Chương 10 “DÀN HỢP XƯỚNG ĐỎ”-◄○►
Dekapozov, đại sứ Nga tại Berlin trước khi chiến tranh nổ ra là người chỉ đạo hoạt động của tình báo Nga ở Đức. Sự việc xảy ra với anh em nhà Vittinghoff cũng như những dẫn chứng khác về hoạt động gián điệp của người Nga tại Đức và các vùng lãnh thổ chiếm được đã khiến Hitler đặc biệt quan tâm. Vì thế ông ta liên tục đòi phải có thông tin về hoạt động phản gián của chúng tôi. Theo Hitler, tình báo Nga hoạt động ráo riết và có lẽ hiệu quả hơn nhiều so với tình báo Anh hay bất kỳ cơ quan tình báo nào khác. Lần này thì trực giác không đánh lừa ông ta. Cuối năm 1941, Hitler ra lệnh nhanh chóng tổ chức đối phó với cường độ hoạt động ngày càng gia tăng của gián điệp Nga tại Đức và ở các nước bị chiếm đóng. Himmler được lệnh giám sát việc phối hợp chặt chẽ hoạt động giữa Cục Tình báo Đối ngoại của tôi với Cục An ninh Ghestapo của Muller và Cơ quan Tình báo Quân sự do Canaris đứng đầu. Chiến dịch mang mật danh “Rote Capelle - Dàn hợp xướng đỏ” do Heydrich điều phối. Với nỗ lực chung, chúng tôi không chỉ phát hiện ra mạng lưới gián điệp lớn nhất của Nga tại Đức và các nước bị chiếm đóng mà đã triệt phá được phần lớn mạng lưới này. Sau khi Heydrich bị giết vào tháng 5 năm 1942, Himmler nhận trách nhiệm điều phối và kiểm tra việc thực hiện chiến dịch “Rote Capelle”. Chỉ ít lâu sau, giữa Himmler và Muller đã xảy ra những va chạm đáng kể, căng thẳng tới mức mỗi khi chúng tôi cùng lên báo cáo, Himmler lại mời ông ta ra khỏi văn phòng để trực tiếp trao đổi với tôi mặc dù về tuổi tác Muller hơn tôi nhiều. Muller là người khá khôn ngoan, thận trọng và biết nhẫn nhịn. Khi buộc phải nêu ra một vấn đề nào đấy, Muller lại đùn cho tôi. Một lần ông ta cười mỉa mai và nói:
— Dung mạo anh được ông ấy ưa nhìn hơn nhiều so với cái mặt dân xứ Bavaria của tôi.
Tháng 6 năm 1942, Himmler lệnh cho cả hai chúng tôi tới Tổng hành dinh tại Đông Phổ báo cáo chi tiết về chiến dịch “Rote Capelle”. Để chuẩn bị báo cáo chúng tôi chỉ có vẻn vẹn vài giờ. Vừa giáp mặt, Muller đã cất giọng tán dương các báo cáo của tôi có ý nghĩa vô giá như thế nào đối với ông ta và rằng quan điểm của tôi về hoạt động gián điệp của người Nga trong chừng mực nào đó là có cơ sở. Rồi sau một tràng những lời khen ngợi nặng mùi tâng bốc hơn, ông ta đề nghị tôi thay mặt cho cả hai báo cáo trước Himmler. Tôi trả lời rằng trong thành tích đó phần tôi đóng góp không quá 30% và vì thế ông ta hoàn toàn có thể tự mình báo cáo.
— Không, - Muller phản đối, - Anh chắc chắn được đón tiếp như một ông hoàng, còn tôi người ta sẽ tống cổ ra ngoài ngay.
Lúc đó tôi không rõ vì sao Muller lại đề nghị tôi như vậy. Có thể ngay lúc ấy, ông ta đã cố tìm mọi cách né tránh công việc đối phó với tình báo Nga. Tuy nhiên, tôi sẽ quay lại với chi tiết này sau.
Đến tổng hành dinh, tôi ngạc nhiên nghe được tin là ngoài tôi ra, Himmler còn triệu cả Canaris lên báo cáo. Tối hôm đó Himmler dự định thảo luận công việc với Hitler và muốn chúng tôi ở bên để trả lời những câu hỏi có thể phát sinh. Ngày hôm đó Himmler đang trong tâm trạng bực bội. Đọc xong phần đầu bản báo cáo đệ trình lên Hitler, ngay lập tức ông ta chỉ trích gay gắt nội dung của báo cáo. Rõ ràng vốn định kiến từ trước, Himmler tuyên bố: công sức của tình báo đối ngoại, tình báo quân sự (cơ quan của Canaris) cũng như của trinh sát vô tuyến quân sự không được phản ánh đúng mức.
