← Quay lại trang sách

Chương 6 XUNG QUANH VỤ SPEARL-HARBOUR

Đầu mùa thu năm 1941, quan hệ với nước Nhật rất không rõ ràng, đặc biệt do ảnh hưởng của các mối tiếp xúc giữa Nhật và Mĩ. Bộ trưởng ngoại giao Nhật và viên thứ trưởng của ông ta, khi trả lời đại sứ Đức ở Tokyo vào đầu tháng 9, đã phủ nhận thông tin về cuộc đàm phán giữa Nhật và Mĩ. Hitler có cớ để cảm thấy không hài lòng về cách cư xử mang tính xúc phạm như thế của một nước thành viên trong bộ ba trục phát xít. Mặc những nỗ lực của Ribbentrop, người Nhật vẫn không phản ứng với đề nghị tham gia vào cuộc chiến với Liên Xô. Không rõ người Nhật có mở các cuộc tấn công ở khu vực Nam Thái Bình Dương hay không, hay là chỉ hạn chế trong việc tiếp tục các chiến dịch ở Trung Quốc. Vì thế Quốc trưởng ra lệnh cho Canaris và Heydrich sử dụng mọi phương tiện có thể để nhận được câu trả lời về các vấn đề trên. Nhưng nhiệm vụ được giao rất chung chung khiến bản thân tôi phải vất vả suy nghĩ và thảo ra các phương án giải quyết chúng. Bất chợt tôi nhớ ra tại sao Canaris lại dai dẳng hỏi dò tôi về cuộc nói chuyện với người Nhật ở Stockholm. Khi tôi kể việc đó cho Heydrich, ông ta đã thốt lên: “Rõ là đồ cáo già! Ông ta chỉ muốn dò xem chúng ta đã nhận nhiệm vụ đó chưa”. Ông ta hỏi tôi về các kế hoạch của tôi và nhấn mạnh rằng đừng có tiếc tiền. Tôi nhắc đến tình trạng căng thẳng về chi dùng ngoại tệ, nhưng ông ta chỉ nói gọn lỏn: “Anh cứ đi đi và cần bàn với ai thì bàn.”

Ngay lập tức tôi lợi dụng dịp này và yêu cầu cho phép thành lập một quĩ sử dụng ngoại tệ riêng, không phụ thuộc vào RSHA và sẽ được đặt dưới sự kiểm soát của riêng tôi. Ông ta đồng ý ngay. Đó là một thành công bất ngờ, một bước tiếp theo trên con đường đạt tới mục tiêu của tôi.

Chẳng bao lâu sau đó tôi phải bay sang Tây Ban Nha để xem mạng lưới mới của tôi hoạt động thế nào. Ở Madrid, một người bạn Nhật từ Lisbon gọi điện cho tôi và tha thiết yêu cầu được gặp tôi. Tôi không có thời gian và hết sức ngạc nhiên khi ngày hôm sau phát hiện ra anh ta đã tới Madrid. Anh ta rất xúc động và nói lẫn lộn vài thứ tiếng, chủ yếu là tiếng Đức và tiếng Pháp. Anh ta báo cáo với tôi rằng cuộc đàm phán giữa Nhật và Mĩ thực tế đã thất bại: rõ ràng nước Nhật chuẩn bị chiến tranh và sẽ tiến hành một chiến dịch đổ bộ ở hướng nam. Nguyên nhân làm anh ta lo lắng là đã cam đoan với Tokyo rằng sẽ nhận được sự ủng hộ từ phía Đức, nhưng bây giờ anh ta bắt đầu nghi ngờ vào điều đó. Nỗi sợ của anh ta là do thái độ thụ động của Nhật đối với nước Nga, trong khi đó Đức luôn luôn thúc họ phải tích cực hành động. Anh ta muốn nhận được ở tôi lời cam đoan rằng nước Nhật sẽ không bị bỏ mặc một mình đối đầu với nước Mĩ.

