Chương 9 CHIẾN DỊCH “SEPPELIN”-◄○►
Mặc dầu ở mặt trận phía đông quân đội chúng tôi giành được những thắng lợi đầy ấn tượng, nhưng khoảng mùa hè năm 1942, những người thông thạo tin tức đều hiểu rõ rằng tình hình của chúng tôi đang trở nên phức tạp. Thứ nhất, chúng tôi vô cùng ngạc nhiên bởi khả năng chiến đấu, và hơn nữa, bởi số lượng quân Nga. Thứ hai, ở hậu phương Đức, phong trào kháng chiến trước đây chỉ hoạt động thường là dưới hình thức những phân đội nhỏ lẻ đã biến thành cuộc chiến tranh du kích được tổ chức tốt, buộc các lực lượng an ninh phải có mặt ở khắp nơi. Himmler và Heydrich gây sức ép với tôi, đòi hỏi thêm những báo cáo tình báo quân sự vì tin tức nhận được là chưa đủ. Theo ý họ, chúng tôi không có được thông tin chính xác cả về tình hình chính trị cũng như tình hình sản xuất các phương tiện chiến tranh. Hoạt động du kích gia tăng và mạng lưới giao thông bị phá hoại nghiêm trọng càng minh chứng rằng chúng tôi không đủ khả năng giáng trả, đó là điều khiến Quốc trưởng đặc biệt quan tâm. Những cuộc trao đổi ngắn gọn với Heydrich, và sau đó, với Himmler, đều đề cập đến một vấn đề: khối lượng và kết quả của công tác tình báo đã không đáp ứng được những đòi hỏi của tình hình trên khắp các mặt trận. Himmler đặc biệt quan tâm đến việc tại sao tin tức tình báo về Liên Xô lại thiếu chính xác như vậy. Ông ta lại nhắc tôi câu nói của Quốc trưởng: “Chúng ta cần thanh toán Nga trước khi những kẻ khác vào cuộc.” Tôi trả lời ông ta rằng nguyên nhân khiến thông tin thiếu chính xác là do thiếu thốn về phương tiện vật chất và đội ngũ nhân sự. Nếu các sĩ quan phụ trách nhân sự quả quyết rằng đã cho tôi hàng trăm người, thì con số đó quả là còn chưa đủ. Bản thân con số chẳng nói được gì nhiều; nhiệm vụ trước mắt là chúng tôi phải đào tạo một số lượng lớn người nước ngoài, những nhà ngôn ngữ học và nhiều chuyên gia khác nữa, vậy mà chúng tôi lại đang thiếu trầm trọng trang thiết bị kỹ thuật. Có giải pháp nào khác để thoát khỏi tình trạng này? Việc chuẩn bị đầy đủ cho chiến tranh không được thực hiện, mà không thể trong nháy mắt thanh toán được tình trạng lạc hậu đã tích tụ lại trong nhiều năm. Mạng lưới cung cấp thông tin của chúng tôi cùng các trung tâm tình báo tại Thụy Điển, Phần Lan, tại vùng Balkan và Thổ Nhĩ Kỳ đã hoạt động hết công suất, tuy nhiên, chúng tôi đã không có được một bức tranh đủ tin cậy, thích hợp cho một kế hoạch dài hạn.
Người ta yêu cầu tôi đặc biệt chú ý tới công tác tình báo trực tiếp ở ngoài mặt trận, thế nhưng chẳng ai biết một hoạt động như thế đang vấp phải những khó khăn nào. Điệp viên của chúng tôi, xét về phương diện số lượng cũng như quy cách đào tạo, đã không đáp ứng được yêu cầu, trong khi đó, những mệnh lệnh chỉ thị vội vàng, mâu thuẫn nhau từ bên trên lại làm khó dễ cho việc triển khai những hoạt động từ từ; nhất quán của chúng tôi. Mặt khác, chúng tôi còn phải tính tới sự hoạt động nghiêm ngặt và cẩn trọng của cảnh sát mật vụ Nga.
Công tác tình báo chống lại Nga do ba ban điều hành. Nhiệm vụ của ban thứ nhất là tiếp nhận và điều phối những thông tin do những tình báo viên của chúng tôi nằm vùng ở các nước gửi về. Chúng tôi cố làm sao để có được thật nhiều thông tin, cả thông tin mật và công khai. Nguồn thông tin công khai là báo chí, số liệu thống kê chính thức, sách và những ấn phẩm khác. Nguồn tin loại đó thông thường cần thiết cho mục đích phân tích dài hạn, đòi hỏi đội ngũ nhân viên phải có trình độ trí tuệ cao; đội ngũ này gồm những người có các quốc tịch khác nhau, do vậy buộc phải sử dụng họ mà không phân biệt những thuộc tính sắc tộc, tôn giáo. Để thực thi công việc này, tại thủ đô các nước châu Âu đã thành lập những trung tâm thông tin tương tự như ở Berlin. Thông qua một trong những trung tâm như thế, mà sự hiện hữu của nó chỉ có ba tình báo viên ở Berlin được biết, chúng tôi có thể liên lạc trực tiếp với hai sĩ quan Bộ Tham mưu của nguyên soái Rokoxovxki. Có điều rất lạ là cả hai viên sĩ quan này đều tỏ ý nghi ngờ về sự trung thành của Rokoxovxki đối với Stalin. Rất có thể là do Rokoxovxki, nguyên là sĩ quan quân đội Nga hoàng, đã bị đi đày một thời gian ở Xibiri.
