← Quay lại trang sách

Chương 8 NHẬT VÀ TRUNG QUỐC

Một lần, khoảng tháng 3 năm 1942, Iank ghé thăm tôi sau khi từ Thụy Sĩ trở về. Chandra Boze, thủ lĩnh một phong trào quốc gia của Ấn Độ, từng một thời có ảnh hưởng lớn trong nước, đang có mặt tại Berlin. Người Nhật đang cố chiếm được lòng tin của ông ta, vì vậy tôi quan tâm đến ý kiến của Iank nhận định về diễn biến tình hình. Cho đến lúc này, theo sáng kiến của Hitler, Ban Viễn Đông AMT-VI có được những thông tin về Ấn Độ chủ yếu là dựa trên những tư liệu do Sidi Khan, thủ lĩnh của một phe nhóm trong phong trào giải phóng dân tộc của Ấn Độ cung cấp. Tuy nhiên giữa Boze và Sidi Khan lúc đó có mặt ở Roma lại đang diễn ra cuộc đấu tranh không khoan nhượng. Boze, một trí tuệ siêu phàm với sự thành thạo sử dụng những phương pháp tuyên truyền hiện đại, đã gây ấn tượng mạnh với Himmler, và chúng tôi đang cân nhắc xem liệu có nên chuyển sự giúp đỡ sang nhân vật này không. Một trong những ý tưởng tâm đắc của Boze là thành lập một quân đoàn lê dương người Ấn nằm trong thành phần quân đội Đức. Về nguyên tắc, Hitler đã ưng thuận, nên chúng tôi bố trí cuộc gặp giữa ông ta và Boze.

Tuy nhiên Boze đã hoàn toàn thất vọng: Hitler nói rõ ở thời điểm hiện tại ông ta không thực sự quan tâm tới Ấn Độ, mà điều ông ta mong muốn hơn là làm sao để Nhật theo dõi tình hình chính trị và chiến lược tại đây. Nhưng nếu thắng lợi nghiêng về phía Đức, và nếu chiếm được phần phía nam nước Nga cùng miền Kavkaz, cũng như nếu quân đội Đức tới được Ba Tư, thì khi đó, và chỉ khi đó, ông ta sẽ sẵn sàng thảo luận với Boze về tương lai của Ấn Độ.

Tôi mới vừa nói đến tên của Boze với Iank thì ông ta lập tức cảnh báo tôi ngay. Theo những tin tức của Iank thì Boze đã có một thời gian sống và học ở Moskva, và có quan hệ chặt chẽ với Quốc tế Cộng sản. Thỉnh thoảng chính tôi, trong khi trao đổi với Boze, thường bắt gặp những dấu ấn ảnh hưởng từ những thầy giáo Moskva của ông ta: cách nêu câu hỏi và tìm những lời giải luôn theo đúng những quy phạm của phép biện chứng. Theo yêu cầu của người Nhật, năm 1943 Boze được đưa đến Nhật bằng tàu ngầm của Đức. Sau khi Boze rời Đức, tôi thông báo cho phía Nhật về những nghi ngại của tôi; tuy nhiên, người Nhật khẳng định rằng họ có thể sử dụng con người tầm cỡ này theo cách có lợi cho họ.

Từ đề tài về Boze chúng tôi chuyển sang trao đổi về công việc trong cục. Iank khuyên tôi bỏ ý định thâm nhập vào hậu phương đối phương qua tuyến mặt trận, và cả hoạt động tình báo ở những vùng giáp mặt trận. Những vùng này cần giữ nguyên trong phạm vi hoạt động của quân đội và thay vào đó, cần luồn thật sâu vào hậu phương của Nga để khai thác được những thông tin giá trị hơn. Tôi trả lời rằng như vậy cần có một số lượng máy bay vận tải đáng kể có tốc độ lớn để tung điệp viên nhảy dù hoặc đổ bộ xuống một nơi trống trải; trong khi đó Luftwaff lại chỉ đáp ứng cho chúng tôi một lượng máy bay quá ít. Đến đây Iank thay đổi đề tài câu chuyện. Chúng tôi vừa chuyển sang mạn đàm về quan hệ Nhật - Nga, thì ông ta bỗng thốt lên:

— Nơi này quá ồn. Tại sao anh không tạm đóng cửa và đi đâu đó thư giãn dăm bảy ngày?

