← Quay lại trang sách

Chương 3

Mờ sáng. Những dãy nhà xây nhỏ xinh núp dưới bóng cây dẻ đã hiện ra. Cô thấy phố phủ dịu dàng, chả xô bồ bức bối như Hải Phòng. Các bà các cô áo tứ thân tươm tất đi chùa sớm không lộ vẻ vất vả. Một vài hàng quán vẫn thắp nến. Những kẹo bột, chè lam, bánh khảo và cả bỏng làm bằng hạt cỏ rình rình nắm y quả trứng gà. Cô nhớ lúc mới trốn ra Lương Xá, không biết ai cho con Dọc miếng bánh khảo, rất quý chị mà nó chỉ cho liếm, dứt khoát không cho cắn.

Không có ai chờ đợi và chẳng có việc gì phải vội về Hà Nội nhưng Lan cũng không tâm trí dạo phố phủ. Cô sợ Thiên mò lên sẽ chả biết trốn ở đâu. Cô ngồi dựa vào thành xà lúp. Trời đã rõ hơn nhưng xà lúp vẫn ì ra. Mọi người kiên nhẫn chờ thì chủ xuất hiện, ông ta gãi đầu:

- Xà lúp của nhà tàu bị hỏng máy, thợ hì hụi sửa từ giờ Sửu [1] mà máy vẫn chưa nổ, ai không vội xin chờ chuyến về sớm mai, ai vội thì đi thuyền vậy. Bà con thông cảm cho...

Tay xách vai khoác, khách nối nhau lên bờ. Lan nghe tiếng người kháo nhau “Qua sông đi đường bộ thì gần nhưng không có xe ngựa, lại thêm ba lần đò ngang nữa, xâm xẩm mới về đến Hà Nội”. Hai bà mặc áo gấm tía, cổ đeo chuỗi hạt ngọc vẻ sốt ruột đi tìm thuyền gỗ. Lan bám theo. Con thuyền to và dài chuyên chở hàng đã có gần chục bà buôn chuyến dạng chân ngồi ngáp. Những buồm gió [2] tròn căng bên trong là hạt dẻ Lạng Giang xếp rải trên mặt ván. Thấy khách xuống thuyền, một bà nhỏ bé có hàm răng vẩu chu cái mồm:

- Tội gì các bà các cô phải mua đường, dài gấp rưỡi đường bộ đấy. Chị em chúng tôi buôn chuyến, hàng nặng mới phải đi đò. Nhanh cũng phải đến giờ ăn cơm chiều [3] mới về đến bến Cột Đồng Hồ [4].

Nhìn bà ta nói, Lan cố ghìm khỏi bật ra tiếng cười vì hai cái răng chìa ra đen bóng còn những cái bên cạnh lại đen bạc như màu váy cũ, chắc hai cái chìa ra chả tham gia khi ăn uống nên mới đen như mới nhuộm. Bà mặc áo gấm tía giọng từ tốn:

- Khổ nỗi chị em tôi không quen đi bộ, thôi mấy khi được đi cùng các bà hưởng chuyện vui chuyến đò...

Vợ chồng nhà đò chắc mừng thầm vì thêm khách liền vội vàng tháo dây neo rời bến. Con thuyền cũ kỹ nhẹ nhàng trôi trên dòng sông Thương. Mùa khô nên nước trong như nước giếng. Bốn người chèo nhàn nhã, nước cứ đẩy con thuyền đi. Đến Phả Lại, nơi giao nhau của sáu con sông thì đò chuyển hướng rẽ vào sông Thiên Đức [5].

Thiên Đức là nhánh rẽ của sông Cái. Tháng nước cạn, sông Cái ít nước, lại thêm cửa rẽ có bãi bồi nên chỉ còn lạch nhỏ cho nước vào nuôi Thiên Đức nên dòng chảy “lờ đờ như thằng khờ ra phủ”. Vợ chồng chủ thuyền còn trẻ, mỗi người một bên khua mái, hai vạt trước áo tứ thân của cô vợ cứ chao qua chao lại như quả lắc đồng hồ Tây. Hai tay chèo phía sau cũng là vợ chồng. Họ chẳng nói gì, chắc phận chèo thuê. Tiếng oàm oạp đều đều, con thuyền từ từ tiến lên phía trước. Một chiếc xà lúp vượt lên, sóng dềnh mấp mé mạn làm hai bà áo áo gấm đang nói chuyện hoảng hốt. Câu chuyện đập vào tai cô, ra họ lên ăn hỏi đứa cháu con cô em gái lấy vợ. Mấy bà buôn chuyến tính toán lãi lờ vì hạt dẻ đầu mùa chưa có ai đưa về xuôi. Có bà ngủ gật. Bên cạnh Lan là cô gái còn trẻ, cô ngồi yên trên thanh ngang, sợi buồn còn vương trên nét mặt. Cô mặc váy lĩnh đen, áo năm thân giống như con gái Hải Phòng khá giả nhưng chân lại đi guốc đầu bịt da. Cô không khoác tay nải mà dùng chiếc túi da màu nâu, thứ chỉ người Tây mới có. Lan đoán cô liên quan đến người Tây.

- Chắc cô lên thăm người thân ở Phủ Lạng Thương?

Lan bắt chuyện. Cô gái gật đầu.

- Chồng em đóng quân cách phố phủ nửa ngày đường.

-... Chồng cô là người...

Cô ta nhìn Lan rồi gật đầu. Thế thì trong cái túi da kia thế nào cũng có vài bộ váy kiểu như của chị Ba. Thấy cô gái chẳng mặn chuyện, Lan không hỏi thêm. Chợt nhớ đến Thiên, Lan ân hận vì đã nói dối. Cuộc đời thật trớ trêu, số phận luôn lái con người theo hướng nó muốn, muốn bẻ ngược cũng không được. Các bà buôn chuyến giở cơm nắm ra ăn, mùi muối vừng thơm thơm.

- Mời hai bà và các cô xơi quà với chị em tôi nhé - Một bà trung tuổi lên tiếng.

- Dạ, mời các bà - Lan đáp.

- Các bà cứ xơi tự nhiên, hai chị em tôi cũng đói bụng rồi.

Nói xong một bà lấy gói xôi nếp và bọc thịt gà ra ăn.

- Nhà cháu có ấm nước mưa ở cuối thuyền, xơi xong mời các bà uống tráng miệng. - Vợ lái đò mời mọc.

- Chẳng nhẽ để chị em tôi uống nước sông chắc. - Một bà đang bẻ miếng cơm chua ngoa.

Đàn bà con gái thường không chịu kém nhau, Lan bóc phong bánh khảo, bẻ một mời cô gái:

- Em ăn một miếng cho vui.

Cô gái lắc đầu:

- Cám ơn chị, em chưa đói.

Lan đoán cô ta nhớ chồng. Con gái mà đã bện hơi giai, người như trên mây thiết gì mở mồm. Danh bất hư truyền, bánh khảo Phủ Lạng Thương làm bằng bột nếp rang kỹ, vị ngọt thanh lại thơm, thảo nào con Dọc chỉ cho liếm. Cánh nhà đò chẳng ăn gì cứ mải miết khua mái. Mà có đói cũng không dám dừng thuyền, chả khách nào chịu.

Mặt trời đã ngả quá sang tây. Thuyền đã ra đến sông Cái. Nước xiết đẩy thuyền trôi nhanh hơn. Có lúc gặp dòng xoáy ngầm, thuyền nghiêng bên này chao sang bên kia làm mọi người sợ hãi níu vào nhau. Mặt đám chèo đò không biến sắc, họ quá quen như vậy. Thuyền vượt qua cả các bè nứa kết lại thành từng dây đang trôi. Nước xăm xắp mặt mà các cô trên bè vẫn chổng mông thổi lửa nấu cơm. Thi thoảng, vài ông trung niên cởi trần đứng trên thuyền nhỏ quăng chài. Hai bờ sông vắng lặng. Gió nam mát rượi. Lan thấy khoan khoái, khác với lần đi thuyền mành ra Hải Phòng. Ánh nắng loang loáng trên mặt nước đỏ ngầu. Nghe cô gái hỏi sao nước sông lúc nào cũng đỏ, anh lái đò xăng xái kể, lái buôn Đồ Phổ Nghĩa [6] khi ngược dòng mang hàng hóa sang Vân Nam năm 1873 thấy nước lúc nào cũng đỏ ngầu nên gọi là sông Hồng và từ đó người Pháp dùng tên này. Còn An Nam ta gọi là sông Cái vì nó dài và rộng nhất Bắc Kỳ. Chắc học lỏm của ai, Lan nghĩ thầm.