Sau này, khi người ta giao cho tôi lãnh đạo Cục Tình báo Quân sự của đô đốc Canaris, lại xuất hiện thêm một trung tâm quan trọng nữa. Đứng đầu trung tâm này là một người Đức gốc Do Thái có phong cách làm việc hết sức độc đáo. Biên chế của trung tâm này gồm hai người, mọi việc ở đây đều được cơ giới hóa. Với mạng thông tin phủ trên nhiều nước và len lỏi vào mọi tầng lớp xã hội, ông ta kịp thời nhận được những tin chính xác từ Bộ Chỉ huy tối cao Quân đội Nga; đó là những tin tức có ý nghĩa đặc biệt, theo đánh giá của Ban Phân tích thuộc Bộ Tổng Tư lệnh của chúng tôi. Đây quả là một người biết làm việc. Ông ta có thể lấy được cả những kế hoạch chiến lược đang được triển khai, cũng như những chi tiết về sự di chuyển của những đơn vị quân đội tận cấp sư đoàn. Báo cáo của ông ta thường đến sớm trước hai, ba tuần so với sự kiện thực, nhờ vậy Bộ Chỉ huy của chúng tôi có khả năng áp dụng những biện pháp chống trả, - ở đây tôi cần nói rõ - nếu như Hitler thực sự quan tâm hơn nữa đến những thông tin như vậy. Tôi đã phải làm đủ mọi cách để bảo vệ một chuyên gia quý giá như thế trước Muller và cứu ông ta thoát khỏi những kẻ mưu mô bè phái trong cục của tôi và của Luftwaff. Đứng đằng sau những người quyết loại trừ “tên Do Thái” này là Kaltenbrunner và Muller. Để có cớ, người ta đã sử dụng không chỉ nguồn gốc Do Thái của ông ta, mà cả những điều khẳng định nguy hại nhất: có vẻ như ông ta đang tham gia vào hoạt động tung tin giả quy mô rộng do tình báo Nga thực hiện. Họ cho rằng trong một thời gian dài phía Nga cố ý cung cấp cho chúng tôi những tin xác thực, để rồi vào những thời điểm quyết định, họ làm chúng tôi lạc hướng khi ngầm dúi cho chúng tôi những tin giả.
Ban thứ hai chịu trách nhiệm về chiến dịch “Seppelin”. Mục đích của chiến dịch này là tung vào hậu phương Xô Viết những đơn vị lớn gồm những tù binh Nga. Những người này được nhận quy chế quân nhân Đức, mặc quân phục Đức, được nuôi dưỡng tốt, được cấp chỗ ở, xem những bộ phim tuyên truyền và được đi lại khắp nước Đức. Đồng thời, những người chịu trách nhiệm huấn luyện họ, với sự trợ giúp của những mật báo viên, có thể nắm được trạng thái tinh thần thật của họ: liệu có phải họ chỉ muốn hưởng những ưu đãi được dành cho không, liệu họ có trở thành những người chống lại chính thể Stalin không, và còn nữa, liệu họ có ngã lòng trước những xung đột giằng xé nội tâm không, có dao động giữa hai hệ tư tưởng, chủ nghĩa Đức quốc xã và chủ nghĩa Stalin không. Sau khi được huấn luyện cẩn thận và nhận trang bị, họ được tung sang mặt trận phía đông và được sử dụng để thu thập thông tin cũng như luồn sâu vào hàng ngũ du kích Nga, bởi vì nhiệm vụ của chiến dịch “Seppelin” là chiến đấu với du kích. Tính đến việc họ sẽ phải hành động trên một địa bàn rộng và không tránh khỏi những tổn thất lớn, người ta còn huấn luyện cả những nhóm đặc nhiệm để thực hiện những nhiệm vụ tình báo đặc biệt, trong đó có việc thiết lập các mối tiếp xúc với kiều dân Đức tại Nga. Để thực thi kế hoạch này, người ta đã thành lập ba phân đội: “Nam”, “Trung”, “Bắc”. Những phân đội này có nhiệm vụ phá hoại ngầm và thu thập thông tin, họ sẽ được tung sang phía bên kia trận tuyến những phi đội của Luftwaff. Phương tiện liên lạc chủ yếu là những giao thông viên và máy thông tin vô tuyến bí mật. Đa phần các điệp viên được tung vào những vùng mà họ có thể được bè bạn giúp đỡ. Một số người trong họ được trang bị xe đạp, pin nhiên liệu, thiết bị truyền phát sóng có bàn đạp có thể truyền phát tin mật bằng cách đạp pê đan liên tục. Một điệp viên trong số họ thậm chí đã cùng một thê đội lính Nga đến được tận Vlapoxtok. Anh ta đã săn được và chuyển cho chúng tôi những thông tin chi tiết và đầy đủ về sự chuyển quân của Nga. Đất nước Nga rộng lớn đã tạo điều kiện cho các điệp viên của chúng tôi dễ dàng trà trộn mà không gặp trắc trở gì, đôi khi, họ hoạt động suốt trong nhiều tháng, nhưng rồi cuối cùng phần lớn đều bị NKVD tóm bắt. Để theo dõi và truy tìm các điệp viên của chúng tôi, NKVD đã phải huy động cả một sư đoàn hoặc một đơn vị du kích. Chiến dịch “Seppelin” đã phát triển thành công, nhưng tất cả những lời than phiền của chúng tôi về khó khăn gặp phải đều chỉ nhận được một lời đáp dập khuôn: “Tốt lắm, nhưng nhiệm vụ của các anh không có gì thay đổi, đó là cung cấp thông tin cho quốc trưởng.” Chẳng ai chú ý tới những khiếm khuyết hiển nhiên trong khâu huấn luyện, trong chuyên môn nghiệp vụ của nhân viên, và trong việc trang bị chuyên dụng.