Ý tưởng đó làm tôi thích thú, và tôi lên đường đến điền trang của Iank ở vùng duyên hải đồng bằng Pomeramaria. Nơi đây toàn là những cánh rừng và hồ nước tuyệt vời đầy cá. Sau bữa điểm tâm rất ngon chúng tôi ngồi đến tận chiều tối với một chai vang tuyệt hảo và cùng bàn bạc những vấn đề liên quan tới công việc của mình. Iank rủ tôi đến đây nghỉ cuối tuần lần này không phải chỉ do quan tâm đến sức khỏe của tôi mà còn do anh muốn bảo mật tối đa khi bàn bạc các thông tin nhận được từ Phương Đông.

Iank biết người Nhật đang toan tính đạt được thỏa hiệp hòa bình giữa Đức và Nga. Nội các Nhật có được thông tin tình báo hết sức giật gân về tiềm năng quân sự thực sự lớn lao của Nga. Được biết sắp tới quân đội Nga sẽ đủ mạnh để không chỉ chặn đứng được những cuộc tấn công của chúng tôi mà còn đẩy lùi chúng tôi trên khắp các mặt trận. Tới mùa đông 1942 - 1943, nền công nghiệp Nga sẽ cho xuất xưởng một số lượng khổng lồ các thiết bị quân sự. Chiến tranh du kích đang phát triển ở vùng hậu phương sẽ buộc chân một bộ phận đáng kể quân đội Đức, và phá huỷ tuyến giao thông trải quá dài của chúng tôi. Người Nhật lo ngại rằng cuối cùng Đức sẽ phung phí lực lượng vào một cuộc chiến vô vọng. Vì phương Tây do dự trong việc trợ giúp mạnh mẽ cho Nga, nên vẫn còn khả năng thương lượng hòa bình với Stalin. Theo tin của Iank, những nhà lãnh đạo Nhật đều nhất trí chia sẻ quan điểm này, và do vậy, việc họ thăm dò ý đồ của Đức là hoàn toàn có thể có. Chúng tôi chuyện trò hồi lâu về vấn đề này. Iank cho rằng kẻ thù chính của một giải pháp như thế sẽ là Ribbentrop; cái trán hẹp của ông ta chẳng thể nào đánh giá nổi tình hình. Himmler thì chịu ảnh hưởng mạnh của Hitler và không thể hành động độc lập, vả lại Himmler cũng chẳng phải là người có đầu óc sáng láng gì. Goering thì đã không còn là một nhân vật quan trọng, ngôi sao của ông ta đã lu mờ sau thất bại của chiến dịch không kích tấn công vào nước Anh. Kể từ đó, hình như Goering mất hẳn mọi hứng thú quan tâm tới các sự kiện diễn ra trên khắp mặt trận. Một số người thì coi đó là vì ông ta ngày càng sa đà vào morphin, những người khác thì cho rằng đó là triệu chứng của bệnh bất lực do sống xa xỉ vô độ.

Cùng thời gian đó Himmler cử tôi mang theo một báo cáo tới gặp Goering tại tư gia sang trọng, lộng lẫy của ông ta ở vùng ngoại ô Bắc Berlin. Ngôi nhà có tên Karinhalle để tôn vinh người vợ đầu của Goering. Chuyến đi có được là do đề nghị hợp nhất giữa “Ban Nghiên cứu của Goering” với Cục VI. Ban này do Goering lập nên với sự trợ giúp của các chuyên gia hải quân nhằm kiểm soát mạng thông tin hữu tuyến và vô tuyến, trong đó kể cả việc nghe trộm, ghi âm những cuộc điện thoại và những buổi phát thanh. Có thể ghi bất cứ cuộc điện đàm nào trong phạm vi nước Đức và vùng lãnh thổ Châu Âu do Đức chiếm đóng. Những băng đĩa ghi âm này thường khai thác được một khối lượng lớn những thông tin giá trị. Cả những cuộc đàm thoại của Hitler cũng được nghe trộm ghi âm lại, và trong trường hợp cần thiết, những băng này được chuyển đến các cơ quan chức năng để làm tư liệu hoặc để chỉ đạo điều hành hoạt động. Có lần Hitler nói ra một con số về việc sản xuất thiết bị quân sự tại Đức và đã gây nhiều tranh cãi vì chính Hitler cũng nhận được thông tin sai.

