← Quay lại trang sách

Chương 5

Xem hết các loại giấy tờ, mặt viên thư ký tòa không lạnh như lần trước, trông tươi hơn.

- Bà đã đáp ứng đúng yêu cầu của Tòa đốc lý. Ba ngày nữa mời bà đến nhận giấy phép. Xin chúc công ty của bà thành công, phát đạt. Cám ơn bà đã đóng góp cho ngân khố thành phố. Nhưng tôi cũng phải thành thật với bà rằng, nếu trốn thuế dù bà là vợ ngài quan tư chúng tôi cũng đưa ra tòa xử theo pháp luật.

Lan chỉ cười. Lúc đầu, cô lấy tên công ty là Laglan và Lan nhưng chồng cô không chịu vì ông ta là quân nhân đang phục vụ nước Pháp. Ai cũng gọi cô là cô Tư Hồng nên cô đặt là Tư Hồng An Nam công ty, Laglan đồng tình. Tờ Bắc Kỳ Độc Lập đăng tin cô lập công ty ngay dưới măngsét. Và ngay lập tức tin loang ra khắp thành phố. Cánh chủ nhỏ không hiểu Lan làm trò gì, còn các bà các cô buôn bán thầm phục. Đám đầm già thì bàn tán gièm pha, “Để xem cô ta làm ăn thế nào nếu không nhờ vào uy thế của ngài quan tư”, “Đàn bà An Nam sao tham vọng lớn thế”, “Ồ, đó là câu chuyện chưa có hồi kết, hãy uống vang chờ xem báo đăng công ty của cô ta giải thể và ngân hàng xiết nợ gian nhà công vụ của ngài Laglan”.

Người Pháp ở Hà Nội đông hơn ở Hải Phòng, họ không gắn kết như người Quảng Đông hay Phúc Kiến. Họ chơi theo nhóm, thi thoảng thăm viếng và tổ chức ăn uống vào cuối tuần. Nhà Lan mấy lần tổ chức tiệc tùng, chẳng khó để cô nhận ra đàn bà Pháp còn mượn oai chồng trang điểm cho bản thân. Mặc lời bàn tán, Lan nghĩ trước mắt cô còn nhiều việc phải lo.

Qua bạn bè, chồng cô tìm được một viên ký lục từ Nam Kỳ ra. Anh này giỏi tiếng Pháp, thạo việc vì từng làm cho vài công ty ở Sài Gòn. Trách nhiệm của ký lục là lên kế hoạch thu gom hàng hóa, thời gian biểu cung cấp, tính toán thu chi và giao dịch ngân hàng. Lan có nhiệm vụ đốc thúc các nhà cung cấp giao hàng đúng hẹn, tổ chức phương tiện chuyên chở. Cô phải thuê thêm mấy người phụ việc làm chân chạy. Giá có thêm chú Sáng, thằng Lân và dì Mùng thì tốt biết bao. Cô sẽ trả tiền công cho họ tự thuê nhà, như thế rạch ròi với Laglan và mọi người cũng không mang tiếng cháu nuôi. Dì Mùng dễ nói hơn và chắc chắn đồng ý còn thằng Lân và chú Sáng chả biết có nghe không...

* * * * *

Laglan bế thằng bé con cô Ngò, nó mặt dài, mũi cao giống bố nhưng tóc đen giống mẹ còn đôi mắt thì giống mỗi người một nửa. Hốc mắt không sâu hoắm như bố mà cũng chẳng nông choèn như mẹ. Laglan thở dài và chợt nghĩ đưa Lan vào bệnh viện Lanessan, biết đâu họ tìm ra nguyên nhân.

- Em cũng định bảo anh từ lâu...

Lanessan là Toàn quyền Đông Dương, trước khi tham gia chính trị ông là thầy thuốc. Ông có nhiều công lao lập ra bệnh viện này nên chính phủ Pháp đồng ý lấy tên ông đặt cho bệnh viện. Lanessan là bệnh viện của quân đội nhưng họ cũng khám chữa bệnh cho vợ con quân nhân và cả thường dân Pháp ở xứ Đông Dương.

Trực tiếp khám cho Lan là ông bác sĩ già mới từ Paris sang. Lịch lãm, hóm hỉnh, ông này chấp nhận sang xứ thuộc địa với hy vọng lương cao sẽ trả món nợ mà khi ly dị ông không đủ đền bù cho cô vợ “vừa xấu vừa đanh đá” như ông kể. Và hôm nay, vợ chồng cô trở lại lấy kết quả.

- Tôi không có ý định làm tổn thương ông bà... tuy nhiên những xét nghiệm cho ra chất rất lạ mà tôi tra trong dược điển không có...

- Thưa ngài, chất lạ ấy tác động gì đến chuyện sinh đẻ? - Laglan hỏi.

- Tôi sẽ gửi mẫu về Paris nhờ phòng hóa dược phân tích. Và chỉ có thể trả lời ông bà khi biết thành phần hóa học của chất đó thế nào. Mong ông bà thông cảm.

Sau đó là những ngày buồn lê thê và một tối Laglan thống nhất với Lan, nếu không thể có con, cả hai sẽ nhận con nuôi.