Gần Hà Nội, lo lắng lặn xuống, háo hức trong Lan trồi lên. Một thành phố xa lạ mà cô chỉ nghe kể sắp hiện ra trước mắt. Đoạn sông này rộng khác thường, nước chảy không xiết. Một chiếc tàu khá to màu xám xịt của quân Pháp chạy ngược dòng. Hai nòng súng to hướng rê qua rê lại, mạn tàu lố nhố binh lính, họ khua tay chỉ chỏ. Bỗng cô gái bật dậy nhìn ngó như tìm người quen, dòng nước thình lình ùa vào mạn bên phải khiến cô bị mất thăng bằng ngã xuống nước kéo con thuyền về một bên làm nước ào vào khoang rất nhanh. Chỉ vài cái nháy mắt, thuyền bị nước nhấn chìm. Các bà buôn mới kêu được tiếng cứu thì thuyền chìm nghỉm. Vài người bị dòng nước cuốn ra ngoài khoang. Lan cũng bị chiếc thuyền úp lên, cô cố lặn ra và ngoi lên được. Lấy sức, cô cố bơi vào bờ. Nước xiết muốn cuốn cô đi. Từng bơi ngược dòng sông Đáy nhiều lần nên cô lạng xa chỗ xoáy, căng người nhoài lên phía trước. Đám lính thấy thuyền lật vội vàng nhảy xuống. Họ khua hai tay nhanh và khỏe, chỉ một loáng đã dìu được một bà buôn vào bờ. Con tàu tăng tốc tiến lại cứu cô. Một anh lính nhảy xuống chặn đầu đón được, anh ta giữ chặt tay cô dìu về mạn tàu. Viên sĩ quan râu xồm kéo cô lên, áo lụa dính sát vào da thịt, dù không còn tâm trí nhưng cô cảm giác con mắt cú vọ của ông ta nhìn qua lớp áo. Thấy người cô run vì lạnh, ông ta vội vào phòng lấy áo nhà binh khoác lên vai cô. Cái áo bằng vải nặng cả yến có hàng khuy đồng bóng loáng làm cô bớt lạnh. Cô thấy có dòng chữ đen trên ngực và mấy dấu sao. Mùi cũng khác mùi áo của Hà hay Hồng, nó gây gây như thịt bò.

Ba anh lính cùng lặn xuống chỗ con thuyền bị úp, khá lâu mới ngoi lên ôm theo ba cái xác bụng tròn căng. Họ bơi xuôi về chỗ con tàu đang gầm lên lấy đà quay đầu. Viên sĩ quan đỡ từng cái xác đặt xuống sàn, ngay sát chỗ Lan ngồi, làm dấu thánh xong chạy vội vào phòng lấy miếng vải phủ lên. Ba anh lính lại bơi ngược dòng, lặn xuống mò tiếp, lần này họ không được gì. Viên sĩ quan ra lệnh cho lái tàu chạy xuôi thật nhanh để kiếm tiếp. Chiếc tàu phì khói tăng tốc. Ba cái xác lăn qua lăn lại. Lan nấc nghẹn, lấy tay áo lính chùi nước mắt. Có tiếng tít tít, hình như ông râu xồm điện đài.

Không tìm thêm được gì, có thể xác chết mắc vào chỗ nào đó, hoặc đã trôi xa, con tàu rẽ vào bến quân sự Đồn Thủy [7]. Rất đông lính đứng trên bờ. Vẻ mặt họ buồn bã. Mấy anh lính khiêng ba cái xác lên đặt vào quan tài rồi chào vĩnh biệt theo kiểu nhà binh. Viên sĩ quan đỡ tay Lan đi qua cầu làm bằng tấm sắt. Cô định cởi áo, ông ta ra hiệu cứ mặc. Một chiếc xe ngựa chờ sẵn, xà ích là anh lính khố đỏ.

- Bây giờ tôi đưa cô về thành để quân y kiểm tra sức khỏe. Đêm nay cô sẽ ngủ tạm trong doanh trại.

May cho cô, nếu khám xong họ cho về thì không biết đi đâu, ngủ ở đâu. Anh xe quất nhẹ vào mông con ngựa, nó bước chậm chạp. Trời đã tối, anh ta lấy diêm châm đèn báo hiệu treo lên đầu xe. Chiếc xe qua các con phố nhỏ rồi rẽ ra con đường lớn, không còn tiếng bánh xe nghiến đá vì mặt đường phẳng phiu. Hai bên có các cột treo đèn, một hàng cây mới trồng chưa có tán. Những ngôi nhà hai tầng đèn sáng trưng, bên trong đông người, hình như toàn Tây, có vẻ họ đang ăn uống. Vài cái nhà đang xây dở dang. Không có người An Nam đi chơi đêm như ở Hải Phòng, cô nhìn thấy cảnh sát lăm lăm súng đi lại trên hè phố. Xe qua cái hồ, cô nhìn thấy những đốm đỏ xung quanh, cô đoán là đèn. Giữa hồ nhô lên một ngọn tháp, cô không rõ là chùa hay đền. Xe chạy thẳng, hai bên phố vắng lặng. Hà Nội sao yên ả thế? Anh lính phá vỡ im lặng:

- Nghe các quan Tây nói với nhau, bốn người chèo đò thoát chết.

- Anh có biết bao nhiêu người bỏ mạng không?

Giọng Lan nghèn nghẹn.

Anh ta lắc đầu trả lời:

- Tôi không rõ.

Lan lấy vạt áo lau nước mắt. Xe dừng lại trước cái cổng to tướng có lính Tây, lính An Nam đứng gác, anh ta dẫn cô vào căn phòng. Viên quân y đang soi mắt một bà cụ. Tất cả chỉ có ba người, nhưng không thấy cô gái và hai bà đi ăn hỏi đâu. Thế là bảy mạng người đã chết.

Anh chàng đầu bếp người Pháp to như hộ pháp bảo phiên dịch nói với mọi người bữa tối có cháo gà và đồ ăn Tây, ai muốn xơi gì tùy thích. Miệng đắng ngắt, Lan chỉ xin bát cháo con. Viên quân y chờ cô ăn xong mới khám bệnh. Lần đầu tiên cô được khám bệnh kiểu Tây. Ông bắt cô há miệng kêu a a, rồi bảo cô giơ tay và chân. Thấy không có xây xát, ông lắc đầu nói cô không bị sao. Anh lính khố đỏ dẫn cô vào căn phòng. Ánh sáng từ chiếc đèn dầu Hoa Kỳ tỏa khắp gian phòng, chiếc giường sắt trải đệm trắng muốt kê bên trái.

- Đây là phòng ngủ dành cho cô.

Nói xong anh ta khép cửa và đi ra. Tay nải bị nước cuốn đi, quần áo, cả danh thiếp của chị Ba cũng mất. May túi tiền để trong thắt lưng nên vẫn còn. Tiền giấy bết lại nhưng không nát. Lan khẽ bóc từng tờ dán lên tường. Cô vào phòng nhỏ, cô đoán đó là phòng tắm vì thử vặn vòi thép sáng loáng thấy nước chảy. Cởi hết quần áo, cô để nước phun từ những chiếc lỗ li ti lên tấm thân tròn lẳn. Lần đầu tiên cô trần truồng trong nhà. Sợ có người bên ngoài nhìn trộm qua khe cửa, cô cúi người che tay vào chỗ kín mỗi khi đi lại. Đêm đó cô không sao ngủ nổi, ba cái xác chập chờn hiện về. Sáng hôm sau, viên sĩ quan râu xồm xuất hiện, ông ta lấy lại cái áo và bảo ai về phố nào xe đưa đến tận nơi. Hai bà muốn ra bến tàu. Lan bảo muốn tìm nhà trọ nhưng không biết chỗ nào. Ông ta nói “xà ích sẽ giúp cô”. Dù không hỏi han nhiều nhưng bằng linh cảm đàn bà, Lan biết chắc viên sĩ quan để ý đến cô. Trong đầu cô loáng qua “chẳng nhẽ số cô lấy Tây?”. Mặt cô bừng lên vì xấu hổ. Ra đến cổng thành, cô thấy khoảng hai chục chiếc xe ngựa chở đầy bí ngô chờ lính gác kiểm tra. Trước đây cô tưởng thức ăn cho lính cái gì cũng chuyển từ Pháp sang, giờ mới biết họ mua bí trồng ở Bắc Kỳ.