Sau khi tới “Karinhalle”, tôi phải đợi khá lâu ở phòng khách. Đó là một phòng lớn được trải thảm, những rầm xà bằng gỗ sồi sẫm màu và những đồ gỗ cồng kềnh theo mốt ngày xưa khiến người ta liên tưởng đến một lâu đài cổ. Sau nửa giờ ngồi đợi, hai cánh cửa mở ra và vị thống chế bước vào với cây quyền trượng chỉ huy trong tay, ăn vận như một người dân La Mã cổ: áo togo, dép xăng đan, v.v… Trong một thoáng tôi có cảm tưởng rằng trước mặt tôi là Hoàng đế Nero[12]. Goering mỉm cười thân thiện và mời tôi qua phòng bên cạnh. Ông mời tôi ngồi vào chiếc ghế bành lớn, còn ông ta ngồi sau chiếc bàn nhỏ, bên trên là một bát pha lê đầy ngọc trai, ngọc bích và đá quý cổ. Trong khi nghe tôi nói, mấy ngón tay ông ta luôn nghí ngoáy nghịch những viên đá quý, ông ta trông như thể đang trong trạng thái xuất thần. Lúc tôi nói xong ông ta chỉ đáp: “Được, về chuyện này tôi sẽ trao đổi với Himmler.” Một tuần sau Himmler vẫn chưa hay biết gì, và ông ta rất bực. Ông ta giận tôi, rồi sau đó giận cả “tay vua chợ đen”, như cách ông ta gọi Goering (khoảng cuối năm 1943 Goering mất hết uy tín, không còn được trọng nể nữa).

Bởi vậy, thậm chí ngay từ năm 1942, người duy nhất còn quan tâm đến vấn đề thỏa hiệp hòa bình là Heydrich. Iank coi ông ta là bộ óc xuất chúng nhất trong số những người lãnh đạo đế chế Đức. Tuy nhiên Heydrich lại quá bận rộn với chế độ bảo hộ, và gợi lên một sự ngờ vực rằng liệu một mình ông ta có thể tác động được Hitler không. Iank hết sức cảnh báo tôi chớ có thông báo cho Bormann về đề nghị của người Nhật. Bormann là một đại lượng không rõ ràng, rất nguy hiểm nếu tin vào ông ta. Heydrich trăn trở với ý nghĩ này và thậm chí đã có lần thử thận trọng trình bày với Hitler, nhưng kết quả chẳng đi đến đâu. Bốn tuần sau, vào tháng 4 năm 1942, Ribbentrop báo cáo với Hitler về ý định của người Nhật muốn tiếp xúc thông qua tùy viên quân sự của hải quân Đức tại Tokyo. Qua máy vô tuyến, Heydrich báo trước cho tôi biết rằng thậm chí Hitler còn tỏ ý muốn nói chuyện với Iank, người mà chính Quốc trưởng cũng biết. Nhưng đến cuối tháng 5, Heydrich thông báo rằng cuối cùng Ribbentrop đã thắng và viên tùy viên quân sự đã chính thức khước từ đề nghị của người Nhật. Iank kiên trì cố gắng tranh thủ sự ủng hộ từ phía Himmler, người có thể ảnh hưởng tới Quốc trưởng. Giá như Hitler quả thật là một nhà hoạt động quốc gia tầm cỡ, thì ông ta hẳn đã hiểu được tính thiết yếu phải đạt được hòa bình với Nga mà vẫn vững tin rằng điều này chẳng hề phương hại gì tới uy danh và thể diện của ông ta.

