Chương 4
Cô thợ may Joséphine bắt Lan đứng im trên chiếc chõng tre để cô mặc váy cưới. Hôm trước sợ dải váy dài như đuôi công dính nền đất, chị Ba đã mua cho mấy cái chiếu trơn. Lúc đầu Lan định mặc như con gái Hà Nội, váy lĩnh, áo ngũ thân trắng, vấn khăn điều nhưng Laglan không đồng ý cho rằng nên mặc theo kiểu Pháp trông lộng lẫy và sang trọng hơn. Lan ấm ức. Laglan nhờ chị Ba dẫn đến hiệu may Joséphine. Cô chủ tèng tèng ở tỉnh lẻ nước Pháp sang Hà Nội bỗng chốc là tâm điểm của các bà đầm già và các cô gái trẻ.
Dù có cảm tình nhưng Lan chưa muốn cưới Laglan nhưng ông ta chăm sóc cô quá tận tình. Buổi chiều đi làm về ở tịt cho đến khuya. Lại còn mang cả bát vào phố mua cháo tim cật. Cô cảm động nắm tay ông ta “Em đồng ý lấy anh”. Laglan nhảy cẫng như con trẻ, cái đầu đập vào xà tre sưng vù. Thế là cưới. Joséphine đi xung quanh ngắm nghía chiếc váy lụa trắng, cổ tròn, hai vai bồng, thân váy có nhiều nếp gấp nhỏ rất cầu kỳ. Joséphine khoe may theo kiểu quý tộc Pháp thế kỷ XVII. Hôm qua, khi thử ở hiệu, Joséphine còn dùng kẹp sắt hơ nóng uốn xoăn mái tóc đen dài cho Lan. Chỉnh xong váy, Joséphine đội lên đầu cô chiếc mũ vải màu hồng có nơ trắng đính phía sau. Đôi giày da trắng nhỏ gọn Laglan đo chân nhờ mua bên Pháp cũng vừa xinh. Lan lộng lẫy như quý cô, khác hẳn với ngày thường làm chị Ba luôn miệng xuýt xoa:
- Ra dáng bà quan tư rồi!
Joséphine lấy gương cho Lan soi, cô thấy mình khác hẳn như chuyện cổ tích. Joséphine móc chiếc đồng hồ quả quýt xem giờ.
- Chú rể qua đón rồi đấy.
Nói xong cô ta bắt Lan đứng nguyên trên chõng.
Vì Laglan theo Đạo Thiên chúa nên phải làm lễ ở nhà thờ. Trước đó mấy tháng, cô học bổn theo ý của Laglan. Thuộc các câu trong Kinh Thánh nhưng cô chả hiểu ý nghĩa. Cô bần thần gần như bất động trên chõng. Hai lần trước theo không, lần này cưới đàng hoàng cũng không dám mời đằng nội, bên ngoại. Cưới mà không ai biết thì cũng là theo không, mới hơn hai mươi tuổi đã ba lần theo giai. Nội ngoại chả ai được miếng trầu, nói gì đến cặp bánh dày có dán chữ hỉ theo tục làng.
- Tốt nhất là giấu kín, họ hàng biết, làng quê biết... yếu bóng vía không chịu nổi đâu... - Chị Ba bùi ngùi chia sẻ.
Thiệp cưới do họa sĩ Tarbets vẽ, có hình một anh chàng cao ngồng trong bộ quân phục khuy cài đến tận cổ bên cạnh một cô gái nhỏ bé, mặc yếm hững hờ, phía dưới hai chữ L và H lồng vào nhau. Ai cũng tủm tỉm khen họa sĩ hóm hỉnh. Thiệp do anh em nhà Schneides, chủ công ty in lớn nhất Bắc Kỳ có trụ sở ở phố Paul Bert in tặng. Hai anh em nhà này quý mến Laglan và cả ba từng ngồi cả buổi bàn về cái ông Molière nào đó.
Chuông xe song mã leng keng, to dần. Joséphine dừng câu chuyện dở dang với chị Ba.
- Chú rể đến rồi, tí nữa chị Ba đỡ dải váy không dính đất bẩn hết.