Vốn rất thận trọng trong khi trả lời nhưng tôi vẫn làm anh ta yên lòng. Tôi tuyên bố rằng Hitler và Ribbentrop chắc chắn sẽ tuyên chiến, đặc biệt trong hoàn cảnh quan hệ giữa Đức và Mĩ đang rất căng thẳng. Còn đối với những thông tin về dự định của Nhật, tôi đề nghị khai thác chúng bằng cách sẽ gửi các chỉ lệnh phù hợp cho tất cả các chi nhánh của chúng tôi có quan hệ công tác với phía Nhật ở Ankara, Belgrad, Berlin, Buenos Aires, Lisbon, Roma, Thượng Hải, Stockholm, Tokyo và Vichy. Tôi coi Vichy là đặc biệt quan trọng bởi vì vào thời gian này người Nhật đang tiến hành đàm phán với Pétain về việc họ chiếm đóng Đông Dương. Một điệp viên người Pháp đã chuyển cho tôi những tài liệu cực kỳ quý giá về những chuyện diễn ra trong hậu trường của phía Pháp cũng như phía Nhật; những thông tin này đã bổ sung cho những tài liệu chính thức mà Ribbentrop nhận được. Tôi muốn nhanh chóng nghiên cứu các tài liệu nhận được và chuẩn bị bản báo cáo cho Quốc trưởng.

Tôi đề nghị Heydrich liên hệ với tướng Fellgibel thuộc Cục Thông tin Kỹ thuật Lục quân, Tướng Fosschungsamt và Cục Nghiên cứu Khoa học. Nhiệm vụ chủ yếu là tập trung sức lực của tất cả các đơn vị để giải mã và nghe trộm ở Vichy và Belgrad. Tôi cho rằng qua những bức điện truyền đi trên sóng ngắn chung tôi có thể nhận được những thông tin thú vị. Tất nhiên những việc như thế cũng được làm để kiểm soát những thông báo qua lại giữa Berlin và Tokyo. Heydrich ngay lập tức gọi Fellgibel đến và nói chuyên với ông ta ngay trước mặt tôi, yêu cầu sau này mọi vấn đề liên hệ trực tiếp với tôi. Thật là quá bất ngờ! Dường như thế giới đảo lộn cả rồi. Tôi đã trao nhiệm vụ cho Heydrich! Sau đó tôi đề nghị với ông ta ngay lập tức nói chuyện với Frau Von Dirksen. Bà ta tổ chức một cái gì đó tương tự như một phòng khách chính trị ở Berlin và lúc này đang được Quốc trưởng ưu ái. Theo tôi được biết, đến chơi phòng khách của bà ta có hai người Nhật và họ thường say sưa nói chuyện với hai quý bà thượng lưu. Tôi thường nhận thông tin từ nguồn này, nhưng lần này tôi nghĩ tốt hơn là để cho Heydrich đích thân nói chuyện với bà chủ phòng khách: tôi không muốn chịu trách nhiệm về việc để lộ nhiệm vụ bí mật bởi quý bà Dirksen là người quá mau miệng.

Tôi nghĩ đã đến thời điểm thích hợp để đặt vấn đề về nhân sự mà bấy lâu nay tôi đã cân nhắc, mặc dù điều đó sẽ dẫn tới những cuộc trao đổi một vấn đề tế nhị. Vấn đề liên quan tới việc cho một điền chủ người vùng Pomeramaria tên là Iank trở lại công tác. Himmler và Heydrich không tin ông ta và thường có thái độ phản cảm mạnh mẽ đối với ông ta. Họ thường bới móc ông ta một cách không thương xót và gần như trù dập ông ta. Thế nhưng Iank lại giữ một mối liên hệ riêng rất trân trọng đối với tôi. Một lần tôi rất ngạc nhiên khi toàn bộ các báo cáo của ông ta suốt từ năm 1933 đến 1938 bị tịch thu. Khi còn đang làm việc ở bộ phận phản gián, tôi đã làm quen với các tài liệu ấy và định nói chuyện với ông ta nhưng rồi lại không làm, bởi vì Heydrich đã cảnh báo tôi một cách quyết liệt rằng hình như Iank là một nhân vật non grata[11] đối với Hitler, người nghi ngờ rằng ông ta là một điệp viên Anh khéo ngụy trang và có quan hệ tới việc đào thoát của Hess. Thực ra đó là ý kiến của Heydrich nhưng ông ta đã khôn khéo thuyết phục Hitler tin vào lý lẽ của mình. Vì vậy động vào việc này cũng nguy hiểm tương tự như cầm trong tay một thanh sắt nóng đỏ. Tôi nhắc đến quá khứ làm việc của Iank với kinh nghiệm hơn 25 năm phục vụ trong Cơ quan Tình báo Đức, những công trạng hiển nhiên của ông ta trong những năm Đại chiến Thế giới thứ I và nói thêm rằng đã đến lúc nên quên đi những lời đồn đại xưa cũ. Và bất kỳ thế nào tôi cũng có nghĩa vụ phải giữ ông ta trong vòng kiểm soát chặt chẽ. Nếu như ông ta thực tế là một điệp viên nước ngoài, tôi sẽ phải cư xử với ông ta hết sức thận trọng và suy cho cùng điều đó sẽ đem lại cho chúng ta nhiều ích lợi hơn là có hại.