Hitler muốn có những thông tin chính xác về việc tổ chức các đội du kích Nga, về cơ cấu và điều hành chỉ huy những đơn vị này, cũng như những nhiệm vụ cụ thể của họ. Tôi dành ưu tiên cho vấn đề này và định đưa ra những nhiệm vụ đặc biệt trong đợt công tác đã ấn định sang Thụy Điển và Na Uy. Tôi đưa ra một số ý kiến về chiến tranh du kích và trình bày trước tiên với Heydrich, sau đó là với Himmler: bất kỳ một cuộc chiến tranh du kích hay một phong trào kháng chiến nào hoạt động tích cực và huy động lực lượng nhằm mục đích phát triển đều có những tư tưởng hoặc lý tưởng để đoàn kết những thành viên tham gia. Tư tưởng này phải đủ mạnh để khơi dậy nghị lực và lòng quyết tâm của họ. Tất nhiên, trong cuộc chiến tranh du kích đang diễn ra cần có cả trình độ chỉ huy cao, nhưng chính tinh thần chiến đấu của mỗi một thành viên mới là sức mạnh quyết định. Tôi đã thảo luận vấn đề này trong nhiều đêm tranh luận với các sĩ quan và các cộng tác viên - điệp viên người Nga của “Viện Vanse”. Tôi hiểu rõ rằng Stalin và những nhà lãnh đạo khác của Nga đang thúc đẩy phát triển một hình thức chiến tranh du kích với tính khốc liệt đặc trưng đối với cả hai phía mà trong tiến trình của nó, các đội du kích đang hoạt động. Người Nga sử dụng sự tàn bạo của các đội quân Đức làm cơ sở biện minh cho các hành động của mình, chẳng hạn như cái lệnh bắn giết tất cả các chính ủy, những lập luận tuyên truyền cho người Nga là dân tộc hạ đẳng, rồi những vụ bắn giết hàng loạt do những nhóm “trừng phạt” tiến hành bởi lực lượng an ninh đặc biệt hiệp đồng với quân đội ở đằng sau những vùng chiến sự - tất cả thực chất là đang cổ vũ về mặt tâm lý cho tinh thần kháng chiến quật cường của du kích quân. Những người Nga nói chuyện với tôi đều cho rằng, thực ra những hành động ấy chỉ có lợi cho Stalin, còn theo tôi, những tuyên bố của chúng tôi về tính hợp pháp của những hành động ấy đã xác nhận ý tưởng này. Một người trong số họ cho rằng mục tiêu quan trọng nhất của chiến tranh du kích là kích động những hành động tàn bạo và tất cả những gì đảm bảo có được sự ủng hộ của dân chúng thực ra cũng có lý. Tính cực kỳ tàn bạo này phải đem gán cho những người Đức đi xâm chiếm, điều này khiến những người còn đang dao động sẽ chuyển sang tích cực chống đối. Xuất phát từ lợi ích của người Nga, nếu như phải trừng trị những phần tử không đáng tin cậy, thì việc này cần làm sao để tạo ra ấn tượng như là người Đức làm. Trong trường hợp như vậy, một bộ phận dân chúng còn lại hẳn sẽ rất sẵn sàng trợ giúp những hoạt động du kích.
Trong một báo cáo khác đã dẫn ra những chỉ thị đặc biệt của NKVD về hình thức phối hợp với các đội du kích. NKVD cần phải đưa những điệp viên tin cậy hơn vào quân đội Đức và cả các cơ quan chính phủ Đức, đó là những người hoạt động với tư cách cố vấn và mật báo viên. Nhiệm vụ của họ, ngoài việc duy trì mối tiếp xúc chặt chẽ với du kích, đưa tin xác thực hoặc tin giả, còn phải làm sao thuyết phục chính quyền ở những vùng Đức chiếm đóng có những biện pháp cứng rắn chống lại những nhóm cự dân, chẳng hạn những người Do Thái, địa chủ và phú nông. Đương nhiên, hành quyết, thủ tiêu và v…v… sẽ được giải thích như là biểu hiện cho sự dã man một cách có ý thức của người Đức chống lại nhân dân Nga. Đây là một chương trình vô cùng quỷ quyệt mà những nhà lãnh đạo Nga đã thực hiện mà xét về hậu quả, nó chẳng kém phần tàn bạo dã man hơn so với những biện pháp người Đức đã áp dụng.
Himmler và Heydrich không tin rằng ban lãnh đạo Nga có thời gian và đủ năng lực để vẽ nên những ý tưởng phức tạp đến như vậy. Tôi giải thích cho hai người rằng ý kiến của tôi dựa trên những thông tin rút ra từ những báo cáo và các đánh giá chuyên môn của những cố vấn của tôi. Ngoài ra tôi còn nói thêm, các nhà lãnh đạo Nga hiểu nhân dân họ hơn chúng ta và không bị mắc lừa bởi những lập luận tuyên truyền về người Nga “hạ đẳng”. Rốt cuộc tôi chịu một trận phê phán nên thân và đã phải ngậm miệng một thời gian.