Chiếc xe ngựa dừng lại trước dãy nhà lá nhìn ra sông Cái. Anh lính khố đỏ quay đầu lại bảo:

- Một gian vừa đủ ở, không xập xệ, tiền thuê cũng rẻ. Đi khắp các phố cũng chả tìm được chỗ nào hơn nơi này.

Có vẻ anh này rất hiểu các cô gái mới ở quê ra tìm chỗ trọ. Mặt trước dãy nhà là con đường mới mở rải đá dăm. Từ đây ra bến tàu Cột Đồng Hồ không xa. Bến Nứa [8] cũng rất gần. Đằng sau lại dãy cho thuê, mặt trông vào phố, giữa hai dãy nhà là rãnh nước.

- Nếu cô thấy được thì vào gặp thầy ký làm giao kèo.

- Ơn anh đã giúp tôi!

Anh lính khố đỏ lùi xe, buộc dây vào cột đèn dầu gần đó. Lan kín đáo nhìn theo. Một cô gái khá trẻ ngượng ngùng mặc áo năm thân ra đón. Chắc là vợ lẽ của anh ta. Thảo nào anh biết rõ khu vực này đến thế. Chẳng cần xem, cô ký luôn vào giao kèo và nộp tiền trước ba tháng. Thầy ký trẻ mở khóa sắt, giao chìa cho cô. Lâu không có người thuê, mùi mốc xộc lên, góc tường có vài cây mạ thiếu sáng nhợt nhạt. Chiếc chõng tre làm bằng tre gai khá chắc phủ đầy bụi. Phía sau có chỗ đun nấu, ba ông đầu rau lâu không có lửa bạc phếch. Một cái chum nước, một cái chậu sành đặt ngay sát bếp. “Ngày mai vừa nhai vừa tính”, cô lấy chổi lúa phủi bụi rồi ngả lưng và thiếp đi. Tỉnh dậy, nỗi khiếp sợ lại hiện về, không chịu nổi, cô đóng cửa đi loanh quanh.

Bến tàu Cột Đồng Hồ đông đúc, í ới tiếng hỏi nhau tàu nào xuôi Thái Bình, Nam Định, tàu nào ngược Phú Thọ, Tuyên Quang. Lũ trẻ bán nước chè xanh, tay xách ấm sứ, tay cầm bát len lỏi trong đám khách lớ ngớ. Tiếng điếu cày xìn xịt rồi ré lên âm thanh kiêu hãnh. Gánh bún riêu cua dậy mùi thơm ngậy bị bao bọc bởi các bà, các cô, họ lấy nón lá làm ghế và không quên kéo váy thâm phủ hai cẳng chân. Nhìn họ vừa húp vừa nhai, cô thấy thèm. Bến này sống động hơn Lương Xá và đỡ lam lũ hơn bến Bính. Cô chả nghe ai kể tai nạn hôm qua, thành thị là vậy, hôm nay sẽ có câu chuyện khác. Tiếng chuông bính bong một hồi, hóa ra nhà thờ cũng gần bến tàu. Thành phố nhượng địa chỉ tính từ đê vào phố còn phía ngoài lại không thuộc tỉnh Hà Nội cũng chẳng thuộc Bắc Ninh, nó là đất vô chủ. Để giữ an ninh, tòa đốc lý cử một người làm trưởng phố. Ông này vốn dân anh chị, tranh thủ chiếm đất bãi dựng hàng loạt túp lều bằng tre lợp lá cho thuê mở ra phố sông. Cũng như Hải Phòng, ngoài phố luôn có cảnh một cảnh sát Tây đi trước, theo sau là cảnh sát An Nam.

Cô vào trong phố. Phu An Nam đang hò nhau dựng khung thép làm chợ Đồng Xuân. Đi dọc xuống nam, không có nhà thò ra hay thụt vào. Cả dãy phố chuyên bán bánh, kẹo và rượu ta. Lại có nhà bán các con giống làm bằng bột vô cùng lạ mắt. Thi thoảng cô thấy trước nhà có chum nước vối, bên cạnh để gáo dừa và cái bát. Cô mở nắp múc một bát, nước vối đặc làm cô bớt cơn khát. Chẳng ai đòi tiền, hình như họ làm phúc cho khách đi đường. Sợ đi xa lạc lối, cô quay về theo đúng con đường lúc nãy đã đi. Bỗng đám trẻ con chạy nháo nhác, cười khúc khích kháo “nặc nô” [9].

Tò mò cô lại xem, “nặc nô” là một đàn bà trung tuổi, mặt đỏ vì rượu, mặc áo xanh đỏ như các bà đồng đang múa may mồm chửi dẻo quẹo “Tiên sư cha con đĩ! Bà tróc mồ tróc mả mày lên! Đừng có thách bà!”. Chửi xong bà vỗ bồm bộp vào phía dưới rồi vung hai tay ra. Lan quan sát xem “con đĩ” mà bà ta chửi đứng đâu nhưng chẳng ai là con đĩ cả. Bà ta tưởng tượng để chửi. Một ông chắc dân hàng phố thì thầm với ông khách, “Bà ta là me Tây, chồng làm đội xếp nên chả ai dám dây”. Lan lẩm bẩm thế mà cũng có người lấy. Bỗng bà ta hướng mắt về phía Lan, rồi tiến lại giơ ngón tay như múa chỉ vào mặt, “Con đĩ kia! Mày xem gì, bà có cởi váy đâu mà mày xem”. Sợ quá Lan bỏ chạy. Bà ta đuổi theo vài bước rồi dừng lại. Một đứa trẻ túm vào áo bà kéo lại. Lan chạy một mạch về nhà trọ. Cô hối tiếc vì đã lên Hà Nội. Nhưng biết đi đâu?

2.

Hơn một tháng ở đây gần như đêm nào cô cũng thức trắng. Chẳng phải lạ nhà nhưng chuyện cũ đan xen với tương lai vô định như múa chèo trong đầu. Bến tàu ban ngày tấp nập, ồn ào, ban đêm lặng như chốn không người. Có đêm cô nghe rõ tiếng sóng quật vào thân đê. Lại có đêm gió vỗ cánh cửa, cô ngỡ Hồng gọi. Bức vách đất giữa hai phòng trọ không thể ngăn được tiếng rên của cô vợ trẻ gian bên, khiến Lan liên tục trở mình, nhớ lại ngày còn ăn ở với Hà. Đành lấy áo nhét vào mồm. Tiếng thở đều đều của thầy ký gian bên phải cũng làm cô ghen tỵ. Người ngủ mà thở đều đời không sóng gió, không vất vả lại thở nhẹ nữa thì số sướng, bà ngoại cô bảo thế. Và cứ gần sáng tiếng còi tàu hơi nước kéo ba hồi rời bến làm cô nhớ quê da diết, muốn vơ quần áo về ngay Nam Định. Một đêm, đám trai biết cô trọ một mình, chờ Tây đi tuần qua lại gõ cửa trêu ghẹo, “Cái gì còn vẫn còn. Đâu phải sắt đá gỉ mòn mà lo. Mở cửa cho vào đi!”. Sợ quá cô đập vách cầu cứu thầy ký.

Đêm nay cô thấy dễ chịu, đang thiêm thiếp bỗng thằng cu nhà con bé khóc ré lên. Mẹ nó à ơi ru mà nó nhất quyết không nín, lúc ư ử, lúc gào lên làm cô sốt ruột hộ. Con bé mới mười sáu, quê ở đâu chẳng rõ, ra Hà Nội mấy năm nay phụ bán hàng cho một bà buôn laghim (légumes) [10] ở chợ Đồng Xuân. Thằng chồng lớn hơn một tí, quê xứ Đông làm công cho nhà máy xay gạo của chủ Tàu. Hai đứa quen nhau khi trọ ở xóm Bãi Cát. Rồi một ngày bụng con bé phồng lên, nó sợ hãi khóc lóc, thằng này đành thuê chỗ rộng hơn cho “mẹ con nó ở”. Đứa con mới được mấy tháng. Có tiếng đập tường, giọng con bé mếu máo:

- Chị ơi con em không biết làm sao, dỗ mãi cháu không nín, chị giúp em với.