Heydrich hiểu ngay tôi muốn gì. Ông ta biết quá khứ của Iank rõ hơn tôi. Những mối liên hệ của Iank ở vùng Viễn Đông đặc biệt quan trọng đối với nhiệm vụ chúng tôi được giao. Ông ta không chỉ là một người thân quen đối với gia tộc Tôn Dật Tiên, mà còn giữ mối liên hệ chặt chẽ với các tướng Von Schekt và Fallkenhwausen, vốn là các cựu cố vấn quân sự trong quân đội Trung Quốc. Từ năm 1935 ông ta là cố vấn của Hess về các vấn đề tình báo. Ông ta lẽ ra hoàn toàn không phải sợ gì, nếu như không có một vấn đề: “Heydrich dường như là người duy nhất trên thế giới này mà tôi phải sợ; tôi không thể tưởng tượng ra ai có thể tàn nhẫn và nguy hiểm hơn.” Một lần ông ta nói với tôi. “Con người đó có nhiều chất xám, nhiều hơn tất cả những người khác cộng lại. Nhưng nếu như con người ấy tiếp tục bóc lột chúng ta và đẩy chúng ta đến chỗ chết thì hắn cũng chết.”

Khi Iank nói điều gì đó tương tự thì trước đấy ông ta đã nghiền ngẫm không chỉ một mà cả chục lần: ông ta nói chung là một người kiệm lời. Sau này, trong một lần nói chuyện với Heydrich khi có mặt tôi, ông ta đã lặp lại y xì câu nói đó - nói thẳng vào mặt Heydrich. Heydrich tái mặt nhưng không nói gì. Tôi nói với Heydrich rằng không thấy ai thích hợp hơn cho công việc này. Tôi biết những kênh qua đó Iank có được mối liên hệ tốt đẹp với Nhật. Một trong số đó là một người Nga - một đại tá của quân đội Nga hoàng cũ, và bây giờ đã nhập quốc tịch Chilê, sống lúc ở Berlin lúc ở Paris. Người khác là một người Do Thái ở Đức xuất thân từ một gia đình danh giá, anh trai của ông ta giữ một vị thế quan trọng trong giới tài chính Anh. Tôi với Iank đã nhiều năm cố bảo vệ người này thoát khỏi luật chủng tộc ở Đức, còn Muller, kẻ thù chính của Iank, luôn tìm cách qua mặt chúng tôi. Với tính thù dai và phản trắc, ông ta suýt nữa đã đạt được mục đích của mình, còn chúng tôi phải vất vả lắm mới cứu được người đó và gia đình của ông ta thoát khỏi sự trả thù của Muller. Cuối cùng chúng tôi giúp ông ta trốn sang Thụy Sĩ bằng hộ chiếu Honduras.

Tôi định phái Iank sang Thụy Sĩ để ông ta có thể sử dụng các mối quan hệ cũ của mình ở Trung Quốc nhằm thu thập tin tức, hơn nữa vấn đề Trung Quốc là vấn đề chiếm vị trí trọng tâm trong cuộc đàm phán giữa Nhật và Mĩ. Sau một thời gian thuyết phục không lâu, Heydrich đồng ý gặp mặt Iank ngay ngày hôm sau.

