dành cho cuộc tham khảo tư vấn với các điệp viên của tôi về các vấn đề tổ chức và nhân sự cũng như việc thực hiện nhiệm vụ chính - cung cấp tài chính bí mật cho các nhóm phát xít Thụy Điển. Tôi cảm thấy mình bị theo dõi bởi các cơ quan mật vụ đủ loại và đã định gạt bỏ kế hoạch gặp Flisz. Nhưng cuộc gặp gỡ vẫn được tiến hành: anh ta không gây cho tôi các ấn tượng xấu dù về mặt thể chất trông có vẻ suy sụp. Tuy vậy, tôi nghĩ rằng anh ta có thể làm việc không tồi khoảng hai ba năm. Tôi bắt đầu cuộc tiếp xúc bằng cách đưa cho anh ta một món tiền khá lớn để trợ giúp tài chính cho hoạt động của anh ta và cũng để gieo vào lòng anh ta sự tự tin và khơi gợi nhiệt tình. Tôi nói cứ nửa tháng một, tôi muốn nhận được một báo cáo chung về tâm trạng chính trị của những nhóm người thuộc các nghề nghiệp khác nhau. Nếu có điều gì đó mang ý nghĩa đặc biệt đáng quan tâm, anh ta có thể gửi cho tôi một báo cáo bất thường. Cứ mỗi tuần tôi định sẽ trao cho anh ta một nhiệm vụ đặc biệt. Công việc chính là trong một thời gian ngắn nhất phải xây dựng được một mạng lưới thông tin chắc chắn và hiệu quả. Anh ta có thể sử dụng mạng lưới này vì lợi ích của tờ báo “Folkets Dagblat” mà tôi cũng dự định cung cấp tài chính cho nó. Mục đích chính là thu thập thông tin về Đảng Cộng sản Thụy Điển và tìm hiểu rõ xem tình báo Nga đã sử dụng các đảng viên của nó như thế nào. Công việc chỉ có thể đạt được kết quả nếu biết làm việc một cách hệ thống, tạo ra một bức tranh chung kiểu như sắp xếp chúng từ những mảnh nhỏ thành các họa tiết. Chỉ khi đó mới rút ra được kết luận về nhân sự, về các kênh liên lạc và phương pháp hoạt động của đảng đó ở Trung Âu.
Flisz hơi ngỡ ngàng và ỉu xìu, đặc biệt khi tôi giải thích ít ra phải có mười đồng đội tốt nhất của anh ta cần công khai tuyên bố đoạn tuyệt với nhóm và quay trở lại Đảng Cộng sản. Ở đó họ phải hoạt động hết sức tích cực chống lại anh ta và tờ báo của anh ta để khôi phục lòng tin của người Nga. Anh ta cần phải nói chuyện riêng với từng người trong số họ, không để cho người khác biết, phải giảng giải một cách chi tiết về trách nhiệm và khơi gợi được lòng trung thành ở họ. Ở điểm này, tôi cũng gợi ý đến các biện pháp an ninh cần phải áp dụng để họ trong thực tế không chạy sang phía cộng sản.
Nếu như họ thiết lập được mối liên hệ với người Nga, việc liên lạc với họ phải được thực hiện hết sức trân trọng và không được vội giao các nhiệm vụ đặc biệt. Vội vã sẽ làm hỏng việc. Khi lựa chọn các điệp viên, Flisz cần phải đặc biệt chú ý để tìm ra được những người có tính cách mạnh mẽ và tuyệt đối trung thành với anh ta.
Cuối cùng Flisz cũng hiểu được tôi muốn gì và anh ta tuyên bố sẽ làm tất cả những gì tôi yêu cầu, mặc dù luôn miệng nói rằng không muốn gây tổn hại cho lợi ích đất nước mình. Nhưng ngay lúc này tôi cũng chưa muốn để anh ta đưa ra những cam kết cụ thể mà chỉ đề nghị anh ta suy nghĩ cẩn thận thấu đáo về mọi việc. Khi ra về, tôi thấy anh ta có vẻ cương quyết và hăng hái hơn; nhiệm vụ đặt ra đã làm anh ta quan tâm.