Lan đã nuôi con đâu mà biết bị làm sao, cũng chỉ nghe nói có đứa khóc dạ đề mấy tháng liền nhưng thằng này không thế, có thể nó đau bụng. Cô mở cửa, mấy bà bên cạnh cũng chạy sang, thầy ký quần áo gọn gàng sốt sắng. Thằng bố trẻ luống cuống chẳng biết làm gì, mồm lẩm bẩm “nín đi, bố xin con”. Bà bán bún riêu lần lần rút một tàu gồi ngay mái hiên và nói như ra lệnh:

- Nào đánh diêm đi!

Tàu lá trên tay bà cháy bùng trong bóng đêm sông Cái. Bà lẩm bẩm khấn cầu. Thấy lửa cháy, cảnh sát Tây chạy lại, tay lăm lăm súng, ông ta sai cảnh sát An Nam dập lửa nhưng anh này giải thích một hồi, ông ta lắc đầu bỏ đi. Khi trẻ khóc dỗ mãi không nín người xưa cho rằng cái vía đi chơi bị lạc không biết lối về và có khi vía bị ma quỷ bắt. Đứa bé kêu khóc là đòi lại vía, chừng nào vía chưa nhập vào thân thì nó còn khóc. Đốt lửa để có ánh sáng cho cái vía nhìn rõ đường về. Nếu bị ma quỷ bắt, nhìn thấy lửa tưởng mặt trời mọc, ma quỷ sẽ bỏ vía chạy trốn.

Tàu lá gồi cháy gần hết thì tiếng khóc nhỏ dần và im bặt. Con mẹ trẻ trào nước mắt sung sướng.

- Thôi cho nó vào giường đi! - Bà bán bún riêu quát.

Thằng chồng lí nhí cám ơn. Lan bỗng nhớ lúc thằng Lân còn bé, ốm quặt quẹo, bà nội ôm rồi lại mẹ bế dong khắp xóm suốt đêm. Kiếp đàn bà không có con cũng khổ, có con cũng chẳng sướng gì.

Sáng nay đứng ở cửa, Lan lại nhìn thầy ký vào phố. Thầy mặc áo the khá mới, ngực bên trái đeo một miếng sắt tròn tròn màu xanh đỏ, tay phải che ô đen, tay trái cắp mấy cuốn sách, chân đi giày Gia Định, bước đi êm như mèo. Cô đoán thầy đi học, chân ký lục chắc chỉ làm thêm. Thuê nhà ở đây hẳn thầy không phải dân Hà Nội. Bỗng nhớ trò nghịch ngợm khoét vách nhìn trộm vợ chồng trẻ ngủ với nhau hồi còn ở làng do Thiên bày trò, Lan tìm đoạn tre nhọn đầu khoét bức vách. Để thầy không phát hiện được Lan khoét cái lỗ chỉ bằng đầu ngón tay út và trong lúc khoét cô cố gắng không để vụn đất rơi xuống phòng thầy. Nhìn thử Lan thấy rõ một phần gian nhà, cô khoái trá tìm mẩu gạch nút lại. Sung sướng về trò đùa của mình, cô kềnh ra chõng co chân lên hạ chân xuống như trẻ con.

Khi tiếng chuông nhà thờ đánh mười một tiếng, thầy ký về. Cô rút nút ghé mắt quan sát. Thầy cởi áo the để lộ cái áo ngắn tay cài khuy vải bên trong. Rồi thầy cởi tiếp áo ngắn tay lộ ra cơ thể rắn chắc như mấy anh đô vật. Có tiếng vo gạo, chắc thầy nấu cơm nhưng thi thoảng chạy ra chiếc bàn tre giở cuốn sách lẩm nhẩm đọc. Lan đoán thầy học tiếng Tây. Và Lan bịt mồm sợ cười thành tiếng khi thầy hướng cái bụng về phía cô lộ rõ nốt ruồi cách cạp quần một tẹo. Cô vội nút hòn gạch lại rón rén ra chõng.

“Ăn dè đầu hè cũng hết”, Lan quyết quay lại nghề bán gạo vì quanh bến này dân tứ chiếng đổ về thuê nhà kiếm sống khá đông. Cô vào chợ Đồng Xuân mua sắm thúng mủng và tìm mối gạo. Nửa tháng sau, chẳng cần chọn ngày, cô mở hàng. Buổi sớm, hàng quà còn rao, cô đã bê thúng gạo ra kệ vì thế ngày nào cô cũng nhìn thầy ký đi học. Cô an ủi mình, “chả bán được đấu nào nhưng buổi sáng được nhìn thầy là lãi rồi”.

Đúng như cô đoán, thầy đang học tiếng Pháp ở trường Thông Ngôn. Ngày đầu lính Pháp chiếm Hà Nội, thông ngôn toàn người Nam Kỳ nên Thống sứ Bắc Kỳ cho mở trường. Điều kiện được thi phải biết chữ Hán, chữ An Nam. Còn thi chỉ viết bài luận ngắn bằng cả hai thứ chữ. Khóa đầu trường tuyển một trăm người, chính quyền không thu học phí mà còn chu cấp sách bút, giấy đầy đủ. Thầy thi đỗ với số điểm rất cao. Vì chỉ học buổi sáng nên thầy làm thêm chân ký cho chủ dãy nhà vào buổi chiều. Nhà thầy ở làng Trung Hòa, cách cầu Giấy hơn trăm thước, đi bộ về không đến một khắc giờ. Lan lại còn biết tên thầy là Trúc. Một trưa, thầy đi học về, nhà hết gạo, thầy chạy sang bảo:

- Chị bán cho tôi hai đấu gạo ngon.

Lan lởi xởi:

- Tôi không có gạo ngon, ở đây toàn phu phen gạo ngon không bán được.

Lan chúm chím, cái chúm chím mà lúc ở Hải Phòng, chị Ba bảo nó có thể kéo đổ cành cây to. Sinh ra cô đã thế. Chả biết giời cho hay giời bắt đeo.

- Thế thì gạo gì cũng được!

- Tôi ở đây cũng lâu, hôm nay mới thầy mua gạo...

Lan bắt chuyện tự nhiên.

- Dạo này học thi bận quá tôi không về nhà lấy được.

Cứ thế chuyện nọ sang chuyện kia, mãi mới đong cho thầy hai đấu. Thầy trả tiền, Lan không nhận.

- Chị không lấy tôi không mua nữa.

Lan đành nhận tiền. Từ hôm đó, buổi sáng đi học bao giờ thầy cũng nói:

- Chúc chị hôm nay đắt hàng nhé!

Thầy học tiếng Tây có khác, nói toàn những câu cô nghe lần đầu. Một buổi chiều cô ngấp nghé bên cửa.

- Phiền thầy ký giúp tôi một việc...

- Chị cứ nói đi!

- Tôi muốn may mấy bộ váy áo nhưng không biết hiệu may ở chỗ nào, phiền thầy chỉ giúp tôi được không ạ?

Cô muốn bắt chước kiểu cách của con gái Hà Nội khá giả, mặc áo lụa mỏng năm thân, váy lĩnh đen, đi dép mõm bằng, đội nón ba tầm bên trong gắn cái gương nhỏ để thi thoảng kín đáo soi mặt.

- Ồ có gì đâu! Nếu bây giờ chị dỗi tôi dẫn đi luôn, chiều nay Chủ nhật tôi nghỉ.

Lan mừng quá.

- Cám ơn thầy ký!.. Tôi hỏi câu này thầy đừng giận... tôi thấy nhiều người Hà Nội trẻ tuổi ăn mặc kiểu Tây, sao thầy không...?

- Ai làm ở sở Tây thì buộc phải mặc như họ, còn tôi là học trò, trường không ép, mặc thế nào cũng được.

- Thế thầy thấy quần áo Tây so với quần áo ta thế nào?

- Tôi chưa mặc nên không biết nhưng đồ ta bằng lụa, bằng the nhẹ hơn và phơi cũng mau khô.

Hiệu may nằm trong con ngõ nhỏ ở phố Hàng Thêu [11] gần hồ Gươm. Chủ là một đàn ông trung niên, miệng bỏm bẻm nhai trầu. Mấy chục thợ khâu toàn đàn bà đang miệt mài ke từng mũi kim. Có thợ giỏi làm gì con gái Hà Nội mặc chả đẹp, mà các cô khoe khéo lắm, mặc áo mớ bảy và khoác bên ngoài màu nền nã nhưng vẫn đếm đủ các màu áo bên trong. Vì cô không mang theo quần cũ làm mẫu nên ông thợ cả ước lượng chiều ngang, chiều dài bằng mắt rồi lấy phấn màu viết lên tờ giấy. Cô may một lúc năm chiếc quần lĩnh đen và năm chiếc áo năm thân cài khuy.

