Chương 4 (tt)
Loanh quanh ở cửa Đông cả buổi sáng, thấy Tây ra ra vào vào, mặt ông nào cũng hằm hằm như ông ác trước cửa đền nên bà Mùng không dám hỏi. Mặt trời ngả sang tây, tiếng kèn trong thành te tí, một anh lính khố đỏ từ ngoài vào, bà bạo dạn:
- Ông quan cho tôi hỏi thăm tí...
Anh lính nhìn bà nhà quê tỏ vẻ thương hại. Bà Mùng khúm núm:
- Tôi có đứa cháu gái tên là Lan, lấy ông quan tư, tôi chỉ biết nó ở trong thành, ông làm ơn chỉ giùm...
- Trong thành có vài chục cô lấy quan Tây, và tôi cũng chả biết tên ai cả.
Hôm về ăn giỗ anh cả, vừa đến đầu làng bà Mùng đã nghe mấy cô đi bắt ốc bóng gió “có cháu làm đĩ chắc thế nào nó cũng gửi ít tiền về làm giỗ”. Một cô đế thêm “thảo nào cỗ to thế”. Hình như những lời bóng gió liên quan đến họ hàng nhà mình, bà lôi ngay đứa cháu gái xuống bếp thì thầm, con bé tường trình đầu đuôi câu chuyện làng đồn con Lan làm đĩ. Đâu như có anh lính khố đỏ làng bên đóng quân trong thành về thăm nhà kể trong bữa cơm có cô bên Bình Thơ mới cưới chồng Tây, cũng chỉ là câu chuyện làm quà vô hại. Rồi chuyện lan sang Bình Thơ. Người rỗi việc bới ra gái làng đi xa chỉ có con Lan. Nhưng chuyện thành to khi bài thơ Đĩ cầu Nôm của ông đồ nào đó ở thành Nam đọc trong bữa rượu suông với bạn bè, thế là họ gắn luôn vào con Lan. Người nọ rỉ tai người kia, từ thầm thì bóng gió đến công khai, thậm chí vỗ mặt cả họ ngoại họ nội. Ông trưởng họ Trần có tí chữ, tức nổ ruột chửi cả làng ngu. Thời Hậu Lê làng Cầu Nôm thuộc Kinh Bắc chuyên đồ đồng, họ đúc từ nồi mười đến nồi sáu mươi đưa về bán ở Sơn Nam Hạ. Thấy vùng này dễ buôn dễ bán, dăm bảy hộ di hẳn về thành Nam mở lò. Hàng làm ra bán ngay tại nhà. Năm này qua năm nọ họ lập ra phố Hàng Đồng bây giờ. Đến thời nhà Nguyễn, vua Minh Mạng chia lại tỉnh thì Cầu Nôm thuộc về Hưng Yên. Thành Nam thiếu gì con gái lấy Tây và làng này chả dính dáng chút nào đến Cầu Nôm sao lại gán cho con Lan, ông giảng giải cho vài hào mục, họ gật gù nhưng về nhà lại phao tin ông bênh con cháu. Mà ông có bênh đâu, ông nói lại tích Cầu Nôm thôi. Biết làng này xưa nay vốn thế, ông quay sang tức tối con Lan và chì chiết cả họ ngoại. Lại cho họp họ cấm nó không được bước chân vào nhà thờ tổ.
Hay nó bỏ lão Hồng đi làm đĩ? Không gần cháu sao bà biết được? Chẳng chịu nổi, bà Mùng muốn tìm nó hỏi cho ra nhẽ nhưng chả biết nó còn ở Hải Phòng nữa không. Một hôm vô tình gặp thằng Thiên chờ đò, nó ghé tai, thế là hôm nay bà lên Hà Nội.
Bỏ đi vài bước, đột nhiên anh lính khố đỏ quay lại.
- Cổng này không vào được, bà theo tôi sang cổng kia.
Mừng quýnh, bà bám theo. Vòng quanh bức tường cao ngất xám xịt sang hướng tây, bà thấy cổng nhỏ hơn. Anh lính dẫn bà vào cổng có lính An Nam, lính Tây gác, xì xồ gì đó với ông Tây rồi quay ra bảo:
- Bà rẽ trái, đến cái nhà hai tầng kia hỏi người ta chỉ cho.
