Chương 7 CẠNH TRANH VỚI RIBBENTROP
Nhớ đến những trách nhiệm ngày càng nhiều của mình, tôi bắt tay ngay vào công việc tổ chức phối hợp hành động với các cơ quan cấp bộ. Quan trọng nhất trong số này là Bộ Ngoại giao. Khi điều hành công tác phản gián tôi đã có quan hệ tốt với thứ trưởng G. Luter. Ông ta phụ trách một cục trong bộ và là nhân vật được Ribbentrop tin cậy. Mỗi khi cần quyết định một việc gì đó, dù là việc riêng hay việc công, Ribbentrop bao giờ cũng tham khảo ý kiến ông ta. Chẳng ai rõ nguyên do mối quan hệ thân hữu này. Heydrich bảo tôi thường xuyên giữ liên hệ chặt chẽ với Luter vì cho rằng đó là cách tốt nhất để đến được với Ribbentrop. Như nhận xét của Heydrich thì Luter lạnh lùng, kín đáo, một người sắc sảo hơn cả mức thông minh và chỉ quan tâm tới quyền lực. Tuy nhiên, Luter lại được Ribbentrop hoàn toàn tin cậy. Có lẽ đó là người duy nhất chiếm được lòng tin của ông ta. Luter là tham tán công sứ tại Tsellendorf, một thành phố ngoại vi Berlin, và có dính líu tới một vụ tham ô, nhưng nhờ ảnh hưởng của Ribbentrop và Himmler nên tên tuổi chưa bị tì vết. Ông ta là người không ưa gì SS; Heydrich và Himmler đều biết rằng ông ta luôn gieo cho sếp của mình mối ngờ vực đối với tổ chức này. Cả hai đều cho rằng đó là do Luter sợ SS đã biết quá nhiều về mình. Ribbentrop giao cho ông ta nhiệm vụ tổ chức lại hoàn toàn Cục Chính sách Đối ngoại. Heydrich cảnh báo tôi:
— Với Luter, anh sẽ chẳng dễ dàng đâu. Hãy thận trọng, ông ấy có thể dùng ngay lời lẽ của anh để chống lại anh. Hãy thường xuyên giữ liên hệ với tôi để tôi có thể giúp anh. Trong mọi trường hợp, đương nhiên ông ta sẽ cố sử dụng anh chống lại tôi. Chính anh biết rõ bản thân mình. Anh hãy cố độc lập trong công việc và tôi không muốn anh vướng vào một cái bẫy nào của Luter.
Tôi có quan hệ với Luter là do phải tìm hiểu một số vấn đề liên quan tới công tác phản gián đại loại như hoạt động của các tùy viên cảnh sát và những vấn đề tương tự. Công việc chung đã khiến tôi được ông ta tin cậy, sự tin cậy mà tôi chăm lo củng cố bằng cách giúp đỡ tháo gỡ những bất hòa nảy sinh trong quan hệ của ông ta với SS ở nước ngoài. Tất cả những cuộc trao đổi với Luter tôi đều ghi lại tỉ mỉ và gửi tới Heydrich, rồi Heydrich lại gửi tiếp đến Himmler.
Làm việc ở cơ quan nhà nước hoàn toàn không hợp với Luter. Giá ở ngành thương mại hẳn là hợp với ông ta hơn. Ông ta quyết đoán, nắm bắt nhanh mọi vấn đề, có năng lực tổ chức. Ông ta có mái đầu đẹp, mặt hơi to, cặp kính gọng sừng lớn che bớt đôi mắt mọng lên do chứng viêm xoang. Giọng ông ta hơi pha giọng Berlin. Phải thật biết tự chủ mới không bực tức trước tính hay công kích của ông ta. Hướng tư duy của ông ta thay đổi rất nhanh, ông ta có thể nói hay làm mọi điều tùy hứng. Ông ta luôn tuân theo những tính toán hoàn toàn mang tính công việc, và nếu để ý đến điều này, làm việc với ông ta sẽ dễ dàng, mặc dầu cũng không ít khó khăn.