- Tôi cũng thường may áo the ở đây, ông này cắt khéo lắm, đường kim mũi chỉ của thợ đều tăm tắp.

Trúc nói sau khi hai người ra đến phố. Ở Hà Nội có khác, đi ngoài đường cùng đàn ông chẳng ai để ý, ở quê chưa về đến nhà thầy u đã biết chuyện. Tò mò miếng sắt lúc nào cũng đeo trên ngực, Lan hỏi thầy ký bảo đó là huy hiệu Hà Nội.

- Hai bên có hai con rồng tượng trưng cho rồng Thăng Long đang bay, giữa là thanh kiếm nhô lên tượng trưng vua Lê Lợi trả kiếm cho thần Kim Quy, trên cao là mặt trời màu đen, hình nhấp nhô xung quanh là tường thành Thăng Long. Chính tôi cũng không hiểu vì sao con rồng đầu đỏ, mình xanh lá cây.

- Thầy học thông ngôn sau ra làm quan à?

Trúc cười nhẹ:

- Ấy không, học xong ra làm thông ngôn cho nhà nước hay hãng buôn. Mai kia chị buôn lớn thuê tôi làm ký cho.

Lan biết thầy ký đùa nhưng chưa hết băn khoăn:

- Sao thầy không học chữ Nho để rồi đi thi ra làm ông tú hay ông cử?

- Hà Nội bây giờ là đất Tây, sống theo luật Tây. Cả Hà Nội có chưa đến chục ông quan, ngay cả quan kinh lược của triều đình cũng vẫn phải nghe lệnh quan Tây thì học chữ Hán làm gì? Mà chữ Hán tôi học từ hồi còn để chỏm.

Chợt nhớ ở Hải Phòng, chị Ba nói tiếng Tây nhoay nhoáy. Lan hỏi:

- Thế có chỗ nào dạy tiếng Tây cho đàn bà không thầy?

- Có, cha cố Dronet ở Nhà Chung mở lớp dạy miễn phí cho các bà, các cô đấy, biết tiếng Tây mới nhận làm giúp việc cho gia đình họ.

- Nhà Chung chắc xa... hay thầy ký nhận tôi làm học trò nhé...

Học hành ở An Nam xưa nay là chuyện của đàn ông, học để đi thi, nếu đỗ ra làm quan mang vinh hiển cho gia đình và dòng họ. Còn phụ nữ thành thị chỉ học buôn học bán, không ai dám học chữ và cũng không bố mẹ nào cho học sợ không ai rước vì nhiều chữ để cãi chồng chứ làm gì. Lớn lên “xuất giá tòng phu” lo làm lụng nuôi chồng con, nghe Lan nói, Trúc ngạc nhiên nhưng từ chối khéo:

- Tôi sợ không đủ chữ để dạy chị...

- Thì thầy có bao nhiêu dạy bấy nhiêu, mà chắc gì tôi đã học hết được số chữ của thầy?

Biết không thể từ chối, Trúc đành nhận lời. Thế là tối tối cô mang giấy bút sang nhà thầy. Có chữ đánh vần muốn méo mồm nhưng thầy khen cô nói tròn vành rõ chữ. Còn viết thì cầm cây bút Tây nhẹ hơn bê thúng gạo mà chữ ngoằn ngoèo, thầy bảo vui viết như Trạng Quỳnh vẽ giun. Ban ngày ngồi bán hàng lẩm nhẩm ôn bài, tối Trúc kiểm tra cô nói làu làu, viết chữ cũng không sai. Trúc nhận thấy Lan sáng dạ. Một tối, Lan nhớ đến tấm thân như đô vật của thầy ký lần nhòm qua lỗ, cô vờ áp sát nhưng thầy tế nhị tránh ra. Cô xấu hổ.

- Tôi hỏi chuyện này khí không phải, có gì chị bỏ quá cho, hôm đầu gặp, nhìn chị mặc áo tứ thân, váy thâm, sao chị dám cạo răng đen?

Lan giật mình, cứ như thầy đã biết hết mọi chuyện.

Ngày đầu tiên về nhà, Hồng bắt cô cạo răng, ông ta bảo nhìn răng đen hôn chả sướng. Con gái người Hoa có ai nhuộm răng đâu. Cô đáp trả, người Hoa khác, An Nam khác. Cô nhớ lúc hơn mười tuổi, bà nội bảo cháu đến tuổi nhuộm răng rồi đấy, để răng trắng nhởn như răng chó luộc ghê lắm. Con gái răng đen mới có đứa nó nhòm ngó. Nói xong bà ngâm nga:

Năm quan mua lấy miệng cười

Mười quan chẳng tiếc miệng người răng đen

Ngâm rồi bà lại kể khi xưa vua Quang Trung tiến quân ra Bắc đánh giặc Thanh, trước quân sĩ ở Thọ Hạc, ngài đã hạ dụ:

Đánh cho để tóc dài

Đánh cho để răng đen

Cô không biết vì sao phải nhuộm nhưng trong làng, răng ai cũng đen nhức, từ đàn bà đến đàn ông, trẻ con cũng thế. Hôm nào có thợ qua làng, hết nhà nọ đến nhà kia mời, người nhuộm mới, người nhuộm lại.

Hồng dẫn một bà cạo răng ngoài chợ Lớn về. Bà ta lấy con dao sắc cậy từng miếng một, đau điếng, có lúc buốt óc làm Lan muốn đạp vào mặt bà ta.

- Chuyện dài lắm, kể ra chắc thầy ký khinh tôi...

Giọng cô đượm buồn. Trúc hiểu cuộc đời của Lan éo le, trắc trở nên lái sang chuyện khác.

- Là tôi thấy chị răng trắng thì hỏi thôi. Đừng vì tôi hỏi mà bỏ học nhé, chị sáng dạ lắm.

Buổi học hôm đó Lan xin phép nghỉ sớm.

3.

Lan mặc quần lĩnh đen, loại lĩnh do làng Bưởi dệt nổi tiếng khắp Bắc Kỳ, cô lại diện chiếc áo năm thân màu trắng cài khuy hổ phách. Đi đôi guốc sơn then đế cao. Cô vấn tóc bằng khăn nhiễu điều rồi xoay qua xoay lại, ai bảo ta bán gạo nào? Cô mở lỗ nhìn, thầy ký vẫn đang ngủ, tay trái đặt lên trán. Hôm nay tết Trung chính [12], chị Ba mời đến nhà ăn tiệc và nhân thể mai mối cho chàng sĩ quan Tây “còn tân”. “Đẹp như rối không mối không xong”, chị Ba hỉ hả tuyên bố. Lan không nghĩ lại có thể gặp lại chị. Hôm đó Lan vào đền Ngọc Sơn vãn cảnh, bất ngờ gặp chị dẫn con đi chơi, thằng bé lai thật đáng yêu, nó nói cả tiếng Pháp lẫn tiếng An Nam.

Hai lần chồng nhưng cảm giác háo hức pha trộn lo lo không mất, vẫn tươi nguyên. Lan đoán ông ta thế nào cũng để râu xồm, quần áo nhà binh oai vệ. Chưa gì gì với ai nhưng chả hiểu ông ta có thích con gái An Nam không? Định ra cửa gọi xe thì một chiếc bóng loáng từ xa phóng đến đỗ xịch trước mặt.

- Thưa cô, bà Ba sai tôi đến đón cô, mời cô lên xe!

Cô xúc động trước cách ứng xử của chị Ba. Cô bảo anh xe chạy một vòng quanh phố cho cô bớt căng thẳng. Chiếc xe tay dừng lại trước ngôi nhà hai tầng. Cô gái giúp việc mở cửa, người cúi rạp:

- Mời bà vào!

Lan đỏ mặt, cũng như cô gọi chị Ba bằng bà, nhưng chị Ba trông ra dáng hơn còn cô chỉ là cô gái nhà quê bán gạo cho phu phen. Theo chân hầu gái vào nhà, chị Ba ôm và thơm vào má theo kiểu Tây lại khoác tay đầy thân tình, cứ như cô là quý bà. Chồng chị cười để lộ hàm răng trắng sau bộ râu.