Nói xong anh ta quay ra đi như chạy, chắc vội việc. Sợ ông Tây đổi ý, bà vút qua cổng. Cái nhà hai tầng đây rồi nhưng khốn nỗi phòng nào cũng giống phòng nào mà cửa đóng im ỉm. Đang loay hoay vì chả có ai để hỏi bỗng cánh cửa phòng ngay trước mặt bà hé mở, một cô còn trẻ vươn vai ngáp, cái yếm co lên hở cả mảng da bụng thâm thâm và cái rốn lồi đen vì đọng ghét. Bà rụt rè:
- Bà làm ơn chỉ giùm nhà cháu Lan lấy ông quan tư ở đâu ạ?
Câu hỏi làm cô rốn lồi tỉnh ngủ. Cô ta cười khe khé chắc vì được gọi bằng bà.
- Ở đây không có cô nào tên Lan cả, vợ quan tư chỉ có chị Tư Hồng thôi.
Chợt nhớ chồng thứ hai của nó tên Hồng, bà lắp bắp:
- Vâng, vâng... đúng rồi... ở quê cứ quen gọi cháu là Lan.
Cô gái nhiệt tình dẫn bà trèo cầu thang lên tầng hai. Đi hết các bậc gỗ đen phẳng phiu, cô rẽ tay trái dừng trước cửa phòng, vừa gõ cửa vừa cất giọng chua loét.
- Chị Tư có họ hàng ở quê ra thăm này!
Rồi cô loẹt quẹt đi xuống. Một phụ nữ xinh đẹp, mặc váy đầm mở cửa. Bà Mùng ngờ ngợ. Lan nhận ngay ra dì, mắt cô rơm rớm. Bà Mùng ngạc nhiên vì cháu khác xa ngày còn ở Lương Xá, trông phây phây, dáng vẻ sang trọng xinh đẹp như cô Tấm. Lan bất ngờ trước sự xuất hiện của dì. Bà Mùng nhìn ngó quanh nhà. Toàn đồ đạc lạ lẫm. Bộ bàn ghế uống nước chè bằng gỗ bóng lộn, chỗ để tay vồng lên. Lọ hoa thủy tinh hồng rực những bông hoa to như chén tống đặt trên đôn gỗ. Cái gì cũng sạch sẽ sáng choang, xếp đặt gọn gàng.
- Ai mách mà dì biết cháu ở đây?
- Thằng Thiên, nó bảo cháu lấy ông quan tư nhà ở trong thành.
Lan chau mày, thế là anh ta đã lên Hà Nội, lại biết mình lấy chồng Tây và ở trong thành?
- Lấy chồng mới sao cháu vẫn giữ tên Hồng mà sao lại là Tư Hồng?
- Lúc còn ở với Hồng dưới Hải Phòng, hàng xóm gọi là thím Hồng, chị đưa cháu lên Hà Nội gọi là cô Hồng, vì chồng cháu là quan tư nên chị ấy gọi là cô Tư Hồng... Hồng còn về Nam Định mua lúa không dì?
- Từ đận đó chẳng thấy thuyền lão quay lại Lương Xá. Năm kia có thuyền mành về, dì hỏi thăm nhưng chả ai biết.
Rồi bà dụi mắt. Vừa nói vừa khóc.
- Làng đồn cháu làm đĩ... dì tìm cháu để hỏi hư thực thế nào...
Lan há mồm, mắt trợn tròn, cổ họng nghẹ lại mãi mới nói được:
- Thiên hạ sao ác khẩu thế... Hồng vỡ nợ trốn về nước, cháu lên Hà Nội lấy nhà cháu bây giờ...
Rồi cô bậm môi, hay Thiên tung ra tin đó để trả thù? Mà cô có lừa đâu, chỉ tại anh đẩy cô vào tình thế phải nói dối.
- Có phải thằng Thiên nói ra không?
Bà Mùng lấy vạt áo chấm nước mắt lắc đầu. Cô biết cái làng hình vỉ ruồi xưa nay vẫn thế. Gột tiếng oan chả dễ tí nào. Thanh minh họ lại càng suy diễn.