Những nhân viên phải thường xuyên làm việc với một vị sếp như thế sẽ ra sao? Trong những điều họ đang quan tâm, những lập luận thận trọng cũng như trong những do dự băn khoăn của họ, ông ta thấy rõ những điểm yếu và gọi đó là những khoáng sản hóa thạch. Ông ta vượt trội về nhiều mặt so với những đồng nghiệp của mình, và rất thích đặt họ trước những sự kiện đã xảy ra. Thực sự ông ta quả đúng là một “giáo chủ áo xám”, tương tự như nam tước Holstein trong Bộ Ngoại giao dưới thời hoàng đế Đức; tuy nhiên, một nhà ngoại giao chuyên nghiệp như ông ta khó mà có thể bì kịp ngài nam tước. Thế nhưng ông ta lại lạnh lùng hơn và tàn nhẫn hơn. Chỉ có chính thể cảnh sát độc tài mới có thể sản sinh ra một con người nguy hiểm như thế.
Điểm mạnh của tôi là ở chỗ, đối với Luter, tôi là chiếc cầu nối để ông ta có thể với tới vị trí của những đối thủ của mình là Himmler và Heydrich. Trong chừng mực nào đó, tôi đã giúp ông ta chống lại một tổ chức đáng sợ mà ông ta đúng là cảm thấy yếu thế hơn. Những lúc cởi mở ông ta thừa nhận mình muốn được là thành viên SS. Một lần tôi đã bảo vệ được ông ta trước đòn công kích của Heydrich và Himmler. Tôi giải thích rành rọt cho ông ta hiểu quan hệ giữa tôi và ông ta cần phải độc lập, tránh mọi riêng tư, và phải thừa nhận rằng ông ta ủng hộ bất kỳ yêu cầu nào của tôi trong công việc, thẳng thắn và khôn khéo bênh vực cho những yêu cầu đó trước Ribbentrop. Bởi thế, nhờ ông ta mà tôi đạt được điều mà chắc không bao giờ có thể đạt được nếu thông qua những quan chức khác trong bộ của Ribbentrop.
Mấy tuần sau tôi đã phác xong dự thảo đàm phán với Bộ Ngoại giao, dự thảo mà nhờ Luter khẩn thiết đề nghị nên cuối cùng nó đã được Ribbentrop phê chuẩn. Nó đảm bảo những quyền hạn nghiêm túc cho lĩnh vực tình báo chính trị.
Mỗi khi nhớ đến những lần thương thảo về vấn đề này, tôi vẫn không hết ngạc nhiên bởi thái độ gần như ỡm ờ của Đức trong việc chuẩn bị cho cuộc chiến tranh lớn nhất trong lịch sử của mình. Luter nói rằng chẳng hề có lấy một sự thỏa thuận nào giữa Bộ Ngoại giao và tình báo quân đội. Những cuộc hội đàm, và kết quả là một văn bản hiệp ước, đã trở thành cơ sở cho sự hợp tác ổn định của tôi với Bộ Ngoại giao. Thật khó mà định nổi giá trị của sự hợp tác ấy. Đôi khi đó là một cái gì mẫu mực, đôi khi nó lại không chỉ gây nên những rối loạn mà còn làm nảy sinh cả những mối bất hòa nghiêm trọng. Trong phần lớn trường hợp là do sai lầm của chính Ribbentrop. Quan điểm cùng những chỉ thị của ông ta làm tôi không thể chấp nhận được, còn thái độ của ông ta cũng thật không thể chịu đựng nổi. Cuối cùng, tôi quyết làm rõ mối quan hệ với ông ta, không phải xuất phát từ mối thù địch cá nhân, mà là do ông ta đã biến tất cả thành kẻ thù của mình.