Sau khi anh ta ra về, tôi ngồi lại một lúc trong căn phòng đầy khói thuốc, chìm đắm trong suy nghĩ. Tôi cần một vài phút để dẹp bỏ nỗi nghi ngờ của mình. Thực ra ai có thể nhìn thấu và hiểu được lòng dạ kẻ khác? Điều duy nhất có thể làm là ngồi và chờ đợi. Kết quả công việc sẽ là tiêu chí tốt nhất để xem xét sự nghi ngờ đó là đúng hay không.
Khi cung cấp tài chính cho chiến dịch phải đặc biệt chú ý đến việc chuyển ngoại tệ để không làm cho cơ quan thuế của Thụy Điển nghi ngờ. Việc chuyển tiền phải được tiến hành sao cho không gây ra sự thắc mắc về chuyện Flisz nhận được những món tiền lớn. Nhưng những nỗ lực của tôi đã đem lại kết quả tốt đến mức không ngờ. Flisz thông báo là đã có nguồn tin trực tiếp từ người Nga về việc họ đang chuẩn bị một cuộc phản công lớn vào mùa đông này. Trong báo cáo của anh ta nói rõ quân Nga sẽ tấn công ở khu vực Moskva, nơi quân đội Đức trên đà tấn công đã đột nhập sâu nhất vào vành đai phòng thủ của họ, nhưng báo cáo lại không nêu được chính xác đối phương sẽ sử dụng những lực lượng nào: các sư đoàn được chuyển từ Xibiri tới hay là các đơn vị mới được thành lập trong quá trình động viên ở các vùng trung tâm. Flisz cho rằng tham gia vào cuộc phản công sẽ có từ 50 đến 65 sư đoàn được chuẩn bị đầy đủ điều kiện hoạt động vào mùa đông, trong đó có ít nhất 20 sư đoàn cơ giới hóa hoàn toàn.
Báo cáo đó làm tôi đặc biệt quan tâm bởi vì từ giữa tháng 11 tôi đã nhận được tin tức từ các điệp viên Nga của mình về việc thành lập các quân đoàn mới ở miền trung nước Nga. Phòng Phân tích của Bộ Tổng Tham mưu Đức, dựa trên các tài liệu, thông tin của quân báo mặt trận và lời khai của các tù binh, cũng cho rằng những đơn vị mới chỉ có thể đến mặt trận vào trung tuần tháng 12. Những thông tin chính xác và quan trọng cũng thu được từ những cuộc nói chuyện riêng của các quan chức ngoại giao cao cấp trong Sứ quán Nga, có vẻ như họ không biết mình bị nghe trộm. Nguồn thông tin chính lại chính là các đảng viên cộng sản Thụy Điển - những người có quan hệ riêng mật thiết với các nhân viên của Sứ quán Nga.
Ngay sau đó tôi có buổi nói chuyện với một đồng nghiệp của mình. Ông ta không bổ sung thêm điều gì quan trọng vào những thông tin đó và cam đoan với tôi rằng, theo những tin tức mà phía Nhật có được, người Nga hoàn toàn tin vào sự trung lập của nước Nhật và trong chiến lược của mình, họ tính rằng có khả năng tiếp tục chiến tranh với nước Đức vì không bị phân tán lực lượng để dự phòng chống trả cuộc tấn công của Nhật ở phía đông.