Đưa dì ra bến tàu thủy, Lan tính về quê. Về mà chú Sáng và thằng Lân giận quá không cho vào nhà lại thêm chuyện để làng đàm tiếu. Lan bảo xà ích quay lại thành. Làng quê hiện ra trong nước mắt. Nhớ bà kể hồi cụ ngoại đến Bình Thơ, dân làng họp lại nhất quyết không cho vào xóm, bắt ở ngoài trại. Thuế thân vẫn thu nhưng lại cấm lễ đình, lễ chùa, ba năm sau cụ mới được làm đinh có tên trong sổ. Hà Nội đâu có thế, nói chung là đất tử tế, ai đến cũng được, ai đi cũng được chẳng ai phàn nàn, họ chỉ coi thường kẻ thất đức. Cô cũng chỉ là con đàn bà mà đàn bà thì phải lấy đàn ông, lấy ai lo được cho mình, mình dựa được. Đàn ông An Nam không đoái hoài, không lấy Tàu, lấy Tây thì cái ấy để mốc sao? Mà cứ gì phải lấy chồng An Nam? Chấp một con đàn bà lấy Tây họ chả hơn con đàn bà đó. Làm đĩ tiếng xấu để đời nhưng cô không làm đĩ nên cũng chả chấp họ nhưng đau đớn là họ bảo cô lấy thực dân. Đúng như chị Ba bị làng rủa. Lại còn bị khinh bỉ, xa lánh. Các em giai chị không lấy nổi vợ trong tổng phải rời làng, lấy gái thiên hạ. Cha mẹ chị già không đi được đành ở lại, mỗi lần ra khỏi nhà, ông bà lấy giẻ nút lỗ tai. Họ hả hê khi làm người khác đau đớn. Lan thấy thương chú và tội nghiệp thằng Lân, chả làm gì nên tội mà phải gánh tất cả. Trai làng lờ nó đi, cả những đứa cùng chăn trâu cắt cỏ cũng xỏ xiên móc máy. Chắc nó càng hận chị lắm. Lan muốn đưa nó ra Hà Nội để tránh xa thị phi nhưng ra thì ở đâu, không thể lấy tiền của chồng thuê nhà cho nó, mà biết nó có nghe không? Hết thương em lại thương dì, lúc nào cũng lật đật vội vàng. Chỉ biết miếng thịt vào ngày giỗ ngày Tết. Lan thấy có bức tường lù lù chắn trước mặt mà phía sau thì đàn chó dại đang ào ào xông đến.
4.
Lan rất cần chồng ở bên cạnh, chưa bao giờ cô trống trải, mất tinh thần như thời gian này nhưng Laglan đi Quảng Yên, hôm nay là ngày thứ ba. Vừa thức giấc, chán chường và đau đớn lại ùa đến, không chịu nổi, cô sai con Thơm mua ba chai rượu mùi. Loáng một cái nó đã về. Mở nút chai, cô tu ừng ực. Hai hầu gái nhìn nhau chẳng hiểu chuyện gì vì chúng chưa bao giờ thấy bà chủ uống rượu kiểu này. Con Nụ nhanh nhảu:
- Thưa bà, bà uống thế thì say chết ạ...
- Tao đang muốn chết đây!
Đêm qua, nó thấy bà về nhà với cái váy ướt sũng. Nó không hiểu nổi. Uống hết một chai, Lan mở chai thứ hai. Con Thơm mở cửa định ra ngoài, Lan quát:
- Tao cấm mày nói với ai!
Nó len lén vào. Lan lại tu như phu khát nước. Hết chai thứ ba, Lan vật ra sàn, mắt nhắm nghiền. Mỗi lần cô nấc, nước lẫn thức ăn từ trong mồm tự trôi ra. Hai đứa vội bế cô lên giường, thay áo.
Tỉnh dậy trời đã xâm xẩm, Lan thấy đầu nặng trĩu. Định vớ tích nước uống thì Laglan mở cửa bước vào. Nhìn vợ mệt mỏi như lính tập, đầu tóc bù xù, mùi rượu xông nồng nặc Laglan hoảng hốt. Vốn quen với bộ mặt lúc nào cũng tươi tắn, tóc mượt mà nằm gọn trong khăn nhung màu thiên thanh, hừng hực sức xuân, Laglan chạy lại ngay bên vợ. Từ lúc trai trẻ cho đến hôm nay chỉ khoác áo quân nhân nên Laglan chẳng hiểu nhiều về đàn bà. Rành rẽ chuyện giường chiếu nhưng việc không biết ngóc ngách tâm hồn cô vợ An Nam luôn làm ông phát điên. Hẳn phải có chuyện gì đó rất kinh khủng. Laglan ôm vợ vỗ về. Giọng Lan khàn khàn đầy ghen tị.
- Sao em chẳng bao giờ thấy anh đau khổ?
- Đau khổ hay vui vẻ do chính mình, anh vượt mấy ngàn cây số sang đây đâu phải để đau khổ...