Cuộc nói chuyện giữa hai người bọn họ diễn ra trong không khí hoàn toàn thân thiện. Chỉ cần xuất hiện một sự căng thẳng có thể làm nổi nóng là tôi lập tức can thiệp và xoa dịu những bất đồng. Từ đó trở đi Iank trở thành cố vấn thân cận của tôi. Ông ta hoạt động hoàn toàn độc lập với một trợ lý trẻ tuổi trong cơ cấu của “Văn phòng Iank”.

Sau khi đã đảm bảo được sự hợp tác với Iank, bước tiếp theo của tôi là chuyển những nhiệm vụ chi tiết bằng radio qua đường điện báo hoặc qua các giao thông viên cho các nhóm tình báo khác nhau hoạt động ở nước ngoài. Phải thông báo cho các tình báo viên nằm vùng về tầm quan trọng của nhiệm vụ và thời hạn thực hiện. Ngày hôm sau tôi bàn vấn đề đó với Iank. Theo ý kiến của ông ta, tôi đã hoàn toàn sai lầm vì dựa chủ yếu vào tin tức từ các nguồn phía Nhật, nhưng các nguồn từ phía Mĩ chắc chắn cũng không kém phần quan trọng và lại dễ tiếp cận hơn. Tôi đồng ý và bổ sung vào kế hoạch của mình những thay đổi cần thiết.

— Sai lầm lớn nhất là đòi hỏi Nhật tham gia vào cuộc chiến tranh chống Liên Xô, - Iank nói. - Giới cầm quyền Nhật luôn giữ nguyên tắc: bảo đảm hậu phương của Nhật. Chiến lược của họ là giới hạn trong các hoạt động ở Đông Á cho đến khi các dân tộc ở Châu Âu đánh nhau đến kiệt sức. Khẩu hiệu của họ: “Châu Á của người Châu Á”, và họ coi mình là người lãnh đạo tất yếu trong khu vực. Hiểu điều đó không có nghĩa là có thể đưa ra những lời khuyên phù hợp cho Hitler và Ribbentrop.

Do có sự giao tiếp chặt chẽ với người Nhật, Iank đi tới kết luận rằng để đảm bảo vai trò bá quyền của mình ở Viễn Đông, Nhật chắc chắn sẽ tiến xuống phía nam. Điều đó phù hợp với các tin tức nhận được từ các nguồn khác. Người Nhật hiểu rằng đường lối đó có thể dẫn tới chiến tranh với Mĩ, nhưng tạm thời họ hy vọng giành được nhiều hơn bằng con đường đàm phán. Tình báo Nhật cho rằng dường như mục đích chính của Roosevelt là giúp đỡ nước Anh. Roosevelt cho rằng nước Anh, dù đứng một mình hay liên minh với nước Nga cũng không thể thắng được nước Đức. Vấn đề Trung Quốc cũng có giá trị quyết định đối với Nhật. Quân đội Nhật kết lại với nhau qua các hoạt động tác chiến và giới quân nhân không muốn lùi một bước nào trong kế hoạch của họ. Vì thế chỉ còn một kết luận duy nhất: chúng ta không thể hy vọng vào việc Nhật tham chiến chống Liên Xô mà phải lường tới việc người Nhật tiến xuống vùng Nam Á nếu như cuộc đàm phán với Mĩ không đem lại kết quả thỏa đáng cho họ.

Còn một vấn đề thứ ba, vấn đề mà có lẽ cả Hitler, cả Ribbentrop hoàn toàn không tính đến. Việc người Nhật tiến xuống vùng Đông Nam Á sẽ là mối đe doạ cho các ông chủ người Anh, người Pháp, người Hà Lan và Bồ Đào Nha ở vùng này. Châu Âu, mà có nghĩa là cả Đức, có thể mất các nguồn nguyên liệu quan trọng và sẽ là một đòn đánh vào nền kinh tế.

— Điều đó liệu có phải là cơ sở để tiến hành một đường lối mang tính dài hạn của Châu Âu thay cho chính sách chiếm đóng với các hành động tàn ác và thiển cận của ngài Muller không? - Iank đặt câu hỏi. Theo cách mà ông ta nói ra, có thể thấy rõ rằng ông ta muốn thay từ Muller bằng từ Hitler.