Laglan ôm bó hoa hồng đỏ thắm cúi đầu sợ cộc khung tre bước vào. Ông ta mặc áo vét, bên trong sơmi trắng thắt nơ đen, ria mép tỉa gọn khác hẳn lúc mặc binh phục. Theo sau là hai người bạn và Dieulefils khệ nệ vác chiếc máy ảnh cồng kềnh. Joséphine đỡ Lan xuống. Má cô hồng lên như sắc đào, lòng cô rộn ràng được giấu bởi vẻ e ấp. Vẻ lạnh lùng hàng ngày biến mất, mặt Laglan bừng lên tràn trề hạnh phúc, ông ta run run trao bó hoa cho Lan rồi hôn nhẹ lên môi cô. Dieulefils đã kịp nhấc tấm vải phủ trước ống kính chụp tấm ảnh hai người hôn nhau. Cả hai tiến chậm ra cửa. Chị Ba đi sau đỡ dải váy, mặt mày hớn hở cứ như cưới em gái mình. Lan xấu hổ bởi dân bán hàng rong chen chúc nhìn cô, lại thêm cả người chờ tàu ùa lại quây kín một đoạn đường. Mồm ai cũng há ra lộ hàm răng đen, mắt không chớp, cảnh tượng như trên trời rơi xuống không phải ở bến sông Cái đông đúc và hôi hám. Họ bước theo cô. Con bé hàng xóm nói với bà bán bún riêu:
- Trông chị ấy như tiên giáng trần bà nhỉ.
- Thật chả nhận ra cô bán gạo. - Bà đế thêm.
Laglan đỡ Lan lên xe, đám đông vây quanh làm hai con ngựa chồm chồm khiến xà ích phải gồng lên ghì dây mõm. Chiếc xe song mã chạy về hướng nhà thờ. Tiếng còi tàu hú lên mấy tiếng, các bà gồng gánh quang sọt lật đật chạy ra bến, trẻ bán nước rong tản ra len vào đám khách mời chào. Xóm trọ vắng vẻ trở lại. Con bé hàng xóm mặt hơi buồn, nó khóa cửa phòng hộ Lan. Chẳng biết nó buồn cho phận mình hay buồn vì không được mua gạo chịu nữa.
Nhà thờ Lớn xây xong chừng năm sáu năm nay. Từ xa có thể thấy rõ hai ngọn tháp cao ngất. Lại còn cả chiếc đồng hồ giờ Tây rất lạ với cô. Dù đã vào đây học bổn song Lan vẫn hơi sờ sợ vì vẻ nghiêm trang và lạnh lùng. Cha Gendreau chứng kiến Laglan trao nhẫn và thề, Lan nhại lại lời chồng. Cô đỏ mặt khi Laglan hôn trước đám đông. Người Tây có vẻ thích hôn nhau trước chỗ đông người. Ngại chết đi được. Xong phần ở nhà thờ, xe song mã chạy về thành. Theo sau có hàng chục xe ngựa và rất nhiều xe tay, hầu hết là người Tây. Tiệc cưới diễn ra tại câu lạc bộ sĩ quan. Ngày thường, nó là nơi họ uống bia và bàn chuyện, từ bình định các tỉnh Bắc Kỳ đến xứ thuộc địa và những câu chuyện phiếm kiểu Pháp. Phục vụ ngoài các bà đầm nạ dòng còn có các cô vợ lính An Nam biết tí tiếng Tây. Cuối tuần, nó trở thành sàn khiêu vũ, chỗ các sĩ quan trẻ tìm gái.
Khách chủ yếu là sĩ quan trong thành và bạn bè của Laglan cùng vợ con họ. Anh bạn làm thợ rèn ở phố Lò Rèn Jardonnet ngày thường lấm lem vì bụi than, rỉ sắt, hôm nay bảnh bao trong bộ vét vải tuýtxi. Jardonnet cùng quê Bordeaux với Laglan. Anh này có nghề rèn ở Pháp, chăm chỉ và thật thà nhưng chẳng có cơ hội nào cho cái nghề quai búa ở đất nước chỉ thích người tài hoặc kém hơn cũng phải biết bông lơn, hài hước. Jardonnets chọn Hà Nội để lập nghiệp. Anh thuê cửa hàng ngay sát bễ của cánh thợ Hà Nội. Chỉ nửa tháng đã quen với dụng cụ thô sơ và thiếu chính xác. Anh ta nhận được khá nhiều hợp đồng làm móc cửa cho các công trình đang xây dựng. Những chiếc móc uốn lượn như hình con rồng anh sáng tạo trông rất tuyệt. Trong đám người Pháp theo chân đoàn quân sang Đông Dương thì Jardonnet còn hơn khối kẻ khác về sự tử tế. Chính tại Hà Nội chả thiếu kẻ vô công rồi nghề, kẻ vừa ra tù muốn tìm một cú làm ăn lớn ở Đông Dương.