-... Em muốn anh ra khỏi quân đội và đưa em về sống ở Pháp...
Gần hai chục năm trên xứ An Nam chỉ có hai lần ông hối tiếc, đó là lần quân Cờ Đen bao vây khu lãnh sự Đồn Thủy, “tại sao mình lại rúc vào xứ sở này và tự treo số phận lên cây làm bia cho đám lục lâm thảo khấu” và lần thứ hai khi đơn vị bao vây nghĩa quân Bãi Sậy, trong bóng tối đen đặc, “trước mặt là họ nhưng sau lưng cũng là chiến trường”. Sao Lan muốn mình ra khỏi quân đội? Hay vợ ông bị điều tiếng bao vây và tấn công liên tiếp khiến cô không chịu nổi? Laglan chợt nhớ nỗi khiếp sợ của các cô qua những lời kể của người Pháp lấy vợ An Nam. Để làm vợ ông Tây râu xồm, họ phải vượt qua chỉ trích cay độc từ họ hàng, xóm giềng và đồng bào họ, có người không thắng được bản thân đã tìm đến cái chết. Laglan hiểu người An Nam có lòng tự trọng rất cao, họ không sợ chết nhưng ông không hiểu nổi sao họ lại có thể chết vì một câu nói. Laglan muốn đưa vợ ra khỏi bốn bức tường nhà, ông dỗ vợ đi chơi phố.
Hai chiếc xe tay chạy song song trên con đường quanh hồ Gươm sắp hoàn thành. Phía bắc hồ, người ta đang đặt những đoạn ray đầu tiên làm đường tàu điện. Cô nhìn thấy cây đa, chính chỗ đó cô đã lội xuống hồ quyên sinh đêm qua. Lúc đó trong đầu cô như có hàng trăm ngón tay chỉ thẳng vào mặt rỉa rói “con đĩ, con bám đít thực dân”. Và mặt thằng Lân hiện ra nặng như thúng đá, cô tưởng tượng nhà gái ném trả cau và chè vào mặt nó kèm theo lời thóa mạ “có ế cũng không gả cho giống nhà đĩ”. Nước ngập đến ngực, cô định bước thêm bỗng có hai cánh tay ôm ngang bụng bế vào. Cô giãy giụa vừa kêu một tiếng ối lập tức một bàn tay to cứng bịt chặt mồm. Thêm hai đứa nữa xông lại. Một thằng giật cái dây chuyền trên cổ. Thằng kia đang cởi thắt lưng thì tiếng giày cảnh sát chạy rầm rầm trên bờ. Ba thằng buông cô ra nhanh chóng vọt ngay vào vườn chuối phía trên phố Pottier. Cô run rẩy kêu không thành tiếng. Cảnh sát lao xuống nước, họ dìu cô lên bờ. Theo tay cô chỉ, họ chạy vào vườn chuối. Nhìn cách ăn mặc, họ đoán ra thân phận cô, hỏi han rất tận tình và đưa về tận nhà.
Laglan đưa vợ vào khách sạn Con Gà Trống vì đêm nay ở đó có khiêu vũ. Ông muốn gợi lại kỷ niệm hai người nhảy với nhau trong ngày sinh nhật ông. Tiếng nhạc nổi lên, cô thấy có chút phấn chấn. Cô dựa vào vai ngước mắt nhìn chồng. Laglan xoa má cô, ông biết tâm trạng vợ đã khá hơn.
Con người đầu tiên phải sống cho bản thân, mình yên ổn thì người thân chẳng phải lo cho mình và người thân yên ổn mình cũng không phải lo cho họ. Không thể dễ dàng chết vì những lời bêu riếu chả đến mức làm chảy máu con tim khi mỗi người chỉ có một lần sống. Thách thức luôn chờ đợi ở phía trước và ai vượt qua mới được gọi là con người. Laglan liên tục nói như vậy. Điều đó khác hẳn với cách nghĩ từ nhiều đời nay ở quê cô, thay đổi chẳng dễ dàng nhưng dù sao cô thấy chồng cô có lý. Ở đất Bắc Kỳ, đâu chỉ có mình cô lấy chồng “thực dân”. Cô cũng hiểu thêm chẳng phải làng nào cũng nghiệt ngã như dân làng cô hay làng chị Ba.