Một ngày sau buổi nói chuyện với Iank, tôi đưa ra các nhiệm vụ bổ sung như ông ta đề nghị. Tất cả các nhân viên tình báo ở nước ngoài làm việc cật lực, còn tôi bồn chồn chờ đợi kết quả. Đó là một trong những trường hợp mà sự kiên nhẫn là điều hết sức cần thiết trong công việc của chúng tôi. Nhưng những người lãnh đạo lại không hiểu rõ điều đó. Tám ngày sau những tin tức đầu tiên bắt đầu đổ về, Phòng Phân tích bắt tay vào việc hệ thống hóa chúng. Ngay cả những báo cáo ít giá trị nhất cũng được nghiên cứu kỹ càng để xác định độ tin cậy của nguồn tin và độ chính xác của tin tức. Tôi từ chối chuyển giao bất kỳ một tin tức nào cho cấp trên trước khi các nhân viên phân tích của tôi hoàn tất công việc. Cuối cùng chúng tôi cũng có thể theo dõi được sự thăng trầm ảnh hưởng của những khuynh hướng đối lập khác nhau trong chính sách của Nhật và ảnh hưởng của chúng đối với sự xác lập đường lối kinh tế đối ngoại trong quan hệ đối với Mĩ, đối với các nước đồng minh của Nhật trong trục phát xít, và đặt biệt đối với Liên Xô. Trong vòng hai tuần khi công việc phân tích các tin tức thu được đang diễn ra, sức ép đối với cơ quan chúng tôi ngày càng lớn. Tuy nhiên bản báo cáo đầu tiên chỉ được hoàn thành sau khi tôi đã thu thập đủ tài liệu cho nó từ một số lớn những nguồn tin khác nhau và tôi đã có thể trình lên trên công sức lao động của mình với một lương tâm thanh thản.

Càng ngày Hitler càng trở nên căng thẳng, cáu kỉnh, đặc biệt sau khi Matsuoki thoái chức vào tháng 6 năm 1941. Tất cả xoay xung quanh vấn đề: liệu Nhật có giữ cam kết của mình đối với các nước trong khối trục phát xít, bất chấp hiệp ước trung lập với nước Nga ký ngày 13 tháng 4 năm 1941 không, hay là để đảm bảo cho mình một hậu phương an toàn, Nhật sẽ dấn thêm vài bước theo hướng mong đợi của chính phủ Mĩ. Trong trường hợp đó hiệp định ba nước khối trục có thể biến thành mớ giấy lộn. Cảm thấy thời gian đang mất đi, Hitler bắt đầu gây sức ép với người Nhật; bằng mọi giá Quốc trưởng muốn lôi nước Nhật vào các hoạt động tác chiến tích cực nhằm giảm gánh nặng cho Đức.

Để tăng cường thêm những nỗ lực của phía Đức, Ditric, lãnh đạo Cơ quan Thông tấn Báo chí của đế chế, đã tung ra một loạt các bài bình luận thông tin lạc quan. Thủ trưởng DPV - Hãng Thông tấn Đức và là người bạn thân của Iank, ngài Von Ristten, gọi điện cho tôi và bắt đầu lục vấn xem phải hiểu thế nào về những tin tức phi lý cho rằng dường như ta đang thắng trong cuộc chiến tranh, rằng phần lớn quân đội Nga đã bị đập tan và người Nga không còn có thể giành mất thắng lợi của chúng ta.

— Nghe này, Schellenberg, - ông ta nói, - Hãy giải thích cho tôi xem chuyện gì xảy ra vậy? Tôi có cảm giác dường như tôi đang ở trong một nhà thương điên. Tôi vừa nói chuyện với một mụ đầu bã đậu xứ Bavaria (ông ta gọi một bà Suderman nào đó ở Văn phòng Báo chí của chính phủ như vậy), mụ ta lắp bắp, trọ trẹ và kể cho tôi rằng mụ ta định viết một bài báo về thắng lợi cuối cùng cho tờ “Felkisher Beobachter”. Nhân viên của tôi muốn biết tất cả điều đó có nghĩa là gì, nhưng tôi lại không biết nói với họ thế nào.