Khách An Nam có vài ba người trong đó có Trúc và Bưởi, cậu em kết nghĩa của Trúc đang học tiếng Pháp miễn phí ở Nhà Chung. Còn Kinh lược sứ Bắc Kỳ Hoàng Cao Khải là chỗ quen biết của Laglan. Không mừng đồ như Tây, Trúc và Bưởi mừng tiền, khác ở quê đưa thẳng cho cha mẹ cô dâu hay chú rể, hai người gói vào miếng lụa điều, thắt dải lụa bạch nhỏ. Món quà làm Laglan rất ngạc nhiên. Trúc giải thích:
- Tục mừng tiền là để gia chủ trang trải đám cưới và ai mừng bao nhiêu gia đình cô dâu, chú rể sẽ ghi vào giấy như một món nợ, khi người ta cưới con thì mừng lại đúng số tiền đó.
- Thế thì tôi cũng phải ghi lại. - Laglan đùa.
Đám cưới là dịp các bà vợ người Pháp khoe váy mới từ Paris chuyển sang hay may tại hiệu của cô Joséphine. Các cô vợ An Nam thấp nhỏ không ai diện đồ ta, tất cả đều váy áo kiểu Tây. Những đứa trẻ lai vô cùng đáng yêu chạy lăng xăng. Khi cô Héloire Longuetti cất tiếng hát, bài hát thời thượng ở Paris một thời, cả phòng cưới nhún nhảy hát theo.
Bỗng một buổi sáng mùa xuân, anh khẽ nói yêu em.
Và hoa nở, anh hôn em, gió lướt qua hờn ghen.
Em khe khẽ, yêu anh...
Giọng cô ta lúc cao vút, lúc xuống thấp, có lúc không biết cô lấy hơi bằng cách nào mà ngân mãi mới thôi. Ở Paris chẳng ai biết Héloire là ai nhưng sang Hà Nội, cô được đám quân nhân và các nhà kinh doanh tán thưởng. Tên cô xuất hiện thường xuyên trên những tờ báo tiếng Pháp và phóng viên tờ Le Monde thường trú ở Hà Nội viết bài với cái tít Giọng oanh vàng ở An Nam làm giới ca sĩ ở Paris ghen tị. Họ bực bội cho là phóng viên quá hoang phí từ ngữ. Dieulefils đặt máy ở góc phòng liên tục thay phim. Dieulefils từng là lính của đơn vị Laglan, xuất ngũ anh ta về Pháp cưới vợ rồi đưa sang sinh sống ở Hà Nội. Dieulefils có hiệu ảnh ở đầu phố Pottier sát hồ Gươm [1]. Khách du lịch đến Hà Nội không thể tiếc tiền vì những tấm bưu ảnh xứ An Nam do chính anh chụp và in tráng vô cùng lạ mắt.
Những chai vang Bordeaux đã mở sẵn, bia Hommel ngập các bàn. Món ăn An Nam duy nhất là nem rán vàng chấm với thứ nước mắm pha khéo của bà Tín béo ở phố Hàng Gai. Tiếng Pháp, tiếng An Nam trộn vào nhau như nồi canh rau láo nháo. Vì quân đội Pháp ở Đông Dương lúc nào cũng trong tình trạng thời chiến nên tiệc cưới kết thúc khi tiếng kèn đồng trong thành báo sáu giờ. Từ phòng cưới về nhà khá gần, dãy nhà này do một thầu khoán xây rồi quân đội thuê lại lấy chỗ ở cho các sĩ quan có vợ An Nam. Cũng nằm trong đất thành nhưng đi cổng riêng. Viên chỉ huy bắt làm hàng rào gỗ ngăn cách với khu làm việc, cho mở một cửa thông hai khu và cấm tuyệt đối các cô vợ An Nam qua cửa này vào thành.