Tin tức này quan trọng đến mức tôi vội rút ngắn buổi viếng thăm để chuẩn bị bản báo cáo và định trực tiếp trình bày nó. Vì thế tôi không gặp gỡ được với Flisz như dự kiến ban đầu để nói chuyện một cách rõ ràng dứt khoát. Quay trở lại nơi làm việc của mình ở Berlin, việc đầu tiên là tôi phải đọc báo cáo của một viên thanh tra đặc biệt đang theo dõi hoạt động của nhân viên dưới quyền ở Madrid (tôi chưa có dịp trao đổi trực tiếp với ông này). Tóc tai tôi dựng đứng vì tình hình thực sự đáng sợ. Một trong những điệp viên chính của tôi - một công nhân nghiêm túc và giàu óc sáng kiến - đã tổ chức được một mạng lưới những người cung cấp thông tin và được đánh giá rất tốt vấn đề duy nhất của anh ta là thiết lập mối quan hệ với Sứ quán Anh, và cả ở đây anh ta cuối cùng cũng đã tạo được những mối liên hệ công tác. Nhưng đó là điểm son duy nhất trong toàn bộ báo cáo. Tất cả mọi điều còn lại tồi tệ đến mức không tưởng được. Nhưng tôi cũng không định che giấu những sai lầm vì sự tự ái giả tạo. Điện đài chính của mạng lưới được bố trí ở một căn phòng phía sau của khách sạn. Các nhân viên phụ trách biến nó thành sở chỉ huy của mình, thành nơi gặp gỡ các điệp viên và vào ngày nhận lương họ đã tổ chức ở đây những buổi nhậu. Họ chiêu mộ người chủ khách sạn và giao cho anh ta làm thủ quỹ. Máy tính tiền trở thành kho đựng các phương tiện tình báo: toàn bộ tiền nong và biên lai nhận tiền lưu giữ ở đây. Cảnh sát địa phương biết tất cả mọi chuyện xảy ra và cũng tham gia vào các cuộc nhậu. Một vài người trong số họ là các điệp viên được gài vào làm việc cho cơ quan tình báo các nước khác. Sau mới rõ là không chỉ cảnh sát Tây Ban Nha mà Cơ quan Tình báo của kẻ địch cũng nắm được mật mã mà điện đài chủ chốt của chúng tôi sử dụng và đọc được tất cả các bức điện gửi đi từ căn phòng phía sau ấy. May mắn cho tôi là do tình hình phức tạp ở đó, nên tất cả các tin tức do điện đài của chúng tôi chuyển về đều là những điều hoàn toàn vớ vẩn bỏ đi. Có lúc tôi đã nghĩ, liệu có nên vứt bỏ hay đánh lạc hướng đối phương cho đến lúc tôi thành lập được một nhóm mới ở đâu đó.
Cuối cùng tôi gạt bản báo cáo sang bên. Tôi hốt hoảng nghĩ rằng ban lãnh đạo cấp cao thực ra cũng được cung cấp những thông tin thu thập như vậy. Trong khi đó ngoài cửa phòng làm việc của tôi đang có vài người đợi. Một trong số họ là chuyên gia về Bungari từ Phòng Phân tích Tin tức Tình báo đến. Báo cáo của anh ta chính xác, ngắn gọn, chứng tỏ sự hiểu biết sâu sắc về công việc. Cuộc nói chuyện tiếp theo đó còn đau đầu hơn nhiều: nó đề cập tới một vấn đề động chạm đến toàn bộ đường lối ở vùng Trung Cận Đông của chúng tôi - phản ứng của khu vực với mưu toan đảo chính thất bại của Al-Haliani ở Iraq làm chúng tôi mất đi phần lớn cảm tình của khu vực Ả Rập. Chúng tôi cần phải khôi phục lại mối quan hệ thân hữu với nước Đức ở các nước đó, và tôi yêu cầu anh ta trình bày tất cả những điều đó bằng văn bản, bởi vì tôi định thảo luận vấn đề này với Bộ Ngoại giao và Bộ Chỉ huy tối cao Quân đội Đức. Tiếp theo là cuộc họp về những vấn đề kỹ thuật và sau cùng tôi lại quay lại với đống giấy tờ trên bàn làm việc của mình.
Gần 2 giờ sáng, tôi mệt đến mức không còn hiểu mình đang đọc gì nữa nên đi về nhà. Cả nhà đã ngủ. Tôi ngó qua vào phòng lũ trẻ rồi thở dài nặng nề đổ vật ra giường. Vợ tôi thức giấc lo lắng ra mặt nói:
— Anh không thể sống thế này mãi.
Nhưng tôi đã quá mệt và không thể đáp lại gì. Điều tiếp theo mà tôi nghe thấy là giọng nói của vợ vẳng tới tai tôi như từ đâu đó rất xa:
— Anh, Walter, Walter! Máy bay ném bom! Mặc quần áo vào và đưa lũ trẻ xuống tầng hầm thôi.
— Đó mới chỉ là báo động xa thôi, - tôi đáp lại - nếu như đúng là có không kích, chúng mình còn đủ thời gian để xuống đó.
Tôi sống ngay sát khu Kurfurstendam. Gần đó có một đội pháo cao xạ bố trí; khi chúng phát hoả, toàn bộ căn hộ (chúng tôi sống ở tầng 5) rung lên bần bật. Tiếng ầm ầm của pháo bắn ngày càng dữ dội, mặt đất rung chuyển vì bom nổ. Tôi bước lại phía cửa sổ, vẫn chưa biết phải làm gì và đột nhiên nhìn thấy một chiếc máy bay ném bom lớn lộ ra trong các luồng sáng đèn pha đan chéo. Rơi vào lưới lửa của các khẩu pháo cao xạ, nó cố tránh đi nhưng không được.
— Tốt nhất là chúng ta xuống hầm ngay thôi, - tôi nói. Quay người khỏi cửa sổ, tôi nghe tiếng rít của bom rơi. Tôi hét lên bảo vợ nằm xuống nhưng cô đã lao vào phòng lũ trẻ, vừa đúng đến cửa thì một tiếng nổ dữ dội vang lên. Cô gục xuống sàn, còn tôi bị nhấc bổng lên không, văng vào bức tường đối diện. Tôi nghe thấy tiếng kính vỡ, tiếng sầm sập của những viên gạch rơi xuống - sau đó là tĩnh lặng hoàn toàn. Một thoáng sau trong đêm vang lên những tiếng kêu cứu. Tiếng các khẩu lệnh, tiếng chân người rầm rập. Tôi nghe thấy tiếng khản đặc của vợ: “Anh không sao chứ?”. Tôi không biết: toàn thân vẫn còn choáng váng. Cô tỉnh lại nhanh hơn tôi và rồi lao vào phòng tụi trẻ, giẫm đạp trên các mảnh kính và đồ đạc ngổn ngang. Tôi chạy theo, xấu hổ khi thấy rằng phụ nữ phản ứng nhanh hơn trong những trường hợp như vậy. Vợ tôi giật tung cánh cửa đã đổ nghiêng và… dưới tấm chăn phủ đầy bụi, đứa con trai bé bỏng của chúng tôi mỉm cười với mẹ nó, một nụ cười hạnh phúc, nó vẫn nguyên vẹn và không hề hấn gì. Mọi thứ trong phòng từ cửa sổ đến đồ gỗ đều gãy nát; ngay trên tường ở đầu giường một mảnh bom lởm chởm vẫn còn mắc ở đó. Tôi và vợ quỳ sụp xuống trước giường, và trong khoảng khắc ánh mắt của chúng tôi gặp nhau.
Chúng tôi xúc động đến mức không còn nghe thấy tiếng hét từ phía dưới: “Này tầng năm điên cả hết rồi sao? Tắt ngay đèn đi, không thấy bọn chúng vẫn còn ở trên đầu đấy à”. Chúng tôi vội tắt đèn và chạy xuống tầng hầm. Sau này tôi ra ngoài xem chuyện gì xảy ra. Một cảnh khủng khiếp không tưởng tượng nổi: trong bán kính 100 mét, một chuỗi năm quả bom đã rơi xuống. Một quả trong số đó đã rơi đúng móng nhà và phạt đi cả nửa phần bên trái của nó. Rất may là hầm trú ẩn của chúng tôi không ở phía đó, nếu không chúng tôi đã chết rồi.
Sau khi báo yên, tôi và vợ bắt đầu thu dọn đồ đạc vung vãi. Tôi pha cà phê và chúng tôi ngồi với nhau cho đến lúc tôi phải đi. Trong buổi cưỡi ngựa đi dạo buổi sáng, tôi gặp Canaris. Khi tôi kể cho ông ta về sự cố ban đêm, ông ta rất hốt hoảng (ông ta thường như thế) và gay gắt mắng tôi vì đã không chịu xuống hầm ngay. Buổi sáng hôm đó cuộc cưỡi ngựa đi dạo rất buồn chán. Mãi đến bữa trưa chúng tôi mới nói về công việc. Chúng tôi thảo luận chi tiết về tiềm năng quân sự của Nhật và Canaris đề nghị chuyển cho ông ta những tài liệu mà tôi có về vấn đề đó, ông ta muốn tự mình phân tích chúng. Ông ta cũng hỏi xem liệu Heydrich đã chuyển cho Quốc trưởng những tài liệu có thể làm tăng thêm tinh thần thân Nhật của Quốc trưởng chưa.