Cô ngoan ngoãn theo chồng đến rạp Takou [1] và Hội Âm nhạc [2] nghe các nghệ sĩ từ Pháp sang đánh đàn rồi gân cổ hát. Có lúc cô lo họ đứt cuống họng. Cô hài hước, nếu bố còn sống nhìn cái cuống họng ấy chắc ông ước đánh được mấy bát tiết canh. Đi vì ở nhà cũng chẳng có việc gì dù cô không hiểu nổi tại sao đám khán giả Pháp phát cuồng, vỗ như muốn nát bàn tay. Cô muốn làm cái gì đó lớn hơn chuyện ngồi giãi thẻ bán gạo, lớn hơn cả mức lương gần hai nghìn đồng của chồng. Thành phố này đang thay đổi, người Pháp bắt nó chuyển động. Khu phía đông hồ Gươm, ngày cô từ Hải Phòng lên mấy tòa nhà còn đang xây móng nay giáo tre đã cao ngất. Dãy nhà lá sát hồ thò ra thụt vào bị chính quyền thành phố thuê côn đồ phóng hỏa nay là dãy nhà xây thẳng tắp. Phía nam hồ Gươm, ao hồ mất dần vì ngày nối ngày, hàng trăm xe cút kít đổ đất san lấp. Biệt thự mọc lên trên phố Rollandes, phố Gia Long [3]. Bến tàu Cột Đồng Hồ trước mặt nhà cô từng thuê ùn ùn thuyền mành chở đá từ Kẻ Sở về, xếp đầy mặt đê chờ phu chuyển đi các công trình. Phố Paul Bert nhà ken nhau. Hà Nội không lem nhem, đã ra dáng phố kiểu Pháp. Sao lại không làm gì đó? Ý nghĩ cứ lớn dần trong đầu và không chịu nổi, cô nói với Laglan:
- Em muốn mở công ty thầu khoán.
Laglan bỏ bàn tay lông lá ra khỏi bầu vú của vợ nhỏm dậy.
- Em phải biết em chỉ là một cô bán gạo, nói như người An Nam em buôn thúng bán mẹt. Ngay cả gia đình có truyền thống buôn to bán lớn có ai dám mở công ty đâu? Chỉ có người Pháp và người Hoa mới dám lập công ty, làm ăn lớn vì họ biết tính toán, có quan hệ.
Lan bật dậy, khoác tấm đắp mỏng lên người, để lộ ra cặp vú ương bướng.
- Vì thế em mới mở công ty.
- Nhưng đàn bà chỉ có hai chỗ, trên giường và trong bếp.
- Thì các bà, các cô làm nghề đổi bạc ở phố Hàng Bạc, bán hàng nhập khẩu ở phố Bát Sứ, ngày kiếm tiền, tối họ vẫn ở trên giường, họ vào bếp, vẫn sinh con đấy thôi... Em nghĩ mình đủ sức làm được.
- Họ làm ăn nhỏ lẻ, đóng thuế môn bài theo diện tích cửa hàng, còn mở công ty thầu khoán phải biết cách làm cho nó sống.
- Anh đi tàu biển từ Pháp sang Đông Dương là nhờ trước đó có những con tàu mở đường, em muốn như họ. - Lan cương quyết.
- Anh tôn trọng mong muốn của em nhưng anh không thể đồng ý để em kinh doanh, lương anh thừa cho gia đình chi tiêu. Ngay cả khi về hưu cũng đủ nuôi em và mấy đứa con. Anh muốn có con và em ở nhà chăm chúng.
Lan không bất ngờ khi Laglan cấm đoán, ông ta đã thỏa thuận với cô trước khi hai người cưới nhau, việc của cô là ở nhà và đẻ con. Nghe chồng nhắc đến con cái cô bỗng lo lắng, đàn bà không có con là vô phúc.
Chẳng biết nước Pháp có quan niệm như An Nam “Bất hiếu hữu tam, vô hậu vi đại” [4] không?
Và cô cũng khó hiểu sao cô chưa có thai. Tại sảy nên khó có con chăng?
Nhân Laglan đi kiểm tra trại huấn luyện ở Bắc Giang cô tìm đến cụ lang Phiến ở phố Phúc Kiến [5]. Lang Phiến người Minh Hương, từ Trung Hoa sang định cư ở An Nam đời Hậu Lê. Cụ rành y lý số và là người tâm phúc. Bắt mạch xong cụ hỏi:
- Trước đây bà từng uống thuốc Bắc?
Lan quá bất ngờ, sao cụ lại biết? Chỉ có bà cụ và anh xe rõ chuyện này.