Lần đầu tiên Lan leo cầu thang, tiếng giày gõ xuống mặt gỗ cồm cộp. Laglan đi sau nâng váy cho vợ. Tất cả mọi thứ trong phòng đều lạ lẫm, một lọ hoa hồng đỏ rực đặt trên bàn, một cái gương có khung đồng do chính Jardonnet gò bằng tay tặng. Chiếc đèn măng sông sáng trưng. Laglan bừng bừng hơi rượu, loại rượu vang đỏ ngâm trong thùng sồi nhiều năm khi đã ngấm bao giờ cũng làm cánh đàn ông mất kiên nhẫn. Laglan giúp vợ cởi chiếc váy có lẽ nặng đến một yến rồi quẳng xuống sàn. Ông ta ngạc nhiên khi thấy bọc bằng chiếc bánh mì nhỏ che trước chỗ kín của vợ.
- Em treo cái của nợ gì thế này?
Lan ôm chồng:
- Đó là cái bọc để hút thứ bẩn của con gái trong ngày có kinh. Bên trong chứa các vị thuốc nghiền vụn.
Chưa ngủ với đàn bà Pháp nhưng Laglan từng thấy mẹ mỗi khi có kinh đều dùng những miếng vải mềm.
- Thế hôm nay em bị à?
- Ồ không, vì mặc váy trắng nên em đeo túi này cho sạch.
- Bao giờ có triển lãm đồ dùng phụ nữ ở Paris anh sẽ gửi tham dự và anh tin phụ nữ Pháp sẽ rất thích thú đấy. - Laglan hài hước.
Anh ta bế Lan rồi ném lên chiếc giường sắt lót tấm nệm trắng toát. Cô bực mình vì bị ném như món hàng. Thô thiển như gã bán xáo trâu còn biết bế cô đặt nhẹ lên tấm phản khiến cô có cảm giác mình là công chúa trong câu chuyện cổ tích mà bà nội thường kể. Và kẻ quanh năm trên thuyền mành, tự chọn cô đơn trên biển luôn khát thèm như sóng dữ, mãnh liệt như hổ đói nhưng còn biết vuốt ve. Có thể Tây khác chăng?
- Sao anh không tắt đèn?
- Anh muốn hưởng thụ mọi thứ trong ánh sáng.
Laglan cười kéo chiếc áo sơmi lên cổ vội vàng cọ mảng lông ngực vào cặp vú tuy mềm nhưng nhô thẳng khiến toàn thân Lan rung lên và dịu dần như trẻ con được người lớn ru ngủ. Nhìn mắt vợ hơi nhắm, ông ta mới cởi quần áo, cẩn thận treo lên mắc rồi lao vào giường ôm hôn cô vợ bé nhỏ. Ria mép chặn ngang mũi Lan, làm không khí phải len lỏi qua sợi râu mới vào được bên trong khiến cô hơi khó thở. Laglan cà qua cà lại ria mép trên làn da mặt Lan, rồi lại quét nhẹ lông ngực từ dưới bụng lên cổ, xong chuyển từ phải sang trái. Còn bàn tay cầm súng to tướng nhẹ nhàng vuốt hai đùi non, rất nhẹ, rất nhẹ. Hai mắt Lan nhắm hẳn, cô chìm dần vào cõi cực lạc và thiếp đi. Lúc tỉnh dậy cô thấy chồng đã ngủ. Chả biết ông ta có hỏi kinh nghiệm ai không nhưng lần đầu thế là hoàn hảo. Cô gượng dậy ra mở cửa kính, cửa chớp, gió thu ùa nhẹ cô thấy sảng khoái như lần ngủ trên thuyền mành. Bóng tối trùm lên toàn thành, không còn tiếng còi tập đội ngũ.
Chẳng thấy những gương mặt sĩ quan lạnh như đá. Cô vào phòng vệ sinh, thơm tho và sạch sẽ, tự nhiên cô rùng mình nhớ đến những lần đi ị ở bờ đê Lương Xá. Gạch trắng muốt ốp xung quanh, lại có cái dây xích, cô giật thử, nước ào vào cái lỗ làm cô giật mình.