— Ai chịu trách nhiệm soạn thảo báo cáo, anh hay Muller? - ông ta hỏi kèm theo tiếng cười gằn nghe lạnh gáy.
Tôi trả lời người nhận trách nhiệm là Muller. Nghe xong, Himmler nói với tôi:
— Ông ta đặc biệt có thói hay hạ thấp thành tích của người khác còn mình thì ra sức đề cao bản thân. Thật là nhỏ nhen. Anh có thể về nói lại với Muller như vậy.
Himmler không an tâm với những gì đã xảy ra, ông ta mời Canaris đến và bắt đầu gạn hỏi mọi chi tiết liên quan đến việc cộng tác từ phía tình báo quân sự. Hóa ra Muller đã bóp méo tình hình thực tế theo hướng có lợi hơn cho mình. Himmler tỏ thái độ không hài lòng ngay cả với tôi mà quên rằng tôi không phải là người chịu trách nhiệm về bản báo cáo. Rốt cuộc thì ông ta cũng hiểu ra sự vô lý của mình.
— Tôi cho anh quyền dược nhắc lại nguyên văn lời khiển tránh của tôi đối với Muller. - Himmler nói.
Bản báo cáo và việc phát hiện ra có sự phản bội đã làm Quốc trưởng phiền muộn tới mức ông ta không muốn nói chuyện với bất kỳ ai, thành thử cũng không gọi cả tôi và Canaris lên báo cáo vào tối hôm đó.
Mạng lưới gián điệp Nga “Rote Capelle” phủ khắp vùng lãnh thổ do Đức kiểm soát và cả ở những nước trung lập. Với vô số các đài phát, mạng lưới này trải rộng từ Na Uy đến dãy Pyrenees, từ Alantique đến Order, từ Biển Bắc đến Địa Trung Hải. Bao giờ cũng thế, một sự tình cờ đã đóng vai trò quan trọng trong công việc phát hiện ra mạng lưới này.
Vào những ngày đầu chiến dịch ở phía đông, trinh sát vô tuyến bước vào hoạt động rất tích cực. Vài ngày sau khi chiến tranh nổ ra, một trong các trạm làm nhiệm vụ dò sóng của chúng tôi bắt được tín hiệu của một đài phát, tuy nhiên không sao xác định được vị trí của nó. Máy tầm phương chỉ ra nguồn phát sóng nằm trên đất Bỉ, nhưng xác định chính xác hơn thì không thể. Để giải câu đố này, nhiều cuộc họp đã diễn ra với sự tham gia của tướng Tile - người đứng đầu bộ phận trinh sát vô tuyến, Muller, Canaris và tôi. Sau đấy ít lâu, trinh sát vô tuyến bắt được sóng của một đài phát hoạt động trong khu vực Berlin. Tuy nhiên chỉ vài ngày sau đài này ngừng liên lạc và không bao giờ xuất hiện trở lại trong không trung, mặc dù Cơ quan Phản gián đã cố tìm mọi cách xác định vị trí của nó. Tính toán của chúng tôi cho thấy nơi nhận những lần phát sóng liên lạc phải là vùng ngoại vi Moskva với một trạm trung tâm công suất lớn. Sự việc giờ đã rõ: điện đài đang nằm trong tay một điệp viên của tình báo Nga sử dụng mật mã mà chúng tôi chưa nắm được.
Các đơn vị đặc nhiệm gồm các nhân viên ưu tú của Muller lùng sục ráo riết ở Bỉ, Pháp và khu vực Berlin. Chi nhánh phản gián của chúng tôi tại Bỉ đã thu được những kết quả nhất định và vào cuối năm 1941, sau nhiều lần tham khảo ý kiến của tôi và Canaris, Muller quyết định tiến hành những vụ bắt giữ ở vùng ngoại ô Bruxelles. Ba điệp viên của tình báo Nga bị tóm: Mikhail Uakanov - trưởng nhóm, làm nhiệm vụ thu thập thông tin, Anton Danhilov - chuyên viên điện đài, Xophia Poznamxkaja - nữ nhân viên mật mã. Nhóm điệp viên trên trú ngụ trong một biệt thự nhỏ, nơi cất giấu điện đài.