Chị Ba quê Vĩnh Yên, lấy phải anh chồng một tấc lên giời, lại gia trưởng, tiện tay là đấm, môi lúc nào cũng khô vì chửi vợ. Chị bỏ về nhà. Hàng xóm bêu riếu, cha mẹ ra đường cắm mặt, chẳng còn đường, chị trốn xuống Hà Nội. Nhờ mỏng mày hay hạt, bà Beira chủ của quán cà phê và rượu absinthe [13] ở phố Paul Bert [14] nhận làm chân chạy bàn. Bà Beira trước khi về hưu bán căngtin trong quân đội Pháp từ những ngày đầu họ ra Bắc Kỳ, trở thành bạn thân của Jean Dupuis. Bà rất tốt với các cô gái An Nam, hướng dẫn tỉ mỉ cách bưng bê để cốc không đổ và đặt cốc sao cho lịch sự. Chính bà dạy tiếng Tây cho Ba. Cũng từ quán này chị gặp ngài quan ba và hai người lấy nhau ít lâu sau đó. Một ông Tây từ phòng trong đi ra, Lan giật mình nhận ra chính là quan Tây đã cứu cô hôm bị nạn trên sông Cái. Ông ta nháy mắt ra điều là đã quen nhau. Chị Ba trịnh trọng:

- Giới thiệu với em, đây là ngài quan tư hậu cần Laglan.

Rồi quay sang Laglan:

- Đây là cô Hồng, người mà...

Lần gặp chị ở cảng, chính Lan nói mình tên là Hồng. Cũng chả sao, dân quanh chỗ cô bán gạo hồi ở Hải Phòng chả gọi mãi là thím Hồng.

- Thưa chị, đây là ân nhân của em. Chính ông Laglan và quân lính đã cứu em khi thuyền bị lật gần bến Cột Đồng Hồ đấy.

Chị Ba ngạc nhiên và thán phục:

- Chuyện ngài Laglan cứu nạn chồng chị đã kể nhưng cứu em thì hôm nay chị mới nghe em nói. Ôi, người hùng cứu mỹ nhân, thế là duyên nợ tiền kiếp rồi.

Chị Ba cười mềm, đi vào bếp. Mặt Laglan hơi đỏ vì câu ngợi ca. Đối diện với một cô gái mà mình có ý định tán tỉnh và cô ta lại biết tỏng ý định đó làm cho Laglan lúng túng. Giá cô ta là đàn bà Pháp chuyện sẽ dễ dàng hơn, chưa nghĩ ra điều hay ho để chứng tỏ bản thân thì cứ bắt đầu bằng câu quen thuộc “cô ở vùng nào”. Nhưng cô ta là đàn bà An Nam. Laglan xoay sang bên phải một chút, lại xoay sang bên trái một chút, người đơ ra. Lan bình tĩnh hơn và cô hiểu tâm trạng của một người đàn ông lần đầu tán gái nhưng cô cũng chưa biết gỡ bí cho ông ta bằng câu gì. Sau một hồi thì ông ta cũng tìm được câu phù hợp.

- Cô bơi giỏi lắm!

- Tôi là đứa bơi tồi nhất trong đám bạn ở quê.

- Tôi mong đám lính của tôi bơi tồi như cô thôi.

Một câu khen tế nhị khiến Lan bắt đầu chú ý ông ta hơn.

- Ai dạy tiếng Pháp cho cô?

- Thưa ông, một người An Nam đang học ở trường Thông Ngôn...

- Tôi cứ nghĩ phải là một người Pháp.

Lan mỉm cười, mắt lúng liếng. Ông ta cũng cười. Phút khó khăn ban đầu với ông ta có vẻ tạm qua.

Laglan mặc quần ka ki trắng, áo trắng cộc tay, trông trẻ hơn nhiều so với mặc quân phục. Quái lạ, sao đàn ông Tây ai cũng khoe mình có ria mép. Lan cười mím miệng, “sau này thân sẽ cho ăn mắm tôm”. Bữa tiệc diễn ra vui vẻ. Chị Ba giới thiệu rất nhiều món nhưng Lan chỉ nhớ thịt bò hầm kỹ với khoai tây cho thêm củ cà rốt màu đỏ gọi là xúp, thịt bò tẩm ướp gia vị rán với mỡ lợn gọi là bít tết. Món An Nam duy nhất là nem rán. Món này Lan chỉ được nghe kể chưa bao giờ được ăn vì nó chỉ có ở thành phố, chị Ba bảo người Tây thích nhất nem trong các món ăn An Nam. Vỏ rượu vang chất một góc nhà. Anh chàng kỹ sư thiết kế công sự, bạn thân của gia đình chị Ba đã ngà ngà, anh ta mang đàn ra đánh. Cây đàn có nhiều dây hơn cây nhị, âm thanh cũng khác. Những ngón tay anh ta di chuyển dọc thân đàn rất thành thạo. Bàn tiệc nhanh chóng chuyển thành sàn khiêu vũ. Vợ chồng chị Ba dìu nhau theo tiếng nhạc, thỉnh thoảng lại quay tròn trông dễ dàng và mềm mại. Lan thấy lạ, cô chăm chú dõi, lần đầu cô được thấy trò chơi của người Tây. Lại một cặp vợ chồng người Pháp đứng dậy, họ lắc người và đưa chân theo nhịp đàn rất tự nhiên, khác xa với múa chèo. Laglan chìa tay mời nhưng Lan lắc đầu:

- Thưa ông! Tôi chưa từng...

- Cô cứ bước chân và xoay theo tôi, cũng dễ thôi mà.

Chị Ba gật đầu nhìn Lan động viên. Rượu vang làm Lan hưng phấn, cô tự tin đứng dậy. Tay trái Laglan nắm nhẹ bàn tay phải của cô còn tay trái ông ta đặt lên bờ vai trái. Lan hơi run, một cảm giác hoàn toàn khác lạ xuất hiện trong người làm chân cô vấp vào chân Laglan. Ông ta chủ động dìu cô đi. Sau hai vòng, chân cô không cứng nữa, chúng ngoan ngoãn di chuyển theo chân ông ta như bọn trẻ lon ton theo kịp mẹ. Laglan cúi xuống nhìn cô cười và gật đầu ý như “cô biết khiêu vũ rồi đấy”. Lan nhớ chiều thu ở cảng Hải Phòng, chị Ba kiễng chân hôn chồng và cô nhắm mắt, rạo rực cảm giác như Laglan đang cúi xuống hôn cô. Tiếng đàn dừng lại, cô tiếc vì nó cắt ngang nụ hôn tưởng tượng của cô.

Kèn nhà binh trong thành vang lên, bữa tiệc cũng vừa kết thúc. Laglan xin phép đưa cô về nhà. Vợ chồng chị Ba tiễn hai người ra xe và kèm theo câu “chúc mọi việc tốt lành” đầy ẩn ý. Chiếc xe ngựa nhong nhong trên phố thênh thang. Thỉnh thoảng Laglan quay sang nhìn Lan và cô đáp lại bằng nụ cười. Người cô luẩn quẩn cảm giác rất khó tả. Cô ngạc nhiên lúc đến nhà chị Ba xe tay chỉ chạy có một nhoáng mà xe ngựa sao mãi chưa về tới nhà. Ông ta thỏa thuận với xà ích chăng? Đường thưa người. Côn trùng vẫn chưa ngủ, chúng lao vào thưởng thức ánh sáng hơi đục phát ra từ những chiếc đèn dầu treo bên đường. Đêm Hà Nội dịu dịu...

Bữa tối toàn đồ Tây. Nhìn đã bứ tận cổ. Lan chỉ ăn mỗi món xúp. Sợ Laglan buồn, cô cố ăn hết miếng bít tết. Qua chuyện gọi món ăn, chứng tỏ tính cách ông ta gia trưởng, luôn bắt người khác phải theo mình hoặc ông ta hồn nhiên nghĩ cô quá quen món ăn Tây. Nhưng rõ ràng ông ta không phải loại đàn ông rành rẽ đàn bà, vì thế bốn mươi tuổi hai bàn tay vẫn trinh nguyên và nếu lấy vợ hẳn sẽ chung thủy. Laglan chén thật lực. Nhìn ông ta ăn, người ốm cũng phát thèm. Thấy Lan bỏ dĩa, Laglan chợt hiểu Lan ăn chưa quen mà ông lại gọi toàn món Tây. Ông ta băn khoăn:

- Anh gọi đồ An Nam cho em?