Sau này tôi lại trở lại vấn đề đó, nhưng lần này hết sức thận trọng, dè dặt. Tôi rút ra kết luận rằng nên đặt ra cho những tù binh Nga đang làm việc cho chúng ta một lý tưởng có sức hấp dẫn đáng để liều mình hy sinh vì nó. Chủ nghĩa quốc xã không thích hợp với lý tưởng này vì nó xa lạ với họ. Chắc chắn hy vọng vào quyền tự trị trong tương lai sẽ hấp dẫn họ hơn. Nhưng ý kiến này không thuyết phục được ai trong các sếp của tôi. Họ vẫn kiên trì đường hướng cũ: cho những người Nga mặc quần áo Đức và dành cho họ những điều kiện thuận lợi hơn. Họ gắn huân chương cho người Nga, kể cho họ về mức sống cao ở Đức và cách tổ chức quốc gia hữu hiệu của Đức. Trong một số trường hợp, điều này đã thu được những kết quả, nhưng trong đại đa số trường hợp khác cần phải có một cái gì đấy hợp với tính cách Nga hơn và có khả năng thỏa mãn lòng khao khát muốn đòi hướng tới nền độc lập. Sau này tôi đã nói với Himmler điều này một cách cởi mở hơn. Khoảng cuối 1942, ông ta bắt đầu có thiện cảm hơn đối với những ý tưởng của tôi, nhưng tôi khó mà có thể hy vọng ông ta gật đầu “đồng ý” dứt khoát vì những thành kiến đối với Phương Đông trong ông ta đã hằn sâu. Ông ta đã chịu ảnh hưởng rất lớn của những tư tưởng mà Hitler nhồi cho suốt 20 năm. Với Heydrich tôi đã sớm chấm dứt, nghĩa là không thảo luận vấn đề này nữa. Heydrich bộc lộ ý nghĩ của mình một cách rất cởi mở khi nói: “Khéo có ngày anh lại được Stalin thưởng huân chương đấy.” Đó là sự cảnh báo rõ ràng rằng trong công tác tuyên truyền với tù binh Nga, ông ta muốn sử dụng khái niệm chủ nghĩa quốc xã thuần túy.
Tôi đã có mấy buổi trò chuyện thú vị với hai quân nhân Nga. Một người là sĩ quan Bộ Tổng Tham mưu, một người là binh nhất. Cả hai đều là người Moskva. Một người là quân nhân chuyên nghiệp, một người là kỹ sư thủy lực học. Họ bị bắt làm tù binh hồi tháng 8 năm 1941 tại Bryanxk và đều đã qua vài đợt huấn luyện của chúng tôi. Cả hai tỏ ra hiểu biết rộng và đều là những người thông minh và đáng tin cậy. Họ được biên chế vào nhóm cố vấn về thực thi điệp vụ “Seppelin” tại Berlin và được cấp chỗ ở như những nhân viên dân sự. Tôi tới thăm họ, đi cùng một trưởng ban, một người Đức gốc Baltic có trình độ học vấn cao và là một phiên dịch viên giỏi đã từng nhiều lần trò chuyện với họ. Với sự giúp đỡ của ông ta chúng tôi đã có buổi trao đổi trực tiếp thú vị và thoải mái nhờ chai rượu tôi mang đến. Hai người Nga này rất khác nhau. Viên sĩ quan là người giỏi tranh luận và là người theo chủ nghĩa Stalin. Với người thứ hai, chế độ chỉ có ảnh hưởng phần nào, anh này nhìn nhận những tồn tại của chế độ với đầu óc thực tế, lành mạnh. Cả hai đều vững tin vào chiến thắng của Nga trong cuộc chiến. Niềm tin này không phải là kết quả của tuyên truyền. Nó đã có cội nguồn sâu xa, ý kiến của họ xuất phát từ những tiền đề khác nhau. Viên sĩ quan xuất phát từ những phẩm chất vĩ đại nhất của Stalin như một lãnh tụ, và từ sức mạnh của quân đội Nga. Người kia có lối suy nghĩ đơn giản hơn. Anh ta nói:
— Người Đức các ông không bao giờ khuất phục được dân tộc Nga và xứ sở Nga mênh mông. Thậm chí nếu các ông có đem đến cho các dân tộc một nền độc lập thì đó cũng chỉ là một bước tạm thời trên con đường truyền bá tất yếu của chủ nghĩa cộng sản.
Anh ta còn nói rằng ở Nga đang dấy lên làn sóng chủ nghĩa yêu nước, những vở kịch như “Kutuzov”, “Sống chết vì Sa Hoàng” và “Bá tước lgor” lại được tái diễn rất thành công ở Moskva. Trong mỗi vở diễn, sau những thắng lợi lớn ban đầu, kẻ xâm lược đều chịu thất bại trước lòng quả cảm vô song của nhân dân Nga và xứ sở Nga mênh mông. Viên sĩ quan kể về những câu chuyện mạn đàm của các cấp chỉ huy mà anh ta chứng kiến. Qua những câu chuyện có thể thấy: Stalin sẵn sàng hy sinh 20-30 triệu người để nhử đối phương vào sâu hơn nữa: Đó là kế chờ thời làm suy yếu dần những đòn tấn công của Đức, và những trận giao tranh quyết liệt sẽ diễn ra ở những nơi người Nga dự tính giáng trả trong điều kiện mùa đông khắc nghiệt. Chỉ nguyên mạng lưới giao thông trải dài đã ngốn mất phần lớn nguồn dự trữ của Đức, và chúng là những điểm dễ bị du kích tấn công. Khi tháo lui, người Nga không để cho kẻ thù thu được dù một chiếc xe, một nhà máy, một thùng xăng. Sau cùng, dưới áp lực của thiên nhiên, với sức nặng của chính những thắng lợi và những đòn giáng trả của quân Nga, quân Đức chắc chắn sẽ bị đập tan trước những đòn phản công mới và có tổ chức.
Sau buổi trò chuyện, tôi đã suy ngẫm rất nhiều. Tôi bị ấn tượng rất mạnh trước sự thẳng thắn của hai người đối thoại khi bảo vệ quan điểm của họ, mà tôi phải công nhận là ý kiến của họ đầy trí tuệ. Tôi báo cáo với Heydrich về cuộc trò chuyện và nói thêm rằng dĩ nhiên khó mà hiểu được logic của họ. Những thắng lợi quân sự của chúng ta lớn đến mức khó mà hình dung nổi bằng cách nào nước Nga và dân tộc Nga có thể thực hiện được việc tái tổ chức cần thiết. Tất nhiên tôi vẫn còn bị giày vò bởi mối nghi ngờ: liệu Stalin có đủ tiềm lực kinh tế, quân sự để hiện thực hoá kế hoạch đã vạch ra không. Mặt khác, không nên quên một điều là Luftwaff hiện chưa bắt đầu đánh vào những vùng công nghiệp ở miền tây và đông Ural.