Người Nhật vẫn không ngừng các nỗ lực, và vào tháng 6 năm 1942, họ lại đưa ra đề nghị mới. Lần này Bộ Tổng Tham mưu Quân đội Nhật đứng ra tiếp xúc với tùy viên quân sự Đức tại Tokyo, và họ đề nghị được dùng máy bay hoạt động tầm xa của Đức để chở một nhóm người Nhật dẫn đầu là một đại tướng sang Đức thảo luận vấn đề điều phối những hoạt động chính trị và quân sự. Thật không may là họ lại cho chúng tôi biết rằng sẽ thảo luận cả vấn đề thương lượng hòa bình với Nga. Ribbentrop đã rất thành công trong việc triệt phá đề án này. Giới lãnh đạo quân sự Nhật đã hành động độc lập với chính phủ. Ribbentrop sinh nghi và đã cố ý thông báo lại tin này cho Sứ quán Nhật. Câu chuyện này đã dẫn đến sự bất hòa giữa chính phủ và Bộ Tổng Tham mưu Nhật. Qua hành vi cư xử của Bộ Ngoại giao Đức, quân đội Nhật thấy đó là sự từ chối chính thức, và đã bực tức rút lại đề nghị của mình.

Sau thất bại của chúng tôi tại Stalingrad, người Nhật lại tuyên bố sẵn sàng đứng ra đóng vai trò trung gian; và lần này người nêu ra ý tưởng ấy là bộ trưởng ngoại giao Nhật Shihimitsu. Do sự thiển cận và cố chấp của mình, Hitler đã thẳng thừng gạt phắt đề nghị này.

Sau này, năm 1944, tôi có cuộc trò chuyện dài với thiếu tướng hải quân Kojima. Ông ta chỉ huy một tuần dương hạm khi Nhật tấn công Singapore. Vì lòng dũng cảm phi thường, ông ta đã được tuyên dương và phong hàm vượt cấp. Kojima kể với tôi rằng năm 1943 ông ta đã đến Đức trên một chiếc tàu ngầm với nhiệm vụ đặc biệt: tìm hiểu tình hình và thuyết phục Quốc trưởng đàm phán hòa bình với Nga. Lời đề nghị lập tức bị từ chối thẳng thừng. Tất nhiên, khi tôi nói chuyện với ông ta lần cuối, năm 1944, cơ hội cho một sự thương lượng hòa bình như thế đã không còn nữa.

Vấn đề thứ hai tôi thảo luận với Iank vào kỳ nghỉ cuối tuần là sự hợp tác của ông ta với tình báo Trung Quốc. Các trung tâm mạng lưới tình báo Trung Quốc hồi đó nằm ở Berne, Vichy, London, Stockholm và Moskva. Iank chủ yếu tiếp xúc với họ ở Berne và Vichy. Ông ta rất thân với một nhà ngoại giao và là một nhà tình báo tầm cỡ của Trung Quốc. Người này nói với Iank rằng những nhân vật có ảnh hưởng trong cánh của Tưởng Giới Thạch đang hy vọng là tại Đức có những người có thiện cảm với Trung Quốc và có khả năng gây ảnh hưởng tới những nhà lãnh đạo Đức để họ ủng hộ và thúc đẩy việc ký kết thỏa hiệp hòa bình giữa Nhật và Trung Quốc. Một tình huống khá thú vị: một mặt, Nhật đang bị thu hút bởi cuộc chiến tranh với Mỹ lại cố đóng vai trò nhà kiến tạo hòa bình giữa Nga và Đức, mặt khác, Trung Quốc lại cố thuyết phục Đức đóng vai trò nhà kiến tạo hòa bình trong quan hệ giữa Trung Quốc và Nhật. Phía Trung Quốc chưa muốn thảo luận những chi tiết cụ thể, trước hết họ muốn làm sáng tỏ xem người Nhật có thái độ thiện chí với ý tưởng này không. Mặt chính trị của vấn đề là như vậy, nhưng trong đó lại có các khía cạnh liên quan tới hoạt động tình báo. Để đổi lấy việc Đức đóng vai trò trung gian hòa giải, phía Trung Quốc đề nghị hợp tác với Cục Tình báo của chúng tôi. Tất nhiên, đây là một đề nghị rất quan trọng và nó hấp dẫn tôi không kém những vấn đề chính trị thuần tuý. Tôi biết tình báo Trung Quốc có những khả năng to lớn: họ có thể - và cần ghi nhớ điều này - có những con đường thoải mái tiếp cận với cả Downning Street cũng như Kremlin.