Những lần hỏi cung họ quả là một công việc phức tạp; cả ba đã vài lần toan tự sát và một mực từ chối cung cấp bất kỳ thông tin nào. Chủ nhân ngôi biệt thự, một phụ nữ Bỉ, chỉ biết những điều hết sức mù mờ. Mặc dù chủ nhà sẵn sàng cung cấp những gì bà ta biết, nhưng những lời khai của bà ta không có ý nghĩa quan trọng đối với công tác điều tra. Sau nhiều lần thẩm vấn kéo dài, cuối cùng chúng tôi cũng phát hiện ra một chi tiết là cả ba người thường hay đọc những cuốn sách để trên bàn của họ. Bà chủ nhà kể ra một vài tên sách. Căn cứ vào thực tế công tác của chúng tôi là thường sử dụng các loại khóa mã được lập trên cơ sở những câu lấy ra từ bất kỳ văn bản nào, chúng tôi bắt đầu tìm kiếm những ấn phẩm với các lần xuất bản khác nhau của các cuốn sách mà chúng tôi tìm thấy: tất cả có 11 cuốn. Chúng tôi phải lùng khắp các cửa hàng sách ở Pháp và Bỉ mới kiếm được những cuốn sách này.
Cùng lúc đó, Phòng Thuật toán của Cục Trinh sát Vô tuyến và bộ phận giải mã trực thuộc Bộ Chỉ huy tối cao Quân đội Đức ngày đêm nghiên cứu mảnh giấy cháy dở của một bức điện đã dịch mã (tìm thấy trong bụi hoa kim ngân tại biệt thự). Phòng Giải mã đi đến kết luận: khi mã hoá, người ta sử dụng những cuốn sách tiếng Pháp, áp dụng cách phân tích toán học, bộ phận này đã khôi phục được một phần câu khóa mã trong đó có từ “Proktor”. Giờ đây, sau khi có đủ 11 cuốn sách, công việc còn lại là đọc lướt qua chúng để tìm ra cái tên “Proktor”. Cuối cùng thì người ta cũng tìm được cuốn sách cần tìm, tìm ra cả câu khóa mã và Phòng Giải mã của Bộ Chỉ huy bắt tay vào việc. Dần dà họ đã dịch mã thành công không chỉ những bức điện thu được ở Bruxelles mà còn cả những bức điện do bộ phận kiểm soát của ta bắt được sóng trước đó ít lâu. Nội dung các bức điện làm mọi người sửng sốt: hoạt động của cả một mạng lưới tình báo khổng lồ do người Nga tổ chức trải rộng khắp các nước Pháp, Hà Lan, Đan Mạch, Thụy Điển và Đức đã lộ ra.
Một trong những nhân vật chính là điệp viên mang bí danh “Gilber”, người chuyển nhiều báo cáo trong đó bao giờ cũng có tin mật quan trọng. Hoạt động mạnh ở Đức là hai điệp viên chính với bí danh “Koro” và “Arvid”. Rõ ràng là những thông tin mà họ lấy được chỉ có thể rò rỉ từ giới quan chức cao cấp của chính quyền. Điệp viên chính ở Bỉ hoạt động dưới cái tên “Kent” vẫn chưa bị lộ mặt. Hắn đã khôn khéo thoát khỏi những lần lùng bắt ở Bruxelles vào cuối năm 1941. Thời gian trôi đi, cả cơ quan căng ra làm việc, nhưng chúng tôi vẫn chưa lần ra dấu vết của hai điệp viên tại Đức. Nhưng rồi cơ hội bất ngờ đã đến. Phòng Giải mã thu được một bức điện vô tuyến vốn dĩ không có giá trị gì lắm. Nhưng từ bức điện ấy chúng tôi biết được Moskva lệnh cho “Kent” mùa thu năm 1941 đến Berlin và kiểm tra ba địa chỉ được ghi ngay trong bức điện. Đây thực sự là bước đột phá đầu tiên: giờ chúng tôi không chỉ biết tên thật mà cả bí danh và địa chỉ.
Tướng Tile bên trinh sát vô tuyến, đại tá Von Bentiveni thuộc bộ phận phản gián quân sự, Canaris và tôi quyết định nhanh chóng tổ chức phối hợp theo dõi hơn 60 người ở Berlin. Sau gần một tháng theo dõi, chúng tôi bắt phần lớn trong số họ, chỉ để lại một vài người được tự do sao cho mạng lưới gián điệp vẫn có thể tiếp tục hoạt động.