Heydrich đã bàn với Himmler về vấn đề này và yêu cầu tôi viết một báo cáo trình Hitler. Ba tuần sáu Heydrich trả lại tôi bản báo cáo và nói rằng Quốc trưởng coi nó là chuyện tầm bậy. Tôi dè dặt trả lời: “Tôi không thật đồng ý với nhận xét đó”, nhưng cũng nói thêm rằng ở thời điểm hiện tại chúng tôi không thể phiêu lưu. Giá như chúng tôi có đủ máy bay thì đã có thể gây tổn thất đáng kể cho những xí nghiệp công nghiệp của Nga. Chúng tôi đã hoàn tất việc sơ bộ chuẩn bị cho những hoạt động này và đã thử nghiệm chở đạn trái phá “Fau-1” đến khu vực mục tiêu bằng máy bay ném bom tầm xa hoặc lao xuống mục tiêu bằng “phi công cảm tử”. Nhiều phi công đã chuẩn bị chờ được nhận nhiệm vụ này. Họ sẽ tấn công những tổ hợp công nghiệp ở vùng Kuibyshev, Trelyabinsk, Magnitogorsk và Donbass. Những trung tâm đầu não này của nền kinh tế Xô Viết đã được lựa chọn với sự trợ giúp của các chuyên gia giàu kinh nghiệm; họ đã phân tích khả năng chống trả của các nhà máy, căn cứ từ sản phẩm làm ra và vị trí của chúng. Mục tiêu tấn công chủ yếu là những nhà máy điện cực lớn, những trạm biến thế và những lò luyện gang. Tuy nhiên Luftwaff đã không có đủ tiềm lực để hiện thực hóa một kế hoạch đã được hoạch định cẩn thận như vậy. Chúng tôi chỉ có thể tiến hành những cuộc không kích riêng lẻ vào những trạm cao áp và những đường dây tải điện quan trọng nhất, v.v… Tất nhiên đó chỉ là những vết châm chích nhỏ bé và vai trò của chúng chỉ là bó chân phần nào lực lượng an ninh của NKVD. Tất cả những hành động này hoàn toàn không ảnh hưởng tới sức mạnh của quân đội Nga. Theo những kế hoạch khác, dự kiến sẽ ném những tiểu đoàn tù binh Nga đã được huấn luyện đặc biệt dưới sự chỉ huy của các sĩ quan SS người gốc vùng Baltic vào hậu phương Nga, cụ thể là vào gần một số trại lao động cải huấn lớn nhất nằm ở những vùng xa xôi hẻo lánh. Họ phải tiêu diệt đội bảo vệ, giải phóng tù nhân, ước tính ở nhiều nơi lên đến trên hai mươi ngàn người, và giúp những người đó đến được những vùng đông dân cư. Như vậy, người Nga sẽ mất một phần đáng kể nhân lực, mặt khác những hành động như vậy hẳn còn có hiệu quả thực sự về mặt tuyên truyền. Việc chuẩn bị một trong những chiến dịch như vậy đã được tiến hành rất kỹ càng: đã liên lạc được với các tù nhân ở một trong các trại cải huấn. Thế nhưng Luftwaff lại chơi khăm chúng tôi. Tất nhiên, chẳng phải họ không muốn giúp, mà vì họ gặp một trở lực là thiếu phương tiện cần thiết và lại đang chậm trễ trong chương trình sản xuất máy bay của mình. Sau này chúng tôi sử dụng những người được huấn luyện đặc biệt để hoạt động ở hậu phương đối phương, nơi quân Nga tổ chức lại các binh lính đã hồi phục sau khi bị thương nặng, và cả những đơn vị nhỏ lẻ vượt vòng vây trở về. “Đội quân” của Vlasov đã bí mật dành cho chúng tôi sự trợ giúp quý báu về mặt tâm lý. Trên cờ của lực lượng này có dòng chữ “Giải phóng nước Nga khỏi chế độ Xô Viết”. Tôi và viên tướng đào ngũ khỏi quân đội Nga là tướng Vlasov cùng Bộ Tham mưu của ông ta đã có một thỏa ước mà theo đó ông ta có quyền tổ chức bộ phận tình báo riêng, và thông tin họ khai thác được sẽ chuyển cho tôi. Hình thức hợp tác như thế rất thuận với tôi. Tất nhiên, hiện thời các bạn đồng nghiệp Nga ấy của chúng tôi hoạt động với tinh thần hoàn toàn khác: họ chiến đấu vì tự do của một nước Nga mới và không bị người Đức can thiệp thô bạo vào những hoạt động của mình. Cho đến tận ngày kết thúc bi thảm của mình, Hitler và Himmler vẫn không chịu chính thức công nhận tướng Vlasov và sử dụng lực lượng của ông ta. Đó là một sai lầm mang tính nguyên tắc; xuất phát từ tư tưởng tự cao không muốn trao quyền tự trị cho bất cứ ai. Một nguyên nhân nữa là do sự nghi ngại rằng Vlasov không hoàn toàn chân thành và có thể để ngỏ cho quân Nga một khu vực ngoài trận tuyến. Họ còn đề phòng sự xuất hiện một phong trào kháng chiến ngay trên đất Đức. Với một số lượng công nhân người nước ngoài vô cùng lớn, đặc biệt là hàng triệu người bị bắt đến từ nước Nga Xô Viết, khả năng như vậy là không thể loại trừ. Muller lợi dụng tình hình lúc đó như một quân át chủ bài. Ông ta vạch ra hiểm họa bùng phát từ phía kẻ thù ở ngay trong lòng nước Đức, và nhấn mạnh rằng trong điều kiện như vậy ông ta không thể đảm bảo yên ổn cho ngành công nghiệp. Nhưng những nghi kỵ về sự không đáng tin của Vlasov không thể ảnh hưởng tới vấn đề này: lúc nào cũng có thể bố trí đội quân của Vlasov ở một khu vực mặt trận mà quân Đức có thể kiểm soát được họ. Còn một vấn đề nữa là bất đồng về việc ai sẽ chịu trách nhiệm chỉ huy Vlasov và đội quân của ông ta; cuộc cãi vã chắc làm ngay cả Vlasov cũng phải phì cười. Yêu cầu thành lập đội quân này đầu tiên được quân đội nêu ra, sau đó những yêu cầu tương tự xuất hiện từ các bộ trưởng phụ trách những vấn đề liên quan tới phần lãnh thổ phía đông, tức là từ Rosenberg, kế đến là Himmler, và cuối cùng, chẳng có gì lạ, là Ribbentrop, ai cũng tuyên bố đó là quyền hạn của mình. Giải pháp tốt nhất là đặt tất cả các vị này lên những con ngựa chiến Cozac để các vị xung trận cùng đội quân tiên phong của tướng Vlasov. Điều này hẳn sẽ giải quyết dứt điểm được vấn đề.