Cô đếm có năm phòng lớn nhỏ, phòng nào cũng riêng biệt. Cô lại tủ quần áo, một nửa là váy may kiểu Pháp, nửa kia là quần lĩnh, áo năm thân khuy hổ phách. Hôm trước, Joséphine ra tận bờ sông đo cho cô, giờ hình hài là đây. Cô lấy một chiếc váy màu vàng như lá mùa thu ướm thử, ra trước gương, xoay bên phải, xoay bên trái chúm chím miệng, đúng như một quý cô. Cô lại thử quần lĩnh, áo năm thân may ở nhà Đức Hạnh và quàng khăn nhiễu điều lại ra dáng quý bà. Hạnh phúc dâng tràn. Rồi cô lại thử cái yếm cổ hình quả tim, chưa kịp thắt dây thì Laglan ôm chặt từ phía sau làm cô giật mình. Laglan luồn tay trong yếm, miếng vải mỏng lúc phồng lúc xẹp khiến anh ta khoái trá. Đó là một đêm không gì tả được đối với Laglan sau hơn chục năm ở Hà Nội.
Nhà có hai hầu gái. Con Nụ “to chân gân mặt, đắt mấy cũng mua” tin tưởng được còn con Thơm thì “lưng chữ ngũ, vú chữ tâm”, chăm chỉ sau này lấy chồng chắc nhiều con. Nụ quê ở Hưng Yên, ra Hà Nội từ bé phụ cho mấy bà bán hoa quả ở chợ Đồng Xuân. Thơm quê tận trong Thanh, từng bưng bê ở quán cà phê Jessica phố Paul Bert. Nụ chuyên bếp núc giặt giũ, cô Ba cũng nhờ bà đầm già trước bán căngtin ở Đồn Thủy dạy nó nấu món ăn Tây. Con bé sáng dạ lại khéo tay chỉ mất chục buổi nó đã nấu được mấy món. Chồng cô khen Nụ nấu sốt vang rất ngon y như mẹ ông ta. Còn Thơm chuyên đi chợ Đồng Xuân mua thực phẩm và ra phố Paul Bert lấy hàng theo hóa đơn mà Laglan đặt. Biết Laglan thích hầu gái mặc váy kiểu Pháp, chị Ba dẫn hai đứa ra phố Hàng Thêu may cho mấy cái. Có lần Thơm bị cảnh sát giữ vì tội mặc váy. Ông này luận tội, váy rất đắt tiền và con gái An Nam làm hầu gái lương thấp, tiền đâu mua nếu không ăn cắp? Thế là Laglan phải viết giấy với nội dung “Tôi là quan tư Laglan ở Sở chỉ huy chiến dịch Bắc Kỳ, cái váy hầu gái đang mặc là do tôi mua cho cô ta”. Vài lần bị hỏi, Thơm đưa cái giấy, cảnh sát phải cho đi. Quyền cảnh sát rất lớn, nếu họ khám xét nhà ai thấy thìa, giày kiểu Tây hay đồng hồ quả quýt chủ mua cho để đi làm đúng giờ cũng phải ghi giấy, nếu không sẽ bị tịch thu và còn bị phạt tù vì tội ăn cắp.
Dãy nhà hai tầng dành cho quan Tây lấy vợ An Nam có hơn chục phòng đã chật kín. Không biết có ý gì nhưng nó khá xa với dãy dành cho sĩ quan vợ Pháp. Mấy tháng ở đây, Lan biết phòng bên trái là của cô Tý quê Hải Dương, chồng là quan ba Febvre, sĩ quan tác chiến cùng Sở chỉ huy chiến dịch Bắc Kỳ với chồng cô. Trước lúc lấy Febvre, Tý thuê nhà ở Ngọc Hà đi lại với một lính Pháp, anh này lương thấp, khi Febvre bám riết, cô đuổi luôn gã kia. Mấy lần Lan chứng kiến Tý nói chuyện với chồng bằng vốn tiếng Pháp lẻ, tiếng An Nam, lại có khi dùng cả tay và cái đầu gật gật như con vịt. Bên phải là phòng của quan ba Dorthy, sĩ quan tham mưu đồn trú ở Bắc Cạn, chồng cô Liễm. Liễm quê Thái Bình, bỏ nhà ra Hà Nội bưng bê cà phê ở quán mụ béo Bérica phố Paul Bert. Thấy cô phục vụ mắt lúc nào cũng lúng liếng, Dorthy cưới ngay sau hai tháng quen biết. Mỗi lần chồng từ Bắc Cạn về, cả dãy nhà rung như đất nổi cơn lôi đình và nếu không có cửa chắc cả thành nghe tiếng rên. Hôm qua Liễm khoe đã có thai khiến Lan tự hỏi không biết bao giờ cô mới thèm của chua. Chồng cô cũng xứng đáng quan tư trên giường đấy chứ. Căn phòng tầng hai cuối dãy là của cô bé lắm lời lúc nào cũng toe toét. Chồng là sĩ quan cấp dưới của Laglan. Cả tầng hai, chỉ mỗi chồng Lan hàm quan tư, về tuổi Lan cũng là đàn chị.