Để minh chứng cho quan niệm của Ribbentrop về tình báo là hoàn toàn sai, đầu tiên tôi hé lộ cho Luter, Heydrich và Himmler một số tin tức mà 70% trong đó là tin ngụy tạo về một chính phủ lưu vong của Ba Lan tại London. Tôi soạn ra rồi chuyển chúng cho các tình báo viên đang ở nước ngoài. Hai tuần sau chúng đã được Ribbentrop trình lên Hitler như một thông tin giá trị. Ngay sau đó Hitler đã nói chuyện với Ribbentrop trong hơn hai giờ liền. Ngài bộ trưởng ngoại giao không hề hé lộ về kết quả cuộc trò chuyện này, nhưng hai ngày sau, trong lúc ăn trưa cùng Himmler, ông ta đã kể về những khó khăn chung trong việc điều hành hoạt động tình báo.
Rồi đến một ngày tôi được lệnh đích thân lên báo cáo với Ribbentrop. Tôi đến đúng giờ hẹn và được tiếp ngay. Văn phòng của ông ta khi đó bố trí ở một trong những cánh nhà của phủ tổng thống trước đây, còn Bộ Ngoại giao thì nằm trên phố Wilhelmstrass. Văn phòng này vẫn giữ nguyên phong cách hệt như một văn phòng mới của phủ thủ tướng. Một phòng làm việc với chiếc bàn lớn, những cửa sổ rộng, những tấm thảm nền sặc sỡ, thảm treo tường đắt tiền và những chiếc ghế bọc lụa với đường nét trang trí cầu kỳ. Như thường lệ, Ribbentrop đứng sau bàn, tay bắt chéo. Ông ta tiếp tôi theo kiểu hết sức trang trọng, rõ ràng ông ta đang cố tạo ấn tượng. Ông ta nói chậm rãi, mạch lạc, như thể đây là lần đầu tiên tiếp tôi. Sau mấy lời, ông ta bước ra khỏi bàn, trịnh trọng giơ tay mời tôi ngồi. Rồi ông ta ngồi xuống đối diện với tôi và nói:
— Anh bắt đầu đi, không cần rào đón. Tôi biết anh đến gặp tôi vì chuyện gì.
Suốt trong nửa giờ đầu nét mặt ông ta không hề thay đổi. Ông ta ngồi yên, lắng nghe tôi nói. Nhưng đến khi tôi đề cập đến chuyện cần tổ chức những nhóm liên lạc với các bộ khác, ông ta ngắt lời tôi ngay:
— Không phải là chính anh đang định thành lập những đơn vị tình báo ở những bộ khác đây chứ?
Câu hỏi rõ ràng cho thấy ông ta chẳng hề hiểu điều tôi nói. Một lần nữa tôi lại từ tốn và cẩn thận giải thích cho ông ta rằng những nhóm liên lạc như thế là cần thiết, và rằng nếu ông ta tìm hiểu cặn kẽ vấn đề này, ông ta sẽ hiểu là thông qua những nhóm này, Bộ Ngoại giao và chính ông ta sẽ được lợi. Bỏ qua những vấn đề kiểm soát và điều hành các nhóm, sự tiếp xúc giữa những nhóm này với nhau có thể giúp chúng tôi và các bộ giải quyết những vấn đề có ý nghĩa rất lớn đối với Bộ Ngoại giao. Công việc này cần phải làm trên cơ sở trung lập, tức là chỉ tập trung vào những gì có tầm quan trọng đối với tình báo chứ không phải đối với các bộ đang có mối bất hoà. Nếu Cục Tình báo có thể hoạt động với sự hiệp đồng chặt chẽ của Bộ Ngoại giao, thì cả hai cơ quan đều được lợi. Đứng đằng sau một thỏa thuận như thế sẽ là một thống chế SS, và tôi sẽ không cần thiết vấn đề gì cũng phải bàn thảo với Ribbentrop. Để tránh cho Ribbentrop khỏi nghi ngại rằng tôi đang định dùng thủ đoạn để SS xâm nhập vào Bộ Ngoại giao, tôi đề nghị người phụ trách tình báo dù là ai đi nữa cũng phải nằm trong biên chế Bộ Ngoại giao. Ribbentrop nhìn tôi hết sức ngơ ngác. Ông ta vẫn chưa hiểu tôi muốn gì, mà tôi càng giải thích ông ta càng không hiểu những gì tôi nói. Tôi đã phải nói đến việc chúng tôi cố ý ngầm tung cho ông ta những tin tức giả, chuyện ông ta trao đối với Quốc trưởng, và cuối cùng nói thẳng ra rằng vị thế của tình báo hiện nay đã đủ mạnh, ông ta từ nay sẽ không thể lấn át được. Nếu ông ta không ủng hộ chúng tôi thì tôi buộc phải rút ra kết luận rằng ông ta đang chống lại chúng tôi. Đến đây ông ta bối rối rồi bực tức. Ông ta không chịu nổi việc bản thân bị xúc phạm, Ribbentrop nói vậy. Ông ta đã luôn luôn mong muốn có được một sự cộng tác khôn ngoan, nhưng đến lúc này thì ông ta buộc lòng phải nghĩ rằng chúng tôi không nhìn nhận Bộ Ngoại giao như một cơ quan độc lập. Tôi xin lỗi rồi tuyên bố rằng theo ý kiến riêng của tôi, tôi và ông ta đã hoàn toàn không hiểu nhau, và nếu ông ta coi vấn đề này là có ý nghĩa, tôi sẵn sàng trình bày với ông ta về kế hoạch của tôi bằng văn bản. Ông ta nhăn mặt khinh khỉnh đáp lại: “Cảm ơn, tôi không cần đến chuyện ấy.” Lúc nấy tôi cố thử ve vãn ông ta bằng cách nói rằng tôi rất hứng thú nếu được làm quen với những quan điểm của riêng ông ta về khâu tổ chức và những phương pháp hoạt động tình báo. Ông ta bình tĩnh trở lại, rồi ngả người vào lưng ghế, vẻ thân thiện. Tôi hiểu ra rằng mình đã dẫn câu chuyện không đúng hướng. Lẽ ra tôi không được bắt đầu như một bài giảng; để mở đầu cần đề nghị ông ta chia sẻ những quan điểm của mình. Vô tình tôi đã chạm tới thói hiếu danh của ông ta.
Quan điểm của Ribbentrop hoàn toàn khác. Ông ta cho rằng chỉ cần bố trí ở nước ngoài từ 10 đến 20 tình báo viên được tuyển chọn. Những người này phải được sử dụng nguồn kinh phí dồi dào và chuyên thu thập thông tin, chủ yếu theo những sáng kiến riêng của mình. Những thông tin nhận được thường xuyên từ số 10 đến 20 tình báo viên này là hoàn toàn đủ, những chi tiết nhỏ nhặt không có vai trò gì lớn trong những vấn đề mang tính toàn cầu thuộc chính sách đối ngoại; phải nhìn thấy trước những vấn đề lớn cụ thể có ý nghĩa quyết định. Ông ta nói rằng rất tin cậy tôi, nghe thấy thế tôi suýt ngã bổ nhào khỏi ghế, và sẵn sàng làm mọi thứ cần thiết để đảm bảo an toàn cho tôi. Bất cứ lúc nào ông ta cũng sẵn sàng đón nhận tôi vào bộ phận tình báo của ông ta. Tại đây, đồng thời với việc tìm hiểu những vấn đề toàn cầu, tôi có thể bắt tay vào việc tổ chức bộ phận tình báo mà ông ta đang nói tới. Một lần nữa tôi giải thích cho ông ta rằng vấn đề không phải về con người, đề nghị của ông ta không hấp dẫn tôi, và tôi không thể tán đồng ý kiến của ông ta. Theo tôi, ý nghĩa quyết định đối với công tác tình báo lại chính ở những điều nhỏ nhặt, và chỉ nhờ phương pháp phân tích khoa học những tin tức tình báo từ các mạng lưới gửi về mới có thể đặt cơ sở thực tế cho các chính trị gia. Điều này không thể đạt được bằng cách nhờ vào những thông tin tình cờ hoặc vào nỗ lực của 10 hay 20 con người, cho dù họ thực sự có tài.