Sau khi kết thúc giai đoạn chuẩn bị về tâm lý và lý tưởng cho các chiến sĩ tình nguyện là bắt đầu những bài tập thực hành nghiên cứu chủ yếu các loại máy móc vô tuyến. Do số lượng học viên lớn và không đủ giáo viên hướng dẫn nên việc huấn luyện phải tuân thủ các yêu cầu của kỷ luật quân sự, nhưng vì các học viên tình nguyện đều mang mật danh nên nảy sinh tình trạng hỗn loạn.
Tất nhiên, NKVD đã gây cho chúng tôi những tổn thất đau đớn. Ngoài ra, NKVD bắt đầu phái người của mình vượt trận tuyến, trà trộn vào trong số thành viên tham gia các điệp vụ “Seppelin” và phá từ trong ra. Để tung các điệp viên theo sự bố trí, chúng tôi đã được cấp một phi đội máy bay chiến đấu, nhưng Ban Quân sự và Ban Chính trị của Cục Tình báo khi ấy vẫn làm việc riêng rẽ. Bởi thế nhiệm vụ của ban này lại thường chống lại nhiệm vụ của ban kia và chúng tôi đành phải chia sẻ với nhau số lượng máy bay hạn chế cùng số nhiên liệu còn ít ỏi hơn nữa. Do vậy tiến độ tung các điệp viên có những nhiệm vụ khác nhau càng về sau càng bị vi phạm. Vả lại, không điều gì tác động tới thần kinh của điệp viên tệ hơn là tình trạng phải chờ đợi lâu. Cho nên chúng tôi đã gom những điệp báo viên đang chờ đợi nhiệm vụ lại để thành lập một phân đội chiến đấu có tên gọi “Đội Thân binh”. Phân đội này có nhiệm vụ duy trì trật tự ở vùng hậu phương chúng tôi, và nếu cần thì tiến hành chiến tranh chống du kích. Chỉ huy “Đội Thân binh” là đại tá người Nga Rodionov với biệt danh “Zhil”, người mà tôi đã có dịp trò chuyện cùng. Qua buổi trò chuyện, tôi hiểu rằng sự chống đối ban đầu của anh ta đối với chủ nghĩa Stalin bắt đầu bị suy giảm. Theo nhận xét của anh ta, người Đức đã đối xử quá ghê tởm đối với người dân Nga và tù binh chiến tranh. Bản thân tôi cũng phản đối kiểu đối xử này, nhưng mặt khác tôi buộc phải bảo vệ quan điểm của Himmler. Tôi khuyên Zhil chớ quên rằng bản thân chiến tranh và những biện pháp tiến hành chiến tranh ngày càng trở nên tàn bạo và vô nhân đạo hơn từ cả hai phía. Khi nói đến chiến tranh du kích thì lại nổi tên những băn khoăn: liệu đã có bao nhiêu người Nga, hay một số lượng người Đức thậm chí còn đông hơn, đã có những hành vi tội phạm. Để đáp lại, anh ta nhắc tôi về những lời lẽ biện hộ tuyên truyền đã nói về dân tộc Nga “hạ đẳng”. Tôi đáp lại rằng chính anh đã chọn thuật ngữ “tuyên truyền”, mà trong thời chiến thì thật khó tuân thủ chuẩn mực đạo đức rõ ràng. Tôi cho rằng người Belarux, người Ucraina, Gruzia, Azerbaidjan, người Trung Á và những người dân thiểu số khác sẽ hiểu rằng tất cả những ngôn từ này là sản phẩm của đường lối tuyên truyền trong thời chiến.
Khi chúng tôi bắt đầu nếm mùi thất bại ở Nga, việc tiến hành hoạt động tình báo càng trở nên phức tạp hơn. Đã xuất hiện một số khó khăn nhất định trong việc lãnh đạo “Đội Thân binh”. Rốt cuộc, bất chấp những gì tôi đã liên tục cảnh báo, điều mà tôi e sợ đã xảy ra. Người ta lại sử dụng “Đội Thân binh” để “quét sạch” một làng du kích. Đại tá Rodionov đã ra lệnh cho những binh sĩ dưới quyền anh ta, những người đang áp giải du kích bị bắt làm tù binh vào một trại tập trung, tấn công phân đội SS hộ tống. Sau khi bất ngờ tóm gọn binh sĩ Đức, những người lính Nga ấy đã giết họ theo cách dã man nhất. Thế là những người lúc đầu chân thành hợp tác với chúng tôi đã biến thành kẻ thù tàn ác nhất của chúng tôi. Rodionov đã tiếp xúc với cơ quan trung tâm đầu não của phong trào du kích tại Moskva và kéo những binh lính dưới quyền mình chạy sang phía đối phương của Đức. Sau cuộc tàn sát đẫm máu đối với phân đội SS, anh ta đã từ một sân bay bí mật của du kích bay về Moskva. Stalin đích thân ra đón và gắn huân chương Stalin cho anh ta. Đó là một thất bại nghiêm trọng, tuy nhiên, tôi không chịu trách nhiệm cá nhân, vì nhiều lần tôi đã gặp Himmler để đề nghị gạt Rodionov khỏi chiến dịch chống du kích.