Lan cười:

- Món gì em cũng ăn được. Hôm nay em hơi mệt nên ăn không ngon miệng thôi.

Cốc rượu vang làm má ông đỏ hồng, nhìn Lan say đắm, hồi lâu ông mới dè dặt:

- Anh muốn cưới em làm vợ...?

Lan không bất ngờ. Từ ngày gặp ở nhà chị Ba, Lan nghĩ có ngày cô sẽ được nghe câu đó. Và cô đoán bữa ăn tối nay ông ta sẽ nói.

Laglan sinh ra trong gia đình nhiều đời trồng nho và làm rượu vang ở vùng Bordeaux. Trong khi ông bố luôn mồm, trồng nho phải thế này, ủ nho phải thế kia với mong muốn con trai nối tiếp nghề truyền thống gia đình thì Laglan chán ghét mùi hăng hăng của đất, ghét cả màu phấn trắng xám bám vỏ quả nho căng tròn mới hái. Laglan nung nấu ý định đi khỏi gia đình. Và cơ hội đã đến khi anh đọc tờ báo đăng lời mời gọi mộ lính sang các nước thuộc địa với lời lẽ kích động khủng khiếp: “Biên giới nước Pháp không còn bó hẹp ở châu Âu. Sự thịnh vượng của nước Pháp phụ thuộc vào sự hy sinh của các bạn. Đó là chuyến khám phá đầy mạo hiểm nhưng vô cùng thú vị ở châu Phi, châu Á mà bạn chưa từng nghe nói. Sẽ chẳng có chiếc bánh mì nào nếu bạn không tự làm ra nó. Hãy giang rộng cánh như đại bàng để bay trên bầu trời bao la...”. Laglan sùng sục, ông bố cảnh báo:

- Đó là những lời lẽ lừa lọc, sẽ chẳng có mẩu bánh mì nào ở đó cả và cha không cho con ra khỏi biên giới nước Pháp.

Một buổi chiều từ cánh đồng về, ông không thấy con trai đang chăm ngựa như mọi ngày. Biết con đã trốn, ông tức điên vội cưỡi con ngựa tốt nhất phi ra thị trấn. Bàn bi-a mọi khi con thường giải trí đóng cửa. Trong lúc cha đang giật dây cương sục sạo thì Laglan đã ngồi trên xe lửa đi Paris. Chỉ vài ngày sau đó, anh chàng nông dân trồng nho yêu văn chương khoác trên mình bộ quân phục. Và cũng sau vài tháng huấn luyện, Bộ Hải quân đưa tân binh xuống cảng Toulon, khi con tàu rời bến, viên chỉ huy mới nói, “Các bạn sẽ đến An Nam thuộc xứ Đông Dương”, đám lính nhìn nhau, An Nam là mảnh đất chết tiệt nào vậy? Một anh chàng láu cá, bạo miệng hỏi:

- Thưa ngài! Ở đó có các cô gái da trắng không?

Ông ta lạnh lùng đúng kiểu nhà binh chuyên nghiệp:

- Có các cô gái da vàng cùng muỗi nhiều như chim hải âu ở Marseille. Laglan nhìn anh lính ngồi bên cạnh như chờ đợi câu trả lời, anh này lắc đầu.

Con tàu vượt Ấn Độ dương, khi qua eo biển Malacca, nơi mà Laglan nhìn thấy thổ dân gốc Mã da ngăm ngăm, đóng khố đánh cá, anh đã ngốn được mấy cuốn trong đống sách mang theo. Và một sáng tỉnh dậy, xuống bếp ăn, viên sĩ quan chỉ huy chỉ qua ô cửa: “Trước mặt các bạn là Sài Gòn, thành phố phồn vinh nhất của nước An Nam và của xứ Đông Dương”. Đám lính trẻ chen nhau nhìn, số khác chạy lên boong. Sài Gòn lớn dần trong mắt họ. Con tàu giảm tốc độ vào cảng. Không đông đúc như Toulon nhưng tàu thuyền nhiều vô kể. Laglan thấy có các con tàu hơi nước cỡ lớn mang cờ Pháp, Anh,Ý và cả cờ Hà Lan, chắc là vùng đất quan trọng, Laglan nghĩ.

An Nam là đây, nóng muốn phòi mỡ. Hai phần ba trong số lính mới được lên bờ. Những câu hỏi ở Toulon đã được giải đáp một phần. Trên cầu tàu, đám đàn ông nhỏ thó da vàng ệch, các cô gái còn nhỏ hơn đi lại thoăn thoắt, trông họ èo uột nhưng rất tươi, không có ẩn ý. Laglan thuộc quân số đi tiếp. Một số sĩ quan lạ hoắc bước vào khoang. Tàu tiếp nhiên liệu, nhận thực phẩm rồi rời cảng. Hơn chục ngày sau, nó tu tu báo hiệu sắp cập bến mà sĩ quan chỉ huy bảo là Ninh Hải. Cảng này mới làm tạm, cầu neo tàu bằng gỗ thông, đám cu li gầy gò trong bộ quần áo màu nâu cũ mốc, tóc ai cũng búi như củ hành sau gáy. Họ vác bao hàng to nhưng rất nhẹ nhàng. Xung quanh, thuyền mành loại không còn ở Toulon đỗ san sát. Laglan quan sát thấy khá nhiều đàn ông tóc tết như con gái Pháp, hình như họ là người Trung Hoa. Sau một vài thủ tục, họ được lên bờ chờ chuyển sang con tàu khác, nghe nói sẽ đi vào con sông nhỏ. Một số tân binh bắt đầu lo lắng, còn Laglan lại thích thú, “Ồ, họ nói đúng, cuộc khám phá thật sự”. Xà lúp cặp bến mà người ta gọi là Cự Phú. Những chiếc thuyền gỗ nhỏ chen chúc, người lên người xuống khá vui mắt. “Kinh đô sao thảm thế này?” Laglan lầu bầu vì từ bến Ninh Hải, viên sĩ quan phố biến “chúng ta sẽ đến một kinh đô hàng trăm tuổi”.

Trong hiệp ước ký năm 1874 giữa chính phủ Pháp và triều đình nhà Nguyễn, vua Tự Đức phải cấp cho chính phủ Pháp một khoảng đất rộng ven sông để làm tòa lãnh sự. Nhiệm vụ của đám lính như Laglan là bảo vệ công binh xây dựng nhà và công trình quân sự. Đêm đầu tiên ngủ trong lều vải, trời nóng bức và da của đám lính trở thành bữa tiệc của những con côn trùng An Nam đói máu. Sĩ quan quân y yêu cầu tất cả phải mắc màn xô để tránh các bệnh dịch nhiệt đới.

Tòa lãnh sự nằm cạnh con sông nước đục ngầu. Bên ngoài hàng rào gỗ phía tây toàn ao hồ và những ngôi nhà tranh lụp xụp. Laglan náo nức muốn được vào kinh thành nhưng chỉ huy mới có cấp bậc trung úy, ông này từ Sài Gòn ra năm trước luôn cảnh báo không được đi quá xa vì ngoài khu đất thuộc quyền của người Pháp lúc nào cũng có quân Cờ Đen mai phục. Họ là người lính chân đất từ phía nam Trung Quốc sang chống Pháp theo yêu cầu của triều đình An Nam và chính bọn họ đã phục kích giết chết ngài đại tá Francis Garnier. Để bớt lo lắng, Laglan tự trấn an “mình quân nhân nước Pháp, có súng trong tay sao lại hèn nhát”. Tuy vậy nhiều đêm ngồi gác, Laglan vẫn cầu Chúa xin ngài che chở để không mất mạng ở cái xó bờ sông này.

Mùa mưa bão năm 1884, quân Cờ Đen bao vây khu lãnh sự, từ ngài lãnh sự đến quân lính phập phồng lo sợ, may thay trời đã cứu họ, nước sông Cái dâng cao, quật mạnh tràn qua con đê vào phố buộc quân Cờ Đen phải rút. Trong trận lụt đó, Laglan cứu viên chỉ huy vốn bơi quá kém thoát chết và anh được thăng chức. Laglan có bộ mặt nghiêm nghị rất hợp với quân đội, anh được cả đơn vị khen là mặc đồ lính rất đẹp. Tính tình Laglan vui vẻ và hóm hỉnh. Một cô bán căngtin mê mệt nhưng anh chàng trồng nho đỏ mặt trốn tránh mỗi khi nhìn thấy cô ta và luôn nhờ bạn bè mua hộ thứ cần thiết.