Chúng tôi điều tra ra viên đại tá, kỹ sư mang họ Beker, người đóng vai trò quan trọng trong công việc nghiên cứu, thiết kế các loại máy bay tiêm kích và ném bom của Đức, là một đảng viên cộng sản. Nhân vật này gửi tin mật đến một điện đài phát chủ chốt nằm ở khu vực Bắc Berlin, từ đây tin tức được tiếp tục chuyển về Moskva. Công tác điều tra sau đó đặt ít nhất năm người giữ những cương vị cao trong Bộ Tổng Tham mưu và ở Luftwaff vào diện tình nghi.
Trung tá Schulse Baysen ở Bộ Tổng Tham mưu cũng bị bắt. Ông ta là linh hồn của cả mạng lưới gián điệp ở Berlin. Baysen không chỉ cung cấp tin mật cho người Nga, mà còn tích cực hoạt động tuyên truyền. Có lần vào lúc 5 giờ sáng, mặc quân phục Đức, ngay trên đường phố, ông ta dùng súng ngắn đe doạ một điệp viên của mình vì lý do lơ là công tác tuyên truyền cộng sản tại một nhà máy.
Thành viên khác của mạng lưới là cố vấn cao cấp quốc gia A. Havnack, một quan chức cấp cao có vợ là người Mỹ gốc Do Thái. Ông ta chịu trách nhiệm lập kế hoạch phân phối nguyên liệu trong Bộ Kinh tế. Nhờ những tin tức ông ta cung cấp, người Nga hiểu rõ tình hình nguyên liệu của chúng tôi hơn cả một cục trưởng của Bộ Vũ trang, người không được phép tiếp cận với những thông tin này do thói quan liêu ngu ngốc cũng như do tranh chấp giữa các bộ khác nhau.
Trong số nhiều người bị bắt có viên tham tán đại sứ Von Schelia, bí thư thứ nhất Bộ Ngoại giao, được người Nga giao thực hiện những nhiệm vụ tình báo tại bộ này. Ông ta hoạt động thông qua các phương pháp “gián điệp thượng lưu”. Von Schelia không chỉ biết mọi chuyện xảy ra ở trong bộ, mà còn lập ra trong ngôi nhà của mình một phòng khách thu hút tất cả giới quan chức ngoại giao đến chơi. Khi trò chuyện với khách, ông ta moi tin mật một cách khéo léo, bình tĩnh và bài bản. Quả thực tình báo Nga đã cài được điệp viên vào những vị trí cao ở tất cả các bộ của đế chế Đức và có thể nhận được thông tin mật một cách nhanh nhất thông qua những đài phát bí mật. Đương nhiên những người này là những hạt nhân chống đối Hitler và chính sách của ông ta, nói chung là chống chủ nghĩa quốc xã. Nhưng nguyên nhân ban đầu dẫn họ đến sự phản bội không phải là sự chống đối Hitler và chế độ của ông ta. Ngay cả tiền bạc cũng không lôi cuốn được họ, ngoại trừ một số điệp viên ít giá trị. Động cơ chính của họ chỉ có thể giải thích bằng những thuật ngữ về lý tưởng. Họ khao khát thoát ra khỏi cái thế giới Phương Tây quá nhiều hệ tư tưởng để đến với chủ nghĩa hư vô Phương Đông.
Những vụ bắt giữ vẫn tiếp tục diễn ra và đã phát hiện ra nhiều nhóm người khả nghi khác. Các đơn vị đặc nhiệm hoạt động căng thẳng nhiều giờ liền. Rốt cuộc đã có hàng trăm người bị cuốn vào và nhấn chìm trong vòng xoáy của những chiến dịch phản gián của chúng tôi. Có thể một số người trong họ chỉ có thiện cảm với những kẻ làm gián điệp, nhưng trong thời gian chiến tranh người ta áp dụng một nguyên tắc khắc nghiệt “thà bắt nhầm còn hơn bỏ sót”. Chính vào thời gian này, ở vùng phụ cận thành phố cảng Marseille xuất hiện một đài phát mới. Trinh sát vô tuyến nghi ngờ nó thay thế cho đài phát ở Bruxelles.