- Thưa cụ cháu có uống, nhưng cách đây đã lâu...
Cụ bắt lại mạch lần nữa rồi chậm rãi:
- Thuốc bà cắt không phải ở Hà Nội.
Lan tái mặt. Cụ là ma chứ không phải là người.
-Thưa cụ, ở Hải Phòng... cháu không tự đi bắt mạch bốc thuốc, thời gian ấy cháu sảy thai, có bà cụ cắt hộ và đích thân cụ đun cho uống.
- Nghề thuốc chẳng ai muốn phũ phàng với người bệnh... nhưng bà không thể sinh đẻ được...
Lan hoảng sợ, giọng run run:
[4] Trong ba cái bất hiếu thì không có con nối dõi nặng nhất.
[5] Thời Nguyễn, phố này hầu hết là dân tỉnh Phúc Kiến, Trung Quốc di cư sang, nay là phố Lãn Ông, quận Hoàn Kiếm.
- Nguyên do là sao thưa cụ?
- Về tướng, mắt bà không thuộc loại “nhãn hạ vô nhục”, không dài và nhọn, tai bà không khô, nhân trung bà không mờ nhạt nên đường con cái hoàn toàn bình thường. Dù từng bị sảy nhưng vẫn có thể đậu được quả. Đàn bà hiếm con đâu chỉ tại đàn bà, tôi chưa biết mặt ông nhà nên không thể nói gì được. Về y thì mạch của bà nhanh hơn bình thường, thân nhiệt lúc nào cũng nóng, cái nóng này không phải do thận mà vì dương khí tràn trề. Khi dương khí mạnh sẽ làm ung hết trứng, dương khí của bà mạnh không phải do bà sinh ra đã thế, do bà uống thuốc, cây để làm ra vị này chỉ có trên núi rất cao.
Lan nói như van:
- Lạy cụ cắt cho cháu thuốc giải chất độc đó đi...
cháu xin cụ... cụ cứu cháu...
Cụ lang lắc đầu:
- Tôi rất muốn giúp bà, phàm những ai đã uống vị đó xem ra chỉ có thánh mới chữa được...
Lan lặng người vì đau đớn. Bà cụ kia cố tình hại cô hay ông lang bốc nhầm thuốc? Không có chuyện bốc nhầm. Chắc chắn bà ta yêu cầu cắt như thế. Nhưng ai đứng sau bà ta? Hồng hay vợ ông ta? Giời bắt tội cô đã đành nhưng Laglan đâu có lỗi, sao lại cướp quyền làm bố của ông ta? Các câu hỏi cứ đảo lộn trong đầu cô.
Laglan nghĩ vợ chơi trò trốn tình, trò mà vợ chồng ông hay chơi để gây hứng thú trước khi đóng cửa phòng, ông lục lọi khắp các góc mà vẫn bặt hơi. Lại thấy hai hầu gái mặt mày nhớn nhác, Laglan hỏi, con Nụ ấp úng:
-Thưa ông... bà bảo bà đi vắng... không thấy bà nói đi đâu...
Laglan biết cô vợ An Nam lại gặp chuyện chẳng lành. Ông mở tủ, váy áo vẫn nguyên, hộp nữ trang vẫn đủ vòng vàng. Từ hôm Laglan cấm vợ không nói chuyện mở công ty ông thấy Lan có dấu hiệu khác thường, trầm hơn, hờ hững lúc ân ái như chiều cho xong. Nhưng bấy nhiêu chưa đủ lý do để Lan bỏ đi. Có thể là sự cố khác. Đoán Lan chưa ra khỏi Hà Nội, ông gọi xe ngựa sai đưa đến nhà cô Ba. Đến nơi hầu gái thưa vợ chồng ông bà chủ đi Hải Phòng. Laglan bảo xà ích quay xe ra phố Bờ Sông tìm Trúc. Trúc lắc đầu:
- Tôi tin Lan vẫn quanh quẩn ở Hà Nội... chắc cũng chẳng thuê nhà trọ... có thể cô ấy sẽ ở một ngôi chùa nào đó vì chùa thường là nơi tá túc cho những người bất hạnh tinh thần và các nhà sư lại rất độ lượng, bao dung.
- Nếu đúng như anh đoán thì theo anh, vợ tôi sẽ ở chùa nào?