Tôi cố làm ông ta yên lòng:

— Dĩ nhiên, quân đội Đức đã giành được chiến thắng lẫy lừng ở nước Nga, - tôi tuyên bố. - Nhưng tôi rất nghi ngờ về tính đúng đắn trong những kết luận của Ditric. Hitler theo đuổi hai mục tiêu, Ngài muốn phô trương những thắng lợi của quân đội Đức cho toàn thế giới và nhất là cho nhân dân Đức, thứ hai, muốn gây áp lực với Nhật. Ngài muốn làm cho Nhật phải sợ rằng nếu như họ tiếp tục lưỡng lự thì sẽ chậm chân trong cuộc chia phần. Nếu như họ muốn nhận được một phần Xibiri, họ cần phải nhanh chân lên. Tôi không hiểu điều đó có giúp ích gì không, vì suy cho cùng chúng ta đang có việc, không phải với người Châu Âu, mà là với những người Nhật trơn như trạch. Chúng tôi sẽ cố gắng trình bày tất cả những điều đó trong báo cáo trình cho Himmler và Heydrich nhưng họ có chú ý đến chúng hay không lại là vấn đề khác. Khi Hitler đọc bản báo cáo của tôi về cuộc đàm phán Nhật-Mĩ và tham vọng của Nhật ở vùng Đông Nam Á, Ngài đã nổi cơn giận dữ và khinh bỉ gạt bỏ tất cả những cảnh báo của tôi. Quốc trưởng hoàn toàn lờ đi sự việc là tháng 6 năm 1941, Hoa Kỳ đã đáp lại việc Nhật chiếm đóng ở Nam Đông Dương bằng cách phong tỏa các tài khoản của Nhật, một biện pháp mà cộng đồng Anh và Hà Lan cũng dự định áp dụng. Việc cấm vận tài chính đã giáng một đòn mạnh vào các trung tâm quan trọng sống còn của nền kinh tế Nhật, làm tạm ngừng việc cung cấp nguyên liệu, trước hết là dầu hoả. Vì vậy vào tháng 8 năm 1941, khi thủ tướng Konoe đề nghị được gặp Roosevelt, Hitler coi việc đó là sự xúc phạm bản thân Ngài. Ngài cố bằng mọi biện pháp phá hỏng cuộc đàm phán Mĩ-Nhật nhưng mọi mưu toan của Ngài đều không đem lại kết quả. Himmler và Heydrich trách móc tôi vì điều đó, nhưng tôi đã phản bác lời buộc tội bằng cách chỉ ra sự tất bại hoàn toàn trong việc này là do Ribbentrop.

Von Ristten nghe những lời trình bày của tôi với vẻ rất quan tâm. Chúng tôi hẹn ăn sáng với nhau. Và trong bữa ăn sáng, tôi đã nhận được những tin tức quý báu khẳng định những gì chúng tôi đã biết và nghi ngờ. Sau khi nhận được tin tức từ Cairo và Istanbul, bác sỹ Reihart, một trong những nhân viên có năng lực nhất của Von Risten đã chuẩn bị một bản báo cáo đầy thuyết phục dựa trên các nguồn tin tin cậy, trong đó thông báo về các cuộc tập trận lớn trong mùa hè của các đơn vị không quân đặc biệt của Nhật đang diễn ra ở vịnh Bột Hải gần Trung Quốc. Sự phối hợp giữa không quân và hải quân rất có hiệu quả: hải quân và lục quân đã thỏa thuận bắt đầu hoạt động tác chiến trong thời gian sắp tới. Khi thực hiện kế hoạch chiến lược, họ chỉ xem xét một phương án chuyển quân: tấn công xuống Nam Thái Bình Dương. Để thực hiện kế hoạch này cần phải có các điều kiện sao cho Đức vẫn trói tay chân của Nga như trước và tuân theo ý tưởng ấy, các nhà ngoại giao Nhật cố gắng khẳng định thêm về thái độ trung lập với nước Nga. Đội quân Nhật tham chiến ở Trung Quốc và Đông Dương chưa sẵn sàng gánh vác thêm các cam kết.