Kết luận trên được đưa ra xuất phát từ đặc điểm của lịch lên sóng liên lạc và mật mã sử dụng. Cũng vào thời gian đó xuất hiện nhiều điểm phát sóng mới ở Bỉ, Hà Lan và nhiều nơi khác. Những lần phát sóng liên lạc của các đài này dường như là bằng chứng cho thấy chúng đều thuộc một mạng lưới gián điệp. Xác định vị trí của các đài phát càng ngày càng trở nên khó khăn hơn vì người Nga đã rút kinh nghiệm từ những gì xảy ra và khá thận trọng để không lập lại sai lầm nữa. Trong quá trình điều tra với quy mô lớn ở Paris, Cơ quan Phản gián ngẫu nhiên phát hiện ra một nhóm người. Khi thẩm vấn, họ đã cho biết thông tin về điệp viên “Kent”. Nhờ thế mà chúng tôi biết được người núp dưới cái tên này là ai: đó là điệp viên thường xuyên di chuyển với tên giả và hộ chiếu Nam Mỹ. Ở Bruxelles, cái tên “Gilber” cũng đã được xác minh. Điệp viên này là một đảng viên cộng sản Đức được huấn luyện nhiều năm ở Moskva. Dựa vào thông tin nghèo nàn như vậy, chúng tôi bắt đầu truy tìm “Kent” và “Gilber” khắp Châu Âu. “Kent” thường xuất hiện dưới những tên khác nhau như Kaufmann, Vicent, Sepns, Treppev và còn nhiều tên nữa. Công việc săn tìm kéo dài hàng tháng. Chỉ nhờ vào sự theo dõi gắt gao cũng như những cố gắng không biết mệt mỏi từ phía các nhân viên của mình, chúng tôi mới lần ra được dấu vết của “Kent” ở Bruxelles. Mối tình với một cô gái người Hung xinh đẹp mang biệt danh “người đàn bà tóc vàng” (tên thật của cô ta là Margaret Marta) đã đưa hắn tới chỗ bị bại lộ. Họ có với nhau một cô con gái nhỏ dễ thương và “Kent” rất gắn bó với hai mẹ con. Chúng tôi biết rằng chỉ cần tìm được người phụ nữ này thì sớm muộn “Kent” cũng sẽ xuất hiện. Margaret không phản bội bạn trai của mình nhưng đã vô tình giúp chúng tôi phát hiện ra hắn. Khi chúng tôi bắt đầu thẩm vấn, sự quan tâm lo lắng của “Kent” đối với “người đàn bà tóc vàng” quả là một công cụ hỗ trợ vô giá đối với chúng tôi. Vì người phụ nữ ấy, hắn sẵn sàng làm mọi việc, và nếu cần có thể dâng cả mạng sống của mình cho cô ta. Nhờ thế mà lần đầu tiên chúng tôi có được khả năng tiếp xúc với trung tâm tại Moskva và sử dụng điện đài của “Kent” vào mục đích của mình. Trong quãng thời gian vài tháng, chúng tôi đã thành công trong việc chuyển những tin giả quan trọng cho tình báo Nga, khiến họ rối như mớ bòng bong. Sau khi sử dụng có kết quả đài phát của “Kent” chúng tôi cũng chơi trò như vậy với các điện đài khác. Kết quả cả 64 đài phát theo thứ tự đều chuyển tin tức giả về Moskva. Dĩ nhiên, tình báo Nga đã nhận ra những sơ xuất trong hoạt động của mình và cố gắng áp dụng các phương sách đối phó với Cơ quan Phản gián của chúng tôi.