Trúc lại lắc đầu. Hà Nội có hàng trăm ngôi chùa, làm sao anh biết Lan ở chùa nào. Xe ngựa chở Laglan loanh quanh thành phố. Ra gần đền Bà Kiệu chợt gặp Dumoutier, ông này từng là trợ lý của Tổng trú sứ Paul Bert, giúp ông ta lập ra Viện Hàn lâm Bắc Kỳ. Dumoutier am hiểu Nho giáo và chùa chiền Hà Nội, báo Tương lai Bắc Kỳ vừa đăng tin ông mới xuất bản cuốn sách Những ngôi chùa Hà Nội. Laglan quen ông ta qua một người bạn. Nghe chuyện, bất ngờ Dumoutier oang oang:
- Sáng nay vào chùa Linh Ứng ở làng Hương Viên tôi nhìn thấy một cô gái xinh xắn, nghe sư cụ nói cô ta gặp trắc trở nên vào chùa xin làm ni cô, tôi không dám chắc có phải bà nhà không.
Chả biết chùa Linh Ứng chỗ nào, Laglan đành khẩn nài Dumoutier dẫn đi. Ông ta vui vẻ nhận lời. Chiếc xe ngựa chạy xuống đại lộ Gia Long mới mở, hai bên đã trồi lên những ngôi nhà xây lợp ngói báo hiệu một tương lai sầm uất cho đại lộ này. Hết đoạn đường tốt, Dumontier bảo rẽ vào con đường đất, chừng dăm chục thước cổng chùa hiện ra ngay trước mặt. Laglan nhảy xuống chạy thẳng vào trong, ông choáng thực sự khi nhìn vợ trong bộ quần áo nâu đang chắp tay lẩm nhẩm đọc kinh theo một nhà sư cao tuổi. Tĩnh lặng và quá trang nghiêm sau tiếng mõ, chỉ cần thầm thì cũng xúc phạm không khí thành kính. Laglan đành đứng ngoài nhìn vợ và chờ đợi.
Từ hôm ở chùa về Laglan nhận thấy vợ ông chưa trở lại bình thường, vẫn hờ hững và nhạt nhẽo trên chiếc giường lò xo luôn khơi gợi. Cô ta còn đe dọa sẽ tự thuê cửa hàng, tự buôn bán nếu ông không cho mở công ty làm ông ngỡ ngàng.
- Em không muốn xa anh nhưng em không thể ăn không ngồi rồi.
- Thì các cô hàng xóm đều thế cả, có ai phàn nàn đâu?
- Anh có giống cha anh không?
Laglan đã tìm thấy một nửa câu trả lời. Ông trở dậy mở chai rượu vang rót ra cốc nhấp từng ngụm. Lời lang Phiến làm nhức nhối ruột gan Lan. Sinh con là hạnh phúc của phụ nữ, không còn khả năng ấy Lan buồn cũng dễ hiểu. Nhưng tại sao Lan lại tin vào thầy lang khi ông này chỉ bắt mạch rồi phán? Có lẽ ông xin nghỉ phép đưa cô về Pháp khám bệnh. Việc Lan bỏ vào chùa để giải thoát cho ông chứng tỏ Lan lo lắng cho tương lai ông. Nhưng trăn trở lớn nhất của cô ta là ông không cho mở công ty. Cô ta chỉ là cô gái quê, từng buôn bán nhưng cũng chỉ thu tiền trinh. Mở công ty rất dễ, thành công mới khó, tiền mất thì thôi mà thất bại sẽ thêm cú đánh vào đầu, lúc đó thế nào? Không đồng ý, ông chẳng biết Lan còn làm trò gì. Có lẽ đành chiều theo ý cô ta. Biết đâu thất bại có thể làm cho Lan mở mắt và khuất phục. Mở công ty phải có nhiều tiền mà cái ví của ông lại mỏng.
- Vốn ở đâu mà mở công ty?
Nghe chồng nói Lan phấn khích. Công ty của anh em nhà Guillaume ban đầu chỉ có hai nhăm đồng mà bây giờ họ có tới bảy mươi chiếc thuyền mành với sức chứa vài chục tấn. Ngày nào thuyền của họ cũng cập bến cấp đá cho các công trình đang xây ở Hà Nội. Anh em nhà này còn có đồn điền cà phê hơn ba nghìn gốc ở Ninh Bình. Chưa hết, họ nuôi bò, nuôi dê vắt sữa làm bơ, pho mát bán cho các nhà buôn đồ Tây ở Hà Nội và khắp Bắc Kỳ. Nếu có hợp đồng, ngân hàng họ sẽ cho vay vốn. Cô biết kỹ như vậy vì các câu chuyện tại những quán cà phê phố Paul Bert cứ tự nhiên chảy vào tai. Ngồi một buổi có thể biết hết mọi thứ, từ lương bổng, váy áo đến những kêu ca hầu gái vụng về. Phụ nữ Hà Nội buôn bán còn phụ nữ Pháp sang đây buôn chuyện, gặp họ không cần hỏi, tự họ sẽ vanh vách. Người lịch sự chắc ướt hết đũng quần vì câu chuyện mãi không dứt.