Tôi cùng Iank thảo luận tỉ mỉ đề nghị của Trung Quốc. Tôi e ngại và Iank cũng đồng ý với tôi rằng nếu từ chối đề nghị của Nhật về vai trò trung gian (mà đúng là nó đã ngay lập tức bị từ chối) sẽ làm cho việc thực hiện kế hoạch của Trung Quốc trở nên vô cùng phức tạp. Tôi cam đoan sẽ ủng hộ Iank và sẽ soạn một bản ghi nhớ tỉ mỉ để Heydrich chuyển nó cho Himmler. Trong hai tuần, Heydrich và Himmler kiếm tìm một cơ hội thích hợp nhất để báo cáo lại cho Hitler. Ngay từ đầu họ đã quyết định cô lập hoàn toàn Ribbentrop. Đích thân Himmler báo cáo với Hitler về diễn biến tình hình. Lúc này Hitler đang quan tâm thật sự tới cả hai vấn đề, mặc dầu thoạt tiên ông ta bực tức khước từ đề nghị của Nhật. Đề nghị của Trung Quốc rất hấp dẫn ông ta. Hitler không nghi ngờ về sự chân thành của Tưởng Giới Thạch, nhưng lại không tin vào cách mà người Nhật sẽ phản ứng. Ông cho là mọi chuyện phụ thuộc vào đề nghị có tính thực tiễn cùng những điều kiện đặt ra. Tuy nhiên, đúng là Hitler thực sự quan tâm, và qua Heydrich bảo tôi chuẩn bị một báo cáo về quy mô Nhật bị lôi kéo vào những hành động quân sự tại Trung Quốc. Himmler được phép một mình nghiên cứu đề nghị của Trung Quốc, vì ông ta có lý khi chứng minh cho Hitler thấy rằng ở giai đoạn hiện tại, vấn đề trước hết liên quan tới ngành mật vụ và cần để nguyên hiện trạng như vậy. Vậy là Himmler đã loại được Ribbentrop khỏi cuộc chơi.

Nhưng rồi tám ngày sau Hitler đổi ý: cả hai đề nghị phải được xem xét đồng thời. Trong mọi trường hợp, vai trò chính phải dành cho tình báo, mà Hitler lại không muốn để Ribbentrop không hay biết gì; cần phải liên hệ với ông ta. Hitler yêu cầu Ribbentrop thảo luận đề nghị của Trung Quốc với người bạn lớn của mình là Oshima, đại sứ Nhật tại Berlin.

Cùng lúc đó người Nhật tuyên bố sẵn sàng đàm phán với Trung Quốc; nhưng đúng như dự đoán, họ đòi hỏi phải có những đề nghị cụ thể. Chính vì điều này Iank lại đi Thụy Sĩ. Có cảm giác là ông ta miễn cưỡng phải làm việc này, vì nói chung, ông ta không muốn tỏ ra là người trong cuộc. Bởi vậy ông ta đi Thụy Sĩ dưới lốt đại diện cho một hãng lớn của Argentina chuyên buôn ngũ cốc. Trong khi ông ta ở Thụy Sĩ, tôi nhận được một báo cáo tình báo chấn động. Đó là một tài liệu làm tôi sửng sốt: trong 30 trang liệt kê tỉ mỉ những bằng chứng về việc Iank là tình báo viên cao cấp của Anh và mục đích chuyến đi Thụy Sĩ là để nhận những chỉ thị mới.