Vào ngày nghỉ cuối tuần, đám chồng Tây hút thuốc lá ở ban công hết bàn chuyện thuộc địa lại sang chuyện uống rượu absinthe ở khách sạn Con Gà Trống. Hết đề tài thì chuyển sang chuyện làm tình với các cô vợ An Nam. “Đúng là đồ đàn ông”, có lần Lan cằn nhằn.
- Bọn anh không còn chuyện nào khác để nói hay sao?
Laglan cười:
- Đàn ông chỉ có thế thôi.
Khi các ông chồng mặc quân phục đến đơn vị thì các cô vẫn còn ngủ gỡ. Và ngày nào các cô cũng tụ tập ở nhà Cầm tán chuyện. Lành giao đứa bé cho con sen, Ngò bế con theo, đứa bé năm tháng tuổi rê cái miệng tìm vú mẹ nhưng Ngò cương quyết nhét bình sữa bò vào mồm nó.
- Chồng em bảo cho ăn sữa Tây, không cho bú sữa mẹ, sợ vú em teo đi trông như mấy bà đầm già, chán lắm.
Ngò giải thích một cách thích thú và ưỡn ngực lên một chút, quả là bộ ngực Ngò to thật, Lan ước cỡ quả bưởi, cô cười thầm “còn thua xa chị mày cô em à”. Lần nào cũng loanh quanh chuyện lương, chuyện chồng sắp được thăng chức hay em sướng đến suýt ngất. Có hôm gọi xe tay ra phố lượn lờ. Đám xe tay rất thích chở các cô vì “me Tây rộng tay, bao giờ cũng sộp hơn lũ đầm già”.
2.Người An Nam có hai cõi sống là trần và âm. Chết nghĩa là họ không còn trên cõi trần nhưng họ sẽ về sống ở cõi âm. Cũng như Thiên Chúa giáo khi người chết, linh hồn siêu thoát lên thiên đàng. Cuộc sống dưới cõi âm chả khác cõi trần. Và hàng năm vào ngày người thân lìa cõi trần, con cháu làm giỗ để mời họ về ăn. Khi ba nén hương trên bàn thờ đã tàn nghĩa là người âm đã ăn xong, lúc đó con cháu, họ hàng mới được phép hạ mâm. Nếu nhà nào không có bàn thờ tổ tiên, không làm giỗ bị coi là bất hiếu, người âm sẽ đi lang thang trở thành ma đói thì nhà họ sẽ lụi bại không ngóc đầu lên được. Lan giải thích như vậy với chồng nhiều lần nhưng ông ta không tin. Vì thế Laglan dứt khoát không đồng ý cho Lan lập bàn thờ. Tủi thân, mấy lần Lan định thuê một gian nhà nhỏ ngoài phố làm chỗ thờ cha mẹ, Laglan lắc đầu.
- Người An Nam giỏi tưởng tượng, với anh chết là hết.
- Anh là người Pháp mà.
- Ồ, một phong tục lạc hậu!
Lan cáu. Đêm ông ta mó vào ngực, cô hất tay ra. Nửa tháng sau cơn giận mới nguội và Lan cũng hiểu, chồng cô đến từ một đất nước khác. Dù không tin nhưng Laglan không cấm đoán còn khuyên cô cứ làm giỗ như phong tục, chỉ có điều đừng làm ở nhà vì đó là nhà công vụ.