- Vốn ban đầu chả cần nhiều, mình có hợp đồng, ngân hàng tự tìm đến cho vay.
Laglan bất ngờ với câu trả lời của vợ.
- Em moi đâu ra hợp đồng?
- Anh là quan tư hậu cần, anh phải biết đơn vị nào cần cái gì, hợp đồng là ở anh và bạn anh.
Lan nói đúng, từ ngày quân đội Pháp đến Hà Nội rồi đồn trú khắp Bắc Kỳ, ngoài một số hàng hóa do chính phủ cung cấp, còn lại đều nhờ Hoa thương. Chính ông nhiều lần ký các hợp đồng trong thẩm quyền với họ.
- Nhưng em là vợ quan tư hậu cần, cánh quân nhân sẽ ồn ã anh giành hợp đồng cho gia đình...
- Cả gia đình cấp trên của anh đi nghỉ mát ở Đà Lạt, ông ta bỏ tiền túi ra chắc?
Câu nói của vợ làm ông đớ ra, đúng là ngài đại tá và gia đình đi nghỉ ở Đà Lạt thật. Cùng làm việc với ông ấy nhiều năm, Laglan biết rõ một người có ý thức thu vén. Chắc ai đó đã thì thầm cho Lan. Laglan gật gù hiểu ý vợ.
- Hàng hóa lấy ở đâu?
- Không hiểu sao quân đội lại phong anh chức quan tư. Chủ lò giết mổ lớn nhất Hà Nội là Daniel Besnhard và Eugéne Koeningan anh rể ông ta, họ sẵn sàng cung cấp các loại thịt, còn đồng ý cho trả chậm với điều kiện mua của họ đều đặn. Bơ và pho mát lấy của anh em nhà Guillaume, rau củ đã có trang trại của ông Duvillies ở lưng chừng núi Tam Đảo. Cái gì quân đội cần ở Hà Nội có hết.
Laglan có mối quan hệ rất tốt với ngài đại tá đồng hương, cứ đúng giá quân đội đưa ra chắc ông ta không nỡ từ chối. Laglan ôm vợ như lời cám ơn vì đã khai mở cho mình những uẩn khuất trong kinh doanh ở xứ thuộc địa.
- Anh đồng ý cho em lập công ty nhưng chúng ta nên rõ ràng, anh sẽ cho em vay không lấy lãi làm vốn ban đầu. Anh cũng góp một phần để ràng buộc trách nhiệm.
Nghe chồng nói Lan không vui, thời gian sống với Hồng, cần vốn buôn gạo, ông ta móc túi đưa luôn, không nói của cô hay của tôi. Thậm chí nghèo khó như Hà ở với nhau thì mọi thứ trong nhà là của chung. Lan không ngờ Laglan sòng phẳng như người ngoài. Ngẫm đi ngẫm lại, cô không trách chồng vì có thể xứ Tây là như vậy.
Chú thích:
[1] Rạp được một người Hoa xây năm 1883, ở đầu phố Takou, đây là rạp đầu tiên ở Hà Nội. Các đoàn nghệ thuật từ Pháp, từ Quảng Đông sang biểu diễn đều phải thuê rạp này. Mùa hè có trẻ con ngồi kéo quạt bằng tấm liếp. Nay là trường tiểu học Thanh Quan, phố Hàng Cót.
[2] Rạp hình thành năm 1888, dùng làm nơi biểu diễn âm nhạc cả chuyên nghiệp và nghiệp dư. Sau 1954 đổi thành rạp Hòa Bình, chuyên chiếu phim, nay là Nhà hát múa rối nước Thăng Long.
[3] Rollandes: Nay là phố Hai Bà Trưng. Phố Gia Long: Còn có tên khác là phố Hàng Giò vì đầu phố này có nhiều gia đình làm giò chả, nay là đoạn đầu phố Bà Triệu. Cả hai nay đều thuộc quận Hoàn Kiếm.