Bên cạnh việc thu hút người Nga vào hoạt động tình báo, chúng tôi đã lập được hồ sơ về những tù binh có trình độ chuyên môn nghiệp vụ khác nhau. Tại một trung tâm, dần dần những chuyên gia có bằng cấp này đã thoát khỏi cuộc sống buồn tẻ và khủng khiếp của những tù binh chiến tranh. Họ đã được làm việc theo chuyên môn của mình với tư cách là kỹ sư điện, nhà hóa học, kỹ sư luyện kim, v…v… Rồi họ từ từ vượt qua sự nghi ngờ, họ tổ chức những nhóm tranh luận, những tổ nghiên cứu, quen dần với những bài phát biểu của các chuyên gia Đức. Nhờ có sự chuẩn bị về mặt tâm lý như vậy, chúng tôi đã tổ chức được hoạt động cộng tác, qua đó chúng tôi không chỉ đánh giá được những thành tựu khoa học của người Nga, mà còn cùng thúc đẩy được sự phát triển nền công nghiệp quốc phòng của nước Đức. Chúng tôi còn đề ra cả những nhiệm vụ đặc biệt bổ sung cho chương trình “tuyển nhân công ồ ạt” này. Những người tình nguyện phục vụ đủ tin cậy được mặc quần áo dân sự, được đảm bảo cấp chỗ ở tàm tạm, thường là những căn hộ tư nhân thuộc quyền quản lý của Cục Tình báo.
Ban thứ ba trong cục chúng tôi chịu trách nhiệm về công việc của “Viện Vanse”. Sở dĩ có tên như vậy vì ban này chuyển từ một công thự trước đây ở Breslau về thành phố Vanse ở ngoại ô Berlin. Thực ra viện này là một thư viện với bộ sưu tập đồ sộ nhất ở Đức gồm những tư liệu về Nga. Ý nghĩa của bộ sưu tập có một không hai này là ở chỗ nó gồm một số lượng lớn sách báo in bằng nhiều thứ tiếng nguyên bản. Quản lý viện là một người Gruzia được phong học hàm giáo sư cả ở Đức và ở Nga. Biên chế của viện gồm những nhân viên thư tịch học, cán bộ nghiên cứu và các giảng viên tiếng Nga từ nhiều trường đại học. Họ được phép đi lại khắp mọi miền bị chiếm đóng trên đất Nga để trực tiếp thu thập tài liệu qua tiếp xúc với dân Nga. Ngay từ trước chiến tranh “Viện Vanse” đã tỏ ra vô cùng lợi hại. Viện thu thập những thông tin về mạng giao thông đường bộ, đường sắt của Nga, về đường lối kinh tế và chính trị của chế độ Xô Viết, về những dự định và thành phần Bộ Chính trị. Với một đội ngũ cán bộ đông đảo cùng nếp sống chu đáo cẩn thận trong khoa học, “Viện Vanse” đã đúc rút được những kết luận quan trọng về những vấn đề dân tộc và dân tộc thiểu số, về bầu không khí tâm lý tại các nông trường quốc doanh và nông trang tập thể, cũng như về nhiều vấn đề khác.
Năm 1942 “Viện Vanse” đã có những bằng chứng đầu tiên chứng minh rằng những tài liệu thống kê và tài liệu khoa học xuất bản ở Liên Xô là không đáng tin cậy. Chúng đã bị thay đổi, hoặc nói khác đi là bị sửa chữa để ở nước ngoài không thể biết được mức độ phát triển của các lĩnh vực khoa học, sản xuất và mức độ năng động xã hội. Sau một thời gian, Ban Thu thập Thông tin của chúng tôi đã có thêm tư liệu bổ sung, xác nhận giả thiết trên. Người Nga đã thành lập những cơ quan có nhiệm vụ kiểm tra tất cả mọi ấn phẩm về những lĩnh vực khoa học khác nhau, về thống kê và cả công thức hóa học, v…v… để làm giả, xuyên tạc những tài liệu này ở những điểm then chốt. Đồng thời cơ, quan này kiểm tra ngặt nghèo mọi công trình nghiên cứu ở mọi lĩnh vực, và theo quy tắc bảo mật chuyên môn, những tài liệu chuẩn xác chỉ phổ biến cho những nhà khoa học và kỹ sư Nga nào cần đến chúng cho công việc. Bởi vậy những số liệu về dân cư và những thông tin khác về nhân khẩu học cũng như cả bản đồ nước Nga Xô Viết đều bị làm giả. Tất cả những mánh khoé này dù không gây cho chúng tôi những tổn thất nghiêm trọng nhưng thực sự đã làm phức tạp thêm cho hoạt động của chúng tôi.