Hôm nay cô giỗ mẹ ở hiệu cao lâu. Định đặt cỗ kiểu An Nam, sợ bạn chồng ăn chưa quen nên cô đổi ý chuyển sang món Tây. Phố Paul Bert có vài quán ăn Pháp sang trọng, nhưng họ từ chối cho thắp hương, cô đành ra Hàng Buồm. Vài năm sống ở Hải Phòng cô chỉ nghe nói mà chưa từng ăn cao lâu vì Hồng không đưa đi, còn cô lại chẳng đòi hỏi. Vài lần cô định ăn thử, ngẫm kỹ lại thôi, không biết tiếng Quảng cũng chẳng biết gọi món gì hợp mồm. Về Hà Nội nghe tiếng tăm cao lâu Hàng Buồm và cũng chỉ đi qua. Hàng Buồm có nhiều gia đình khá giả, ngay sau khi đốc lý lệnh cho sở lục lộ phải nắn thẳng các con phố, đào cống thoát nước thải, rải nhựa đường thì lập tức hàng loạt nhà xây mọc lên. Phố không quá dài mà có mấy chục hiệu ăn. Biển quảng cáo bằng sơn then, sơn son chữ Tàu, cái treo dọc, cái treo ngang, thò ra thụt vào lộn nhộn nhưng vui mắt. Lại có cửa hàng treo đèn lồng, phất giấy bóng đỏ dán chữ. Xen lẫn giữa quán ăn là cửa hàng bán ca la thầu, vây cá, xì dầu, đậu phụ nhự, tương Tàu... Buổi sáng, họ bán bánh bao, xíu mại.
Thời Hậu Lê, Hàng Buồm thuộc phường Hà Khẩu, khách trú bám quanh cửa sông Tô Lịch với sông Cái buôn bán [2]. Hà Khẩu quanh năm đông đúc nhộn nhịp vì hàng hóa từ thượng du về, từ Sơn Nam Hạ lên. Năm nước sông Cái lên to, khách trú xin quan phủ lấy đất đá đắp đê ngăn nước lũ để việc buôn bán không ngừng trệ. Những ngày đầu Pháp chiếm Hà Nội, Hoa kiều cung cấp thực phẩm, cho họ nhờ hội quán Quảng Đông để họp và đón tiếp khách khứa vì hậu cần quân đội không theo kịp bước tiến của đội quân viễn chinh. Hoa thương phất lên và họ nhanh chóng nắm cơ hội mở rộng buôn bán. Họ xin giấy phép nhập rượu, thịt bò, bán thuốc phiện ty, mở hiệu hút, sòng bạc. Lính Pháp đến Bắc Kỳ ngày càng nhiều, một số hiệu cao lâu chuyển sang bán đồ ăn Tây, cũng là nơi để nhà buôn đãi đằng quan Pháp.
Lan chọn hiệu Đông Viên, quán nổi tiếng nhất Hàng Buồm. Cô nói trước với họ muốn làm giỗ mẹ ở đây, chủ quán béo ục ịch hề hề nhận lời ngay.
- Ồ, giỗ cha mẹ là việc trọng, cần gì bà cứ bảo phổ ky [3] họ sẽ hầu hạ chu đáo... hề... hề...
Là quán ăn Tây nhưng Đông Viên chả khác quán cao lâu, tầng dưới là bếp đặt ngay cạnh quầy tính tiền. Cả gia đình túm tụm ở gian trong, ban ngày vẫn phải thắp nến. Lan bước lên cầu thang, tường ám khói mỡ đen bóng kéo lên tận tầng hai. Thỏ quay, bít tết, pho mát, xúp củ cải và bánh mì đã dọn lên bàn. Chủ quán sai phổ ky chuẩn bị sẵn lọ nhỏ và ba nén hương trầm. Lan đặt chai rượu vang mở nút, châm hương rồi lầm rầm khấn vái.
Con kính lạy cha mẹ! Con đã lấy chồng mới, chồng con là quan tư Pháp, anh ấy bị mẩn ngứa khắp người khi ngửi mùi hương nên con phải giỗ mẹ ở hiệu ăn. Con hứa sẽ cố gắng làm bàn thờ cha mẹ khi con có điều kiện để không phải thờ dong. Cả đời cha mẹ khổ cực, lúc sống chỉ biết rau tương cà nên hôm nay con đặt mâm cơm kiểu Tây mời bố mẹ. Kính mong bố mẹ tha lỗi cho đứa con bất hiếu.