* * * * *

Lân ngồi nghỉ bên vệ đường, bụng cồn cào vì chưa có gì bỏ vào bụng. Nó nhớ lúc bé tí tẹo, hôm thiếu gạo cơm ít, bố mẹ dành cho hai chị em nhưng chị Lan lại san sang bát nó. Còn vặt trộm ổi xanh nhà bà Cách để nó độn thêm vào cái dạ dày còn lép. Không có chị, bây giờ nó vẫn nai lưng làm trừ nợ cho nhà Lý Tung. Chuyện làng bàn tán nó đau nhưng nhất quyết chả tin, họ nói họ nghe, động viên mình vậy mà nhiều đêm nó không cầm được nước mắt, lấy ai là quyền chị nó sao thiên hạ cứ chõ mõm thối vào? Sao họ cứ cho mình tử tế hơn người khác?

Mấy đêm nay nó thở dài, trở mình suốt đêm. Nó và con bé cuối làng đã cắn ý nhau. Con bé kém nó bốn tuổi, da đen, mặt vuông như gạch lát sân đình nhưng bù lại người chắc da căng như mặt trống cái mùa khô. Hai đứa gặp nhau ngẫu nhiên tại ao Dài giữa đồng. Con bé mò ốc còn nó đánh dậm. Đen cho con bé hôm đó giời lạnh, ốc không bám vào thân thủy trúc, cũng không rúc vào rễ bèo, tụt hết xuống đáy nên mẻ nào nhấc cái rổ xồng lên cũng chỉ vài con cua bấy hay mấy con thia lia và đỉa. Bố nó làm thợ đấu, chuyên vật đất làm nền nhà khắp vùng xong việc cai mới giả tiền. Mẹ nó năm ngoái đẻ xong bị hậu sản nên chỉ ở nhà. Cái giỏ ốc vơi thì năm đứa em nó cháo loãng cũng chẳng có mà húp. Con bé bỗng cất tiếng phàn nàn, nó chẳng nghĩ ngợi nhiều dốc nửa giỏ cá vào giỏ con bé. Quá bất ngờ, con bé định giả lại nhưng nó gạt đi. Từ hôm đó nó cứ xuống cuối làng vờ ngồi nghỉ, thấy con bé đội rổ xồng lên đầu là đi theo. Con bé khôn ra phết, nó toàn chọn ao xa làng như tránh con mắt soi mói của mấy mẹ mỏ nhọn như quạ. Nó ngầm tính nhờ chú sang có lời với cha mẹ con bé. Đắn đo lại thôi. Chú cho ở nhờ là tốt rồi. Cưới vợ thì rúc vào xó nào. Nó muốn hỏi ý kiến dì và ngóng tin chị.

Ông Sáng thấy cháu ỉu như bánh đa nghĩ rằng nó muốn thăm dì. Ông biết dì nó tức ông, cho nó đi cũng để bà ấy hiểu ông không ngăn cản tình cảm dì cháu. Lân đi như chạy. Đến nơi thì chỉ còn gian nhà trống trơn. Chắc chắn chú dì đã ra với chị nó. Nó lao ngay ra bến tàu. Xa xa, xà lúp nhả khói. Không cần nước mắt của nó, sông Đào vẫn chảy.

2.

Lan thuê nguyên căn nhà xây rộng gần bảy chục thước Tây gần chợ Hàng Da làm văn phòng. Cô còn cẩn thận mời thầy xem hướng đặt bàn ngồi hợp với tuổi. Lại bảo dì làm lễ cúng thổ địa để các ngài phù hộ. Khách khứa đến dự lễ khai trương và nhận giấy phép kinh doanh đã đông đủ. Nhiều người tặng lẵng hoa theo kiểu Tây. Vợ chồng chị Ba, Trúc và cả mấy cô hàng xóm cũng đến mừng.

- Gan chị Tư lớn thật! - Ngò cứ nói đi nói lại câu ấy với Liễm.

Thằng Tơi mặc áo dài màu xanh lam, đội khăn đóng trông ra dáng thanh niên nhưng nước máy thành phố vẫn chưa gột hết nét ngáo ngơ. Con Dọc cũng áo tứ thân, tóc vấn đuôi gà. Lan mua cho đôi dép bảo đi, được một chốc lại tụt ra cắp nách kêu đi dép không thật chân. Dì Mùng áo tứ thân bằng lụa trắng, khăn nhiễu đỏ mà vẫn lộ chất quê mùa lam lũ. Buồn cười nhất là chú Vẹn, áo the điều như mặc hộ, không hợp với cái mặt đen đúa.

- Chú mặc đẹp không quen, hay để chú mặc áo the thâm như ở quê. - Ông Vẹn nài nì.

- Chú không còn là ông bốc vác ở Lương Xá nữa, chú là người của công ty. Ăn mặc nhếch nhác người ta chê cười cháu.

Nghe cháu nói ông Vẹn im bặt.