— Chưa, trong chừng mực tôi biết thì chưa, - tôi trả lời. - Tôi biết rằng Heydrich rất quan tâm đến nước Nhật và hiểu biết khá tốt về lịch sử của nó. Quả thực ngay trước cuộc chiến với Nga ông ta đã ra lệnh cho vài sĩ quan SS học tiếng Nhật. Ông ta muốn phái 40 người trong số đó sang phục vụ trong quân đội Nhật và về phía mình sẽ tiếp nhận 40 sĩ quan Nhật sang phục vụ. Sau này ông ta còn định phái 20 cán bộ tốt nhất của chúng tôi đi làm nhiệm vụ tình báo ở Viễn Đông. Ông ta còn muốn tôi nghiên cứu về lịch sử và tôn giáo của nước Nhật, cơ cấu nhà nước, ảnh hưởng của nhà thờ Cơ đốc tới các trường đại học của Nhật.
Canaris nhìn tôi với cặp mắt mở to.
— Và anh đã làm tất cả những việc đó? - ông ta hỏi.
Tôi trả lời rằng chưa.
— Vì mối quan tâm đến lối sống Nhật đã giảm sút khi sự việc đưa đến cái gọi là nguyên tắc chủng tộc. - Tôi nói thêm với vẻ châm biếm.
— Anh có ý gì? - Canaris thích thú hỏi.
— Chuyện là thế này. Trong Sứ quán Nhật có một nhân viên đang làm việc và muốn cưới một cô gái Đức. Himmler phản đối, Hitler tất nhiên cũng vậy, còn Ribbentrop thì ủng hộ. Họ cứ bàn quanh đi quẩn lại đến mấy tháng. Các chuyên gia về chủng tộc đã lục lọi hết cả núi giấy tờ rồi rốt cuộc cũng tìm được trong luật về chủng tộc một kẽ hở cho phép họ được cưới nhau.
Đột nhiên Canaris hỏi tôi với vẻ mặt ngây thơ:
— Anh nói chuyện gì với anh bạn người Nhật ở Stockholm?
Câu hỏi làm cho tôi khó chịu và tôi trả lời rằng tôi không nói chuyện gì với anh chàng Nhật đó cả. Thậm chí nếu như có cuộc nói chuyện ấy thì tôi cũng chối phắt, và ông ta biết rõ điều đó. Ông ta chắc cũng hiểu là tôi không muốn nói về chuyện đó nhưng vẫn làm bộ bị xúc phạm bởi câu trả lời tự chối của tôi.
— Anh có một điệp viên cự phách làm việc cho người Nhật và anh chắc chắn đã nói chuyện với anh ta.
Điều đó là đúng sự thật. Tôi có một nhân viên ở Stockholm, một người Ý có trình độ học vấn tuyệt vời có quyền ra vào Sứ quán Nhật là nơi anh ta đã làm phiên dịch nhiều năm. Anh ta chiếm được lòng tin của người Nhật và nhờ trí thông minh, kinh nghiệm và khả năng ngoại ngữ, anh ta thường thu thập được những thông tin giá trị không mấy khó khăn. Quả thực tôi đã tăng tiền công cho anh ta trong thời gian tôi đến Stockholm, mặc dù bản thân tôi không nói chuyện với anh ta. Nhưng điều gì ẩn đằng sau sự tò mò dai dẳng của Canaris? Tôi biết được điều đó rất nhanh trong bữa trưa mà Heydrich mời tôi ngay sau đó. Trước bữa ăn tôi báo cáo ngắn gọn với ông ta về công việc của mình. Ông ta đặc biệt lưu tâm tới câu chuyện về sự thất bại nhục nhã của các điệp viên ở Tây Ban Nha, tuy nhiên tôi đã thuyết phục được ông ta rằng các hình phạt nghiêm khắc hơn so với việc thải hồi khỏi vị trí công tác sẽ gây ra cho tôi những khó khăn về mặt tâm lý trong mối quan hệ qua lại với những nhân viên dưới quyền. Lần đầu tiên tôi nói với ông ta về những vấn đề của nhân viên nảy sinh do việc cải tổ nhanh chóng, tuy rằng cần thiết, trong nội bộ cục. Tôi cho rằng nếu như có người phải chịu kỷ luật thì đó là người tiền nhiệm của tôi. Sự châm chọc đó đã tác động đến Heydrich. Ông ta biết rằng tôi không chia sẻ thái độ của ông ta đối với con người đó, bất chấp những động cơ trong cách cư xử của ông ta. Ông ta lập tức thay đổi chủ đề câu chuyện.