Khấn xong cô ngồi thừ ra, mắt ngân ngấn nước. Khách cũng chẳng nhiều, có Trúc, vợ chồng chị Ba, anh chàng thợ rèn và hai sĩ quan ở Sở chỉ huy chiến dich Bắc Kỳ mới từ Pháp sang. Nghe Laglan mời dự banquet [4], hai người mua chung một chai champagne góp vui.
Vừa đến nơi, anh chàng cao lêu đêu gọi gia chủ lấy cốc, anh ta mở rất thành thạo. Trúc định ngăn nhưng nghĩ mình cũng là khách nên thôi. Mọi người vỗ tay khi champagne nổ, phọt ra miệng một dòng bọt trắng đục mùi thơm nhẹ. Tiếng chạm cốc lách cách kèm theo những lời chúc sức khỏe. Uống hết champagne, phổ ky mang chai vang đặt lên bàn. Laglan chộp lấy, mặt biến sắc, ông ta xoay chai rượu ngắm kỹ như nuốt từng chữ trên nhãn rồi im lặng nhẹ tay mở và rót một chút ra cốc pha lê. Đúng kiểu dân sành vang. Lắc cho men còn sống vỡ ra Laglan đưa lên mũi ngửi. Ông ta gật đầu hài lòng. Lan kín đáo quan sát thái độ của chồng, cô nối trang trại nho nhà chồng và chai vang, cô hiểu có mối liên hệ nào đó. Bữa giỗ thành bữa tiệc vui vẻ.
Laglan uống nhiều hơn mọi ngày nhưng về nhà, ông ta không huýt sáo vở nhạc kịch Đám cưới Figaro quen thuộc. Cũng không hát một vài câu quốc ca Pháp sau đó bế vợ vào giường. Ông ta im lặng trên ghế. Chai vang chiều nay là của trang trại nhà ông. Để phân biệt với lò rượu khác trong vùng chủ yếu là dân mới đến mua đất lập trại, cụ tổ ông ghi lên nhãn “Dòng họ François đã trồng nho và ủ rượu từ năm 1567”. Trang trại nho nhà Laglan rộng mênh mông, vì thế vào vụ, năm nào cũng phải thuê mấy chục nhân công hái từ sáng đến tối. Công thức và bí quyết từ đời cụ tổ truyền lại nên rượu đời nào cũng giống nhau, người uống tinh sẽ nhận ra đậm miệng nhưng dịu, mùi thơm tươi không phải mùi thơm chết như một số loại vang khác. Những năm mưa nhiều nho kém ngon, theo lệ cha ông không đóng chữ F lên nhãn để giữ tiếng và bán giá rẻ hơn. Rượu nhà ông số lượng có hạn nên chỉ đủ bán ở châu Âu, chả hiểu trời đất xui khiến sao nó lại có mặt ở An Nam. Kể từ khi ông nhập ngũ đến giờ thì cũng là từng ấy năm hôm nay mới được uống rượu nhà.
Cha ông từng nói dòng họ François sống theo hình tam giác, nhà ra đồng là một cạnh, đưa nho vào xưởng là một cạnh rồi từ xưởng về nhà là cạnh thứ ba. Thế mà ông phá lệ. Nhìn chai vang vợ xếp trên bàn ông lo nguy cơ mất chữ F sẽ xảy ra nếu cha ông mất. Lan thấy mắt chồng chớp chớp nhưng ông không khóc, cô chưa bao giờ được nhìn nước mắt của chồng trong hay đục. Cô biết chồng nhớ quê. Lòng vả cũng như lòng sung thôi. Lan tựa vào vai chồng an ủi.
Chú thích
[1] Nay là phố Báo Khánh, quận Hoàn Kiếm. Pottier (1839-1903): Phó thủy sư đô đốc, tham gia xâm lược Nam Kỳ năm 1862.
[2] Nay tương ứng với đầu phố Hàng Buồm, phố Mã Mây, Đào Duy Từ, quận Hoàn Kiếm. Khách trú chỉ người Hoa.
[3] Hầu bàn.
[4] Ăn tiệc.