Heydrich sẽ phải thảo luận với Hitler, Ribbenhop, Keitel và Jodi về những báo cáo này cùng với báo cáo của đại diện DPV ở Tokyo là Sorge. Trước khi đến cuộc họp, tôi chuyển cho Heydrich vài báo cáo từ Buenos Aires và Lisbon khẳng định thêm kết luận của chúng tôi. Một chứng cớ nữa bổ trợ cho lý lẽ của chúng tôi là tuyên bố của Tokyo rằng đảo Kyusyu sẽ đóng cửa cho đến giữa tháng 8 đối với tất cả khách nước ngoài, kể cả các nhân viên ngoại giao.

Cuối tháng 10 năm 1941, Iank chuyển tới một báo cáo của tình báo Nhật mà tin tức trong đó được khẳng định thẩm tra qua các kênh Trung Quốc của ông ta. Ông ta báo rằng Hideki Todsio, thủ tướng mới kiêm bộ trưởng chiến tranh cho rằng Roosevelt và Cordell Hull không bao giờ chịu nhượng bộ trên bàn đàm phán. Như một cố gắng cuối cùng để đạt được thỏa thuận và cũng do chịu sức ép của các nguyên nhân chính trị nội bộ, Todsio phái một nhân vật là cựu đại sứ Nhật ở Berlin, người có cô vợ Mỹ tên là Kudistsa sang cuộc đàm phán ở Washington giúp cho đô đốc Nomura. Dù sao, bước này được áp dụng khi phương án lựa chọn cho cuộc đàm phàn đã sẵn sàng, và với một khả năng tương đối chắc chắn có thể khẳng định rằng quyết định giáng đòn vào Mỹ đã được thông qua khoảng trung tuần tháng mười.

Hitler có thái độ nghi ngờ đối với các báo cáo của chúng tôi nên còn chần chừ, nhưng rốt cuộc vào giữa tháng 10, theo chỉ thị của Hitler, qua đường Iank, tôi đã gửi cho Cơ quan Tình báo Nhật một công hàm nói rõ mối quan tâm tới việc tham chiến của Nhật bất chấp qui mô và khu vực tham chiến. Công hàm này chỉ được gửi đi sau khi Hitler quyết định, nếu như Nhật đã nhất định tham chiến thì dù ở đâu cũng không có ý nghĩa quan trọng.

Tôi nghĩ, động thái này đã có ảnh hưởng tới đường lối của Nhật, vì ngay sau khi nhận được công hàm, không đợi đến lúc có những đảm bảo chính thức, người Nhật đã hoàn tất việc động viên, và vào cuối tháng 11, hải quân Nhật đã nhận được lệnh lên đường tới khu vực Nam Thái Bình Dương để tiến hành các chiến dịch đổ bộ.

Himmler, như một tên đầy tớ trung thành của ông chủ, muốn ngay lập tức thông báo việc này cho Quốc trưởng. Nhưng ông ta đã nhận được một lời khiển trách nghiêm khắc trước cả khi kịp trình bày những tin tức nhận được. Hitler đã hét lên ngắt lời ông ta: “Bây giờ tôi không muốn nghe nói về việc đó. Tôi muốn giữ cho mình toàn quyền tự do hành động!”.

Tiếp theo ngay lập tức là lời yêu cầu làm rõ từ Tokyo: liệu về phía mình Đức có cam kết là không ký hiệp định hòa bình riêng rẽ trong trường hợp Nhật tuyên chiến với Anh, Mỹ hay không. Hitler ra lệnh cho bộ trưởng ngoại giao đưa ra câu trả lời xác nhận đối với câu hỏi thẳng thắn đó.

Ngày mồng 7 tháng 12 năm 1941, Nhật tấn công Trân Châu Cảng. Ngày hôm sau Hitler tuyên chiến với Hoa Kỳ.

[12] Hoàng đế Nero: Hoàng đế La Mã (37-68) từ năm 54, thuộc triều Julius - Claudius. Theo lời các nhà viết sử, ông là người tàn bạo, tự phụ và dâm ô. Bằng những cuộc đàn áp và trưng thu ông đã khiến mọi tầng lớp nhân dân nổi dậy chống lại mình.