— Hôm nay chúng ta cần bàn nhiều chuyện - Ông ta nói. - Tốt hơn là chúng ta vừa ăn vừa bàn, khi đó không ai quấy rầy chúng ta.
Món ăn yêu thích của ông ta được dọn lên: xúp bavaria là món nấu đặc biệt bí truyền của đầu bếp riêng phục vụ Heydrich. Ông ta tỏ ra đặc biệt ân cần. Vì biết tính ông ta, tôi bắt đầu cảm thấy lo sợ rằng ngay bây giờ ông ta sẽ báo là tôi bị chuyển sang mặt trận phía đông như là hình thức kỷ luật vì đã có nhận xét đầy thiện cảm về bác sĩ Best, một cựu nhân viên SD. Như đáp lại ý nghĩ của tôi, Heydrich nói ngay:
— Tôi không thể làm việc thiếu sự trợ giúp của anh ở đây, ở Berlin này, và tôi đã gạt bỏ ý nghĩ phái anh sang mặt trận phía đông. Anh có thể thấy thú vị vì thực ra tôi đã nói điều này với Himmler nhưng ông ta đã phản đối ý tưởng đó. Có vẻ anh được ông ta bảo trợ. Ông ta tuyên bố mọi sự thay đổi trách vụ của anh phải được ông ta đồng ý. Tôi muốn biết, anh Schellenberg thân mến, làm sao anh có được uy tín ấy. Nhưng nếu là anh, tôi không quá dựa vào nó đâu.
Sau khi tôi đã thuật lại ngắn gọn cho ông ta nghe về chuyến đi Thụy Điển, ông ta rút cuốn sổ tay nhỏ và nhanh chóng phác ra vài điểm lưu ý rút ra từ cuộc trò chuyện của chúng tôi về chủ đề khác.
Tôi còn nhớ chúng tôi đã nói về những vấn đề sau: thứ nhất, ông ta quan tâm đến ý kiến của tôi về hoạt động của Rosenberg nhằm thành lập Bộ Lãnh thổ Phía Đông mà các nguyên tắc chỉ đạo đã được xác định trong cuộc họp ngày 16 tháng 7 năm 1941, trong đó đã trình bày cơ sở đường lối chính sách chiếm đóng của Đức trên đất Nga. Tham gia cuộc họp đó có Goering, Keitel, Rosenberg, Bormann. Hitler đề nghị chia cắt nước Nga và cai trị nó như thuộc địa, phớt lờ nguyện vọng tự trị của nhiều dân tộc Liên Xô. Nhận xét của Heydrich chứng tỏ tính phi lý, thiếu khôn ngoan trong đường lối nhằm khuất phục dân Nga, lũ dân không được coi là người mà Hitler đang tiến hành.
— Quốc trưởng đòi phải sử dụng triệt để, không thương tiếc lực lượng RSFT[9], - Heydrich nói - Ngài muốn thật nhanh chóng thành lập được hệ thống thu thập tin tức có tổ chức chặt chẽ, một hệ thống không thua kém NKVD[10] hoạt động thường xuyên, kiên quyết để không ở đâu trên đất Nga, trong vòng bí mật lại xuất hiện một lãnh tụ kiểu Stalin. Nếu như người đó xuất hiện cần phát hiện và kịp thời tiêu diệt. Đại bộ phận dân Nga bản thân không phải là mối nguy hiểm. Dân Nga chỉ nguy hiểm khi trong số họ có những nhân vật như vậy xuất hiện và phát triển.