Để ví dụ thêm về hoạt động của “Viện Vanse”, tôi muốn dẫn ra một trường hợp xảy ra vào năm 1943. Chúng tôi đã nếm trải thảm bại ở Stalingrad, buộc Hitler tuyên bố phát động “chiến tranh tổng lực”. Quân Đức vẫn còn trụ được ở Nga nhưng đã bị thiệt hại nặng nề. Ít lâu sau chúng tôi mất Bắc Phi, như vậy là đồng thời mất luôn khả năng uy hiếp tuyến vận tải quan trọng đối với người Anh qua kênh đào Sue. Điều này làm gia tăng khả năng quân đồng minh đổ bộ vào châu Âu. Những yếu tố này cộng lại đã dẫn đến một bước ngoặt trong chính sách và chiến lược quân sự của chúng tôi tại Nga; đấy là chưa nói đến chính sách của chúng tôi ở những nước bị chinh phục. Tôi tổng hợp những ý kiến của mình lại rồi trình lên Himmler. Tôi cố gắng hết sức giới hạn những suy luận của mình về Liên Xô vì muốn có một báo cáo chân thực, đầy đủ về nền công nghiệp và tiềm năng quân sự của Nga với những chi tiết tỉ mỉ nhất. Tôi sử dụng tất cả những nguồn tin tình báo có được và những số liệu qua thẩm vấn hàng nghìn tù binh Nga. Mục đích của tôi là thuyết phục các nhà lãnh đạo phải nghĩ đến sự cần thiết, hoặc chính xác hơn, phải huy động và sử dụng toàn bộ nguồn dự trữ ở mọi miền bị Đức chiếm đóng của nước Nga. Cuối báo cáo tôi đưa ra một số đề xuất hết sức táo bạo và sắc sảo về mặt chính trị. Tôi muốn lay chuyển giới lãnh đạo. Theo quan điểm của tôi, cần triệu thoái các vị toàn quyền và các đội “trừng phạt” - những phân đội đặc nhiệm có nhiệm vụ “dọn sạch” các miền hậu phương của Đức. Cần lập tức thành lập những quốc gia tự trị và đồng thời rà soát triệt để khâu tổ chức bộ máy hành chính Đức phụ trách vấn đề công nghiệp và nông nghiệp. Vậy là đã có một báo cáo tổng kết dày năm mươi trang kèm theo đầy đủ những phụ lục cần thiết. Tóm lại đó là một tác phẩm tốt. Tuy nhiên, sau khi đọc nó và trao đổi với Himmler, Hitler ra lệnh bắt giam các chuyên gia đã giúp tôi viết bản báo cáo vì tội danh mang tư tưởng thất bại. Đó là một thắng lợi rực rỡ của Kaltenbrunner. Sau này trong một lần gặp Himmler, Kaltenbrunner có nhắc tới “khả năng trí tuệ” và những hành vi ứng xử khác thường của tôi. Ông ta trách cứ Himmler về việc đã cưng chiều sủng ái tôi và yêu cầu bắt tôi phải tuân thủ những quy tắc và kỷ luật như đối với các lãnh đạo khác thuộc các cục trong Tổng cục An ninh Đế chế.
Lần trò chuyện của tôi với Himmler sau đó quả là gay gắt. Ông ta hết lời phê phán tất cả các chuyên gia của tôi, gọi các nhà khoa học của “Viện Vanse”, kể cả giáo sư A - sếp của họ - là gián điệp của NKVD. Ông ta trút giận lên đầu tôi, nói rằng tôi đã không làm tốt chức trách của mình, rằng tôi bị ảnh hưởng của những kẻ theo chủ nghĩa thất bại trong số nhân viên dưới quyền. Nghe sếp mình nói mà tôi không nén nổi nụ cười, chuyện này chẳng hăm doạ nổi tôi. Himmler sững sờ nhìn tôi bằng ánh mắt của một con thỏ thí nghiệm đang hoảng sợ: từ trước tới giờ chưa bao giờ ông ta đụng phải một kẻ dưới quyền như thế. Nhưng tôi không thể phản ứng khác được. Xét về mặt tâm lý, tôi đã hành động đúng, và cái trò tếu này của tôi đã làm dịu hẳn tình hình đang căng thẳng. “Enfant terrible”[13], ông ta vừa nói vừa lắc đầu, và tôi hiểu rằng mình đã thắng. Thế rồi, lấy lại bình tĩnh, tôi từ tốn bênh vực cho lập trường của mình. Hai tiếng đồng hồ sau ông ta không đả động tới chuyện bắt giam ai nữa. Trước mắt tôi, Himmler ngồi trầm ngâm, cắn móng ngón tay cái.
— Ôi, nếu anh đúng thì thật là kinh khủng. - Ông ta nói. - Nhưng không thể bỏ qua cho những trò thông thái nhảm nhí đã khiến chúng ta phô bày những điểm yếu kém của mình. Chúng ta đã đặt cược quá nhiều, được ăn cả ngã về không. Lần này, nếu chúng ta không đè bẹp được Phương Đông, chúng ta sẽ mất hút khỏi lịch sử. Tôi cho rằng chúng ta có thể hiện thực hóa những ý tưởng của anh chỉ sau khi thắng nước Nga.
— Vấn đề chính là ở chỗ, - tôi đáp lại, - khi nào thì bắt đầu chính sách mới. Tôi cần nhắc lại: nếu chúng ta không bắt đầu ngay lúc này, thì chắc chắn chúng ta sẽ không còn cơ hội nữa.
Tóm lại là tôi đã thuyết phục được Himmler. Và tôi đã bảo vệ được đường lối chính trị cho cục của tôi cùng những cộng sự của tôi. Ngày nay có thể tất cả điều này chẳng còn mấy ý nghĩa, đặc biệt là đối với những ai chưa khi nào tham gia vào cuộc chiến tranh cân não và không đủ sức hiểu nổi những lo toan cùng những thất vọng tất yếu. Để dám tiếp tục đường lối của mình, phải đủ dũng cảm: Hitler với bản tính cực kỳ nhạy cảm đang mắc chứng bệnh hoài nghi, mối hoài nghi của ông ta cứ tăng theo đà ngày một xấu đi của tình hình chung.
[14] Độ F: thang nhiệt Fahrenheit, độ sôi của nước là 212°F trong áp suất khí quyển.