Trong đám cùng nhau sang An Nam, chỉ còn mình Laglan chưa lấy vợ. Bọn nó nghỉ phép về Pháp lấy vợ, con cái đã khá lớn. Chẳng phải Laglan không muốn lấy vợ, vài cô có cha mẹ làm công chức ở Bắc Kỳ, có cô kinh doanh ngay tại Hà Nội đắm đuối nhưng Laglan dửng dưng. Dãy nhà dành cho sĩ quan độc thân trong thành còn lại mình Laglan. Vài lần ngồi uống rượu vang, bạn bè đùa bảo đi khám bệnh. Thật bất ngờ lần cứu cô gái đắm thuyền trên sông Cái làm ông bối rối ngay từ lần nhìn đầu tiên. Nhiều đêm nhớ Lan, Laglan ra hành lang hút thuốc và nốc rượu vang nhưng càng uống càng nhớ. Tình yêu chả có hình thù chả có năng lượng mà sức mạnh còn hơn cả viên đại bác bắn vào nghĩa quân ở rừng Yên Thế. Nghe Lan nói Laglan thoáng buồn, cô ta còn suy nghĩ thì chưa có gì là chắc chắn. Bàn bên toàn người Pháp, Lan nghe loáng thoáng họ chê bai người An Nam.

Đêm đó cô trằn trọc. Đồng ý lấy Laglan, cô sẽ thành me Tây, thứ vợ mà người ta hay xì xầm bàn tán không xót lưỡi ở bất cứ đâu. Rồi cả các bà đầm già miệng “bông giua bông xoa” nhưng bụng lại coi thường. Lấy anh ta không lo thiếu thốn, biết đâu có thể mua được cho thằng Lân miếng đất, làm cho nó gian nhà. Bao nhiêu năm giỗ cha mẹ nhờ nhà chú rồi... Lan miên man cho đến khi chuyến tàu xuôi Nam Định đầu tiên trong ngày tu tu rời bến.

Đang khỏe tự nhiên Lan lăn quay ra ốm. Nhọc đến mức không dậy được. Muốn đi bắt mạch nhưng tự Lan chẳng lê nổi tấm thân mấy chục cân ra cửa gọi xe tay. Trên xà tre, hai con thạch sùng vô tư đuổi nhau. Tự nhiên cô ghen tị, chả phải trả tiền thuê nhà lại còn ngang nhiên đùa giỡn. Tủi thân Lan khóc thầm. Lúc ốm đau mới hiểu thế nào là ruột thịt, thân thiết. Gian thầy ký chẳng một tiếng động nhỏ, chắc thầy về Trung Hòa. Con bé gian bên thấy cô không bán gạo, hỏi vọng sang nó mới biết cô ốm. Nó bế thằng bé sang nấu cho nồi cháo nhưng cô chỉ ăn vài môi, phí cả công nó. Rồi nó gửi con bà bán bún, cái bà mở miệng là than thèm cứt xanh cứt vàng trông hộ để đánh gió cho cô. Đồng tiền trinh cọ qua xát lại trên da để lại vết đỏ làm cô nhớ trận đánh ghen tứa máu. Cô rùng mình.

Đã ốm trời còn mưa rả rích. Nước sông Cái dâng to, dân chờ tàu tràn hết lên bờ đê, hàng quán nép nhờ cả dãy nhà trọ. Nằm trên chõng, Lan miên man nhớ tháng nước, Bình Thơ như hình cái vỉ đập ruồi bị nước bao quanh, con đường đất từ huyện về làng chìm trong màu nước đục. Đêm cô trốn đi cũng mưa. Đêm cùng Hà chuyển mồ cha mẹ cũng mưa. Có lần trời mưa ngồi bán gạo, cô nhìn người đàn ông to lớn mặc áo tơi lá dưới bến đi lên giật mình tưởng Hồng. Thân phận đàn bà xứ An Nam mong manh, dễ tan như hạt mưa. Rồi cô nhớ thằng Lân, dì Mùng, lâu lắm không có tin tức gì về họ. Rất nhiều lần cô định thu xếp một chuyến, chả hiểu sao lại không về được.

Có một đàn ông lầu bầu “mưa như chó” ngoài hiên. Tiếng con bé ru con khiến cô càng xót cho phận mình. Nếu không bị đòn ghen giờ này chắc cô cũng có con để ru. Chẳng biết giai hay gái. Giống cô hay giống Hồng. Và cô vẫn bán gạo ở Hải Phòng. Thằng bé cứ e e không chịu ngủ, con bé lại hát vống lên.

Bà còng đi chợ trời mưa

Cái tôm, cái tép đi sau lưng bà

Tiền bà trong túi rơi ra

Tép tôm nhặt được trả bà mua... à... rau... à á à à ơi.

Đi sau bà sao không là cháu chắt mà lại là tôm tép? Cô chả hiểu sao người ta lại nghĩ ra những lời lẽ tùy tiện như thế. Mưa càng nặng hạt. Bỗng có tiếng chuông xe ngựa loong coong. Cô cố nhỏm đầu dậy, tiếng loong coong đến trước cửa thì im bặt. Con bé hàng xóm chõ sang sang:

- Có ông Tây tìm chị đấy!

Nói xong nó chạy sang mở cửa hộ. Laglan có ô che nhưng áo sũng nước. Lan cảm động, cô không ngờ ông ta lại tìm cô trong ngày mưa gió. Nhìn cô nằm, Laglan vội vàng sờ trán, ông ta lắc đầu.

- Cô sốt cao quá, để tôi đi gọi bác sĩ đến khám.

Nói xong ông ta lao ra cửa. Cô nghe rõ tiếng thúc ngựa. Nước mắt cô trào ra...

Chú thích:

[1] Người xưa dùng mười hai con giáp để tính thời gian, giờ Sửu là từ 1 đến 3 giờ đêm.

[2] Một loại bao đan bằng cây cói.

[3] Cuối thế kỷ XIX, người Hà Nội ăn cơm chiều vào lúc 4 giờ.

[4] Năm 1886, chính quyền thành phố đặt một cái đồng hồ hai mặt ở chếch đầu phố Hàng Đậu để người đi tàu thủy biết giờ nên dân gọi luôn là bến Cột Đồng Hồ. Khi xây cầu Long Biên, họ đã chuyển bến tàu xuống phía dưới Cầu Đất, nên tên đó cũng không còn. Chiếc đồng hồ tồn tại ở vị trí đó đến thập niên 80 thế kỷ XX thì bị dỡ bỏ.

[5] Tên cổ của sông Đuống.

[6] Jean Dupuis.

[7] Theo Hòa ước giữa chính phủ Pháp và nhà Nguyễn ký năm 1874, nhà Nguyễn phải cấp cho Pháp 2,5 hécta đất giáp sông Hồng để làm khu lãnh sự ở Hà Nội. Tuy nhiên trên thực tế đã phải cấp cho họ tới 18 hécta. Ngoài tòa nhà lãnh sự, Pháp còn cho xây các công trình quân sự trong khu vực này. Nay tương ứng với khu vực từ Bệnh viện Hữu Nghị qua Viện Quân y 108, phố Đinh Công Tráng đến số nhà 33 phố Phạm Ngũ Lão, quận Hoàn Kiếm.

[8] Nơi bán tre, nứa, lá cọ từ mạn ngược đưa về tồn tại đến thập niên 70, thế kỷ XX, nay là khu vực chợ Long Biên.

[9] Không rõ có gốc Hán hay Pháp, nghĩa thường dùng: Đàn bà lắm lời, thô tục.

[10] Bán rau quả. Chợ Đồng Xuân xưa có câu “Thứ nhất hàng tấm (vải), thứ nhì laghim”.

[11] Nay là phố Hàng Trống, quận Hoàn Kiếm.

[12] Tết Trung chính: Quốc khánh Pháp 14-7.

[13] Rượu nấu bằng cây ngải, 75 độ.

[14] Nghị sĩ Pháp, là Tổng trú sứ Trung Bắc Kỳ năm 1886, bị kiết lỵ chết ngày 1-11-1886, chính quyền thành phố lấy tên ông đặt tên cho phố Hàng Khảm, nay là phố Tràng Tiền, quận Hoàn Kiếm.