Bỗng nhiên Ribbentrop lộ rõ vẻ mệt mỏi, và cuộc trao đổi liền chấm dứt. Tôi để ý thấy mặt ông ta méo xệch đi. Vài ngày sau tôi kể lại điều này với bác sĩ de Crinis, người trước đó đã nhiều lần được mời đến khám cho Ribbentrop. Ông bác sĩ nhận định rằng ở Ribbentrop có biểu hiện rối loạn chức năng nghiêm trọng, chắc là liên quan tới bệnh thận. Ông ta đã bị cắt một bên thận, và rất có thể, hệ hormone đang bị tổn thương. Chúng tôi nhanh chóng lịch sự tạm biệt nhau. Mọi ảo vọng đều tiêu tan. Tôi hiểu rằng không thể thỏa thuận với con người này về bất cứ vấn đề gì. Chưa khi nào ông ta tỏ ra hiểu biết về sự cần thiết, nhất là sự cần thiết phải tồn tại của công tác tình báo.
Tôi thực không hiểu Hitler thấy điều gì ở Ribbentrop. Rõ ràng, giống như tất cả cận thần vây quanh Quốc trưởng, với thói quan liêu, tỉ mẩn, ông ta đón nhận mọi chỉ thị và thi hành một cách chuẩn xác. Bởi vậy đường lối chính sách đối ngoại do ông ta điều hành đã biến thành lợi thế nhằm tranh giành quyền lực. Có vẻ như hành vi ứng xử của ông ta là do thâm tâm cảm thấy mình kém cỏi, mặc dầu, ở mức độ nào đấy, đó là bản chất của đặc tính tâm lý đang gia tăng phát triển trong con người ông ta, còn tại sao thì tôi không hiểu được. Điều này giải thích rất nhiều cho quan điểm và hành động của ông ta. Chẳng hạn, phải giải thích ra sao về sự thù ghét nước Anh ở ông ta? Lý giải thế nào về thói hách dịch và tính ba hoa của ông ta? Thói hư danh và tầm hiểu biết hạn hẹp của ông ta khiến tôi sửng sốt ngỡ ngàng. Và tất cả những điều này cho thấy rõ các nguyên nhân hạn chế chính sách đối ngoại của chúng tôi cũng như sự ngu ngốc trong những nguyên tắc của chính sách này. Cả Ribbentrop, cả Hitler đều tự ý sẵn sàng làm mọi chuyện tới mức khi cần dám hy sinh cả dân tộc Đức không hề thương tiếc. Trong lần chuyện trò đầu tiên với Ribbentrop tôi không thật hiểu rõ điều này, mặc dầu nền tảng cho chính sách đối ngoại kiểu như thế chắc chắn đã được xây dựng. Nhưng tôi đã linh cảm thấy một cái gì đó, đại loại như vậy, và cả hai chúng tôi - ông ta và tôi - đều hiểu rằng chúng tôi thuộc hai thế giới khác nhau. Mặt khác, ông ta lại không quên tôi. Qua những người thân cận của ông ta, nghe nói, ông ta vẫn luôn quan tâm đến những chi tiết trong sự nghiệp của tôi, và đôi khi ông ta kể một điều gì đó với mục đích xác nhận rằng “Quốc trưởng đã nói đúng, Schellenberg là kẻ theo chủ nghĩa suy đồi nhưng biết tuân thủ luật pháp, có lần chúng tôi đã phải cùng tìm hiểu xem xét nhân vật này.” Thậm chí ông ta chỉ thị cho Luter thông báo tường tận về sự hợp tác giữa chúng tôi và đặc biệt chú ý xem tôi có lộ ra nhận xét phê phán gì chăng về bản thân ông ta hoặc về chính sách đối ngoại. Thật không thể hiểu nổi, vào năm 1939 Hitler lại có thể đưa ra nhận xét rằng Ribbentrop có thể là người lãnh đạo vĩ đại nhất về chính sách đối ngoại của Đức kể từ thời Bismarck.