Truy lùng “Gilber” và đài phát của hắn thực tế đã trở thành một công việc vô cùng khó khăn. Ngay khi chúng tôi có đủ số liệu để điều máy tầm phương chuẩn bị tiếp cận mục tiêu, hắn đã tắt sóng, và rồi lại xuất hiện cách nơi cũ 60 dặm. Còn khi chúng tôi quyết định tập kích thì kết quả là tay trắng, cứ như hắn cố tình chơi khăm chúng tôi; và ngay đêm đó những bức điện lại được phát đi từ một thành phố khác. Cuối cùng, những cuộc tìm kiếm ráo riết đã đưa chúng tôi tới thành công. Khi điều tra các nhóm cộng sản trong phong trào kháng chiến Bỉ, chúng tôi tìm ra được một nhân vật vốn là cánh tay phải của “Gilber”. Người này trước đây là liên lạc viên đã qua huấn luyện ở Moskva, đảng viên cộng sản Đức, nhiều năm đã sống ở Bỉ và giữ một chức vụ quan trọng trong chính quyền Đức. Ngoài ra nhân vật này còn sử dụng một đài phát sóng ngắn để duy trì liên lạc giữa “Hầu tước Đỏ” với lực lượng kháng chiến Bỉ. Sau này điện đài được sử dụng vào mục đích khác: người Nga cho phép anh ta trực tiếp liên lạc với Moskva. Thực ra chúng tôi đã tuyển mộ lại điệp viên này để làm việc cho mình. Lần này chúng tôi cung cấp cho anh ta không phải là tin giả mà tài liệu thật, đáng tin cậy bởi lẽ mục đích của chúng tôi nhằm tiếp xúc được với “Gilber”, người có trụ sở đặt tại Paris. Bằng cách đó anh ta đã được sự chú ý của “Gilber” và bắt đầu cộng tác chặt chẽ với hắn. Tuy vậy, “Gilber” vẫn tỏ ra hết sức thận trọng và đa nghi. Đầu tiên chúng tôi phát hiện ra thư ký của “Gilber”. Sau đấy biệt đội truy lùng quyết định bắt giữ cả hai bằng cách tập kích bất ngờ. Nhưng chúng tôi không gặp may: khi biệt đội ập đến, “Gilber” đã rời khỏi nhà đi chữa răng. Người của chúng tôi không sao xác định được địa chỉ của bác sĩ nha khoa. Cuộc lùng sục bắt đầu với cơ hội thành công thật nhỏ nhoi. Chúng tôi phải bắt được “Gilber” trước khi có người đánh động cho hắn. Vào phút chót, qua người đàn bà gác cổng nhà bên cạnh, chúng tôi biết được tên của kẻ thù. Và khi “Gilber” vừa thoát khỏi chiếc kìm nhổ răng thì gọng kìm của Cơ quan Tinh báo và Cơ quan Phản gián Đức, có chăng chỉ khác đôi chút, đã kẹp chặt lấy hắn. Kẻ thù nhanh chóng đầu hàng, còn chiếc điện đài công suất lớn của hắn được chúng tôi dùng sau đấy để tiếp tục đánh lạc hướng người Nga.
Điều chúng tôi lưu ý là người Nga bắt đầu áp dụng chế độ chuyển báo cáo trực tiếp về trung tâm của họ không chỉ với các đài phát chưa bị phát hiện mà cả với các điện đài đã bị chúng tôi khống chế. Thông tin nhận được ở Trung tâm Tình báo Nga phải qua khâu xử lý của một nhóm phân tích đặc biệt. Mối nghi ngờ của họ đối với những báo cáo nhận được tăng lên rõ rệt. Vì thế gần ba tháng chúng tôi liên tục gửi cho họ những thông tin chính xác và có giá trị, và mặc dù có phạm một vài sai sót lớn, dần dần chúng tôi cũng xua tan được những nỗi nghi ngờ của họ.
Lại không ngừng xuất hiện những điểm phát sóng mới. Chiến sự diễn ra ác liệt ở Bruxelles, Antunerpen, Copenhaghen, Stockholm, Berlin, Budapest, Vienne, Belgrad, Athenes, Stambul, Roma, Barcelone và Marseille. Những phân đội tầm phương lại tiếp tục vào trận. Khó khăn hơn cả là truy lùng các đài phát của đối phương ở các nước trung lập. Tại đây không được để lộ ra máy móc thiết bị cũng như biên chế kỹ thuật của các nhân viên tình báo. Với tư cách người đứng đầu một cơ quan tình báo tác chiến, những phát minh kỹ thuật thu được trong quá trình hoạt động như trên đương nhiên có một giá trị rất lớn đối với tôi. Tôi cần phải sử dụng kinh nghiệm tích lũy được để trang bị cho nhân viên của mình những điện đài khó bị phát hiện. Tôi rất mong có được những phương tiện liên lạc vô tuyến hiện đại hơn đối phương.
Hoạt động của chiến dịch “Capella” kéo dài đến tận những ngày cuối cùng của chiến tranh. Trận đấu không tiếng súng càng ngày càng trở nên khốc liệt hơn và diễn ra không chỉ ở Đức, ở các vùng lãnh thổ bị chiếm đóng mà còn trải rộng khắp thế giới.