Tôi liền ra lệnh cho tổ chức theo dõi Iank thật chặt và kiểm soát gắt gao mọi sự di chuyển của ông ta tại Thụy Sĩ. Tuy nhiên không phát hiện ra điều gì, còn công việc của ông ta trong hoạt động tình báo cũng không cho thấy có điều gì khả nghi. Trong khi đó tôi cũng không chuyển báo cáo đó lên cấp trên của tôi, vì quyết định rằng nếu ngay cả khi có đúng như vậy, tôi vẫn sẽ hợp tác với Iank. Cuối cùng, tôi đưa nó cho Iank. Trong khi ông ta đọc, tôi chăm chú quan sát phản ứng và nét mặt của ông ta. Tôi biết ông ta rõ đến mức chỉ một dấu hiệu nhỏ nhất lộ ra vẻ có tội của ông ta cũng khó mà qua mắt tôi được. Nhưng thái độ của ông ta hoàn toàn tự nhiên. Khó giải thích là điều đó chỉ do hệ thần kinh thép. Tôi cảm thấy Iank cảm ơn tôi một cách rất khó hiểu:

— Rốt cuộc, con người ở cương vị của anh cũng vẫn là một con người. Chẳng ai biết điều gì giấu trong lòng người khác. Với cương vị của mình, anh đang gặp phải những vấn đề mà chỉ mình anh giải quyết nổi. Cuộc sống của anh đã dạy cho anh nghi ngờ, nhưng tôi nghĩ, anh có khả năng chế ngự thói quen này. Công việc tạo nên tính cách con người, và về mặt này, anh có thể tin ở linh cảm của mình.

Từ Thụy Sĩ ông ta trở về quá nhanh, rõ ràng, kết quả chuyến đi làm ông ta thất vọng. Phía Trung Quốc đòi rút toàn bộ những đội quân của Nhật và trả lại tất cả các cảng; phía Nhật được quyền sử dụng các cảng quy định theo thỏa thuận song phương. Tôi đoán chắc những đòi hỏi này đi quá xa. Và tôi có cảm tưởng rằng thậm chí với tính chất thuần túy sách lược, phía Trung Quốc muốn giành cho mình quá nhiều, và chúng tôi thực sự hãm bớt yêu sách của họ. Cuộc hội đàm giữa Ribbentrop và người Nhật đã không đạt được kết quả như mong muốn. Iank đòi hành động nhanh, còn tôi cố kìm giữ Himmler và Ribbentrop.

Cuối cùng, vào tháng 6 năm 1942, phía Nhật chuyển cho chúng tôi những vấn đề mà họ muốn làm sáng tỏ. Một số câu hỏi trong đó Iank có thể thay mặt phía Trung Quốc trả lời ngay lập tức, số còn lại thì đích thân Tưởng Giới Thạch trả lời. Vì những vấn đề như thế đàm phán qua radio thì quá phức tạp nên họ đã quyết định cử đặc phái viên. Cho đến giữa tháng 9, tôi vẫn duy trì được mối quan tâm của phía Nhật, chủ yếu là do tôi nhắc lại những lập luận trước đây. Cùng lúc đó, người Trung Quốc gửi đến bức thông điệp không chứa đựng nội dung thông tin về các vấn đề cần làm rõ. Iank tin là phái viên Trung Quốc đã lên đường, mang theo văn bản giải trình những chi tiết đó kèm theo những ủy quyền mới. Nhưng tháng 9 năm 1942, sau những nỗ lực của chúng tôi để chạy đua với thời gian, phía Nhật bất ngờ tuyên bố rằng chuyện này không còn hấp dẫn họ nữa. Mọi cố gắng của chúng tôi nhằm duy trì đối thoại đã chẳng đi đến đâu. Cánh cửa đã khép lại. Tôi không rõ nguyên nhân nào đã đưa đến một quyết định như thế, nhưng tổng kết lại, tôi đi đến kết luận rằng Bộ Tổng Tham mưu Nhật đã can thiệp vào đây vì vào thời điểm đó họ đã quyết định bắt đầu cuộc tấn công nhằm chiếm cho được vùng Hán Khẩu và Đông Dương. Cuộc tấn công này đã bắt đầu ngay trước cuối năm.

[13] Enfant terrible: kẻ lập dị.