Trước khi đọc diễn từ, Lan nghe lời chồng hít một hơi thật sâu, từ từ thở ra mà đọc vẫn vấp váp, tay áo lụa điều rung rung. Như để động viên người An Nam, ông phó đốc lý đến chúc mừng và trao tận tay giấy phép, lại có lời mong công ty làm ăn thành đạt. Sau phần mang tính thủ tục, đội sư tử múa vòng tròn mấy vòng là lời cám ơn và chúc sức khỏe quan khách. Trò này do vị phố trưởng mách, vừa xua đuổi tà ma, tạo dương khí mà còn vui nhộn.

Tiếng trống rộn ràng thu hút dân phố và người đi đường, họ vây vòng trong vòng ngoài. Đến phần hái lộc, người xem càng đông hơn. Sáu thanh niên quần áo màu vàng viền gấu đỏ bắt chặt tay nhau làm trụ đỡ một, ba anh khác đứng lên trên làm trụ hai và trên cùng là anh lanh lợi. Một người đứng ngoài cầm cây trúc, ngọn buộc gói nhỏ màu đỏ, bên trong đựng tiền trinh do chủ nhà bỏ vào. Anh này dư dứ cây lộc trước mặt anh chàng trên cùng và nhiệm vụ của anh ta phải lấy được túi lộc. Nhưng lấy được không dễ bởi anh cầm cây lộc lúc hạ thấp, lúc dâng lên cao theo nhịp trống, anh hái lộc mà với tay quá xa hay cúi thấp sẽ quá đà ngã như bỡn. Thế nên các chân trụ mắt lúc nào cũng phải hướng lên anh đứng trên và di chuyển liên tục theo ngọn trúc. Nếu anh cầm cây lộc dâng lên cao thì trụ một nhanh chóng đẩy trụ hai lên, trụ hai cũng phải nhanh chóng nâng tay để anh hái lộc cao hơn mới có thể chạm tới. Có lúc tưởng đã hái được, có lúc tưởng anh ta ngã. Lại có lúc đế một di chuyển liên tục mới giữ được thăng bằng, cuối cùng anh hái lừa người cầm cây lộc túm được ngọn. Mọi người vỗ tay rầm rầm. Tiền đó là món thưởng cho đội múa. Ông Vẹn đốt bánh pháo, mùi thuốc thơm khét quấn lấy người xem. Ai ra về cũng vui vẻ. Laglan quá bất ngờ với màn trình diễn, nó đã khai hóa ông về văn hóa của đất nước vợ.

Ngay hôm sau, công ty ký hợp đồng đầu tiên cung cấp thịt, pho mát và rau cho đơn vị quân đội có hai trăm lính đóng ở Vĩnh Yên trong thời hạn hai năm. Dĩ nhiên nhờ Laglan can thiệp một cách tế nhị. Hợp đồng giữa doanh trại này và một Hoa thương sẽ kết thúc vào cuối tháng Năm. Cầm trên tay bản hợp đồng Lan lo nhiều hơn mừng.

- Em đã có cách nào để đảm bảo đúng các cam kết chưa? - Laglan hỏi.

- Em đang nghĩ.

- Thì cứ làm theo cách của Hoa thương.

Lan lắc đầu. Cô biết nếu bắt chước họ phải có rất nhiều tiền để mua ngựa lập đội vận chuyển. Ít vốn nên cô tính khoán việc này với một chủ xe ngựa. Chủ xe đó thuê mướn thêm cô không cần biết, miễn là đảm bảo chuyển hàng đúng giờ đúng ngày là được.

- Đâu chỉ chở thịt, pho mát, còn quanh năm chở loại rau, có xe có ngựa chủ động hơn.

Lan lại lắc đầu. Một con ngựa giá mười đồng, mua hai mươi con mất hai trăm, tiền thuê đất làm trại, tiền làm chuồng tổng cộng mất bốn trăm. Vay từng ấy phải trả lãi một năm là tám mươi đồng, số tiền đủ mua được tám con ngựa rồi, xót lắm. Khoán vận chuyển, cô có thể lãi ít nhưng chẳng phải trả lương cho phu cắt cỏ chăn ngựa, chẳng lo ngựa ốm, chẳng phải thuê thợ đóng móng, nhàn thân hơn.

Xứ An Nam nắng lắm, mưa nhiều, lại có cả mùa đông tháng giá nên mùa nào cũng có các loại rau, khốn nỗi người Pháp lại không ăn rau muống, rau dền. Họ quen ăn rau quả xứ lạnh mà đúng lúc bắt tay vào hợp đồng thì su hào, bắp cải, cải xanh đã hết vụ, chỉ còn su su và đậu đũa cuối mùa. Những giống rau quả mùa hè thì còn non, chưa thể thu hoạch. Không thể bắt chước Hoa thương mua từ Hương Cảng vì công ty của cô nhập quá ít, sao chịu nổi cước cho cả chuyến tàu.

- Thưa bà chủ, bà nên thuê đất, mua giống ở vườn ươm Ngọc Hà rồi mướn nông dân gieo trồng mình sẽ đỡ bị động... - Ký lục góp lời.

Cách đó nhà thầu trước làm rồi, công sức bỏ ra nhiều lắm. Ấy là chưa kể mưa to rau nát, ruộng úng ngập, mùa đông ruộng rộng không kịp