Tôi trầm ngâm ngước nhìn Heydrich. Ông ta đọc được suy nghĩ của tôi qua ánh mắt và nhún vai. Liệu Heydrich có tin vào những điều nhảm nhí đó không? Vào giây phút này không thể nào hiểu được ông ta. Tôi bình thản nói:
— Liệu có thể khuất phục được một dân tộc 200 triệu người bằng lực lượng cảnh sát nước ngoài không, đặc biệt nếu không trao quyền tự trị cho các dân tộc ít người căm thù hệ thống Xô Viết và không lôi kéo họ về phía chúng ta. Rốt cuộc, điều đó chắc sẽ xảy ra, ta sẽ đẩy họ về phía một phong trào Đại Slave nào đó. Tôi nghĩ, chúng ta nên tạo ra một vài thể chế tự trị và khuyến khích ủng hộ các nhà lãnh đạo dân tộc chủ nghĩa của họ. Lúc đó chúng ta có thể thu lợi trên mối hằn thù lẫn nhau của họ. Hãy nghĩ tới những người đại loại như thuộc Ucraina, Gruzia, Belarux kiểu như Melnhic và Bandera…
Heydrich ngạc nhiên và bực bội, ngồi lặng thinh một lúc:
— Anh không biết gì về những vấn đề như thế này cả - ông ta nói. - Sự pha trộn chủng tộc, nếu thực hiện một cách có định hướng trong vài thập kỷ, sẽ đem lại chính hiệu quả như thế và điều đó chứng minh sự đúng đắn của Quốc trưởng.
Tất cả điều đó gợi lên một sự ngờ vực trong tôi. Tôi nhắc Heydrich là mấy ngày trước đây trong bữa trưa, chính ông ta đã được nghe nói về các công trình nghiên cứu khoa học do giáo sư de Crinis tiến hành. Theo như dữ liệu của ông ta, các nhạc sĩ, nhà triết học, bác học vĩ đại nhất của Đức xuất thân từ các vùng có sự pha trộn chủng tộc mạnh mẽ. Heydrich gạt bỏ ý tưởng của de Crinis:
— Ông giáo sư này chỉ được cái nghĩ ra đủ điều vớ vẩn. Ông ta là người dễ thiện cảm, nhưng không thể coi ông ta là một nhà khoa học nghiêm túc.
Cuối cùng Heydrich kết thúc cuộc tranh luận bằng cách ra một lệnh ngắn:
— Anh phải tích cực thúc đẩy hoạt động tình báo chống lại nước Nga. Quốc trưởng tỏ ra rất lo lắng về chuyện này. Ngài cho rằng bất kỳ thông tin nào về chính sách đối nội của Stalin cũng cực kỳ quan trọng, đặc biệt là về chiến tranh du kích và quan hệ giữa đảng và quân đội.
Thời gian này không khí chính trị ở Berlin ngày càng ảm đạm. Cuộc tấn công về phía đông bị chững lại. Quân đội vốn được chuẩn bị cho những chiến dịch mùa hè đang run rẩy trước mùa đông Nga khắc nghiệt. Trách nhiệm để xảy ra việc này phải chia đều cho các tướng lĩnh chỉ huy quân đội Đức và Hitler. Cả các tướng lĩnh, cả Hitler đều sống bằng những ý tưởng không tưởng và từ chối nghe những ý kiến phê phán. Các sĩ quan ngoài mặt trận báo cáo về Bộ Tham mưu thảm họa đang đến gần, nhưng vô ích.
Những tính toán của Stalin mà tôi được cảnh báo trước đã được biện minh trọn vẹn trong vòng sáu tháng. Báo cáo của tôi về việc quân Nga được chuyển từ Xibiri sang khu vực Châu Âu của nước Nga được ban lãnh đạo đón nhận với sự quan tâm, nhưng lại cho rằng các con số ở đây đã được tính toán quá cao và không ai thực thi biện pháp đối phó nào, mặc dù quân báo ngoài mặt trận và việc hỏi cung tù binh tiếp tục khẳng định tin tức của tôi.
Ngày 19 tháng 12 năm 1941, Hitler cách chức thống chế của Von Brauchitsch và nhậm chức tổng tư lệnh. Đó là cương vị cao nhất của một chế độ độc tài cảnh sát. Quyết định của Hitler có nghĩa là lực lượng vũ trang hoàn toàn nằm trong tay ông ta. Sau đó bắt đầu cuộc phản công vĩ đại của Nga và các cuộc phòng ngự chống trả tuyệt vọng của quân đội Đức trên đường rút lui. Việc quân đội Đức lúc đó được trang bị tồi, rét cóng, kiệt sức không bị tan vỡ dưới đòn tấn công của quân Nga mới là chiến thắng vĩ đại nhất của chúng tôi trong Chiến tranh Thế giới thứ II.
[10] NKVD: Bộ Dân ủy Nội vụ Liên Xô.
[11] Non grata: không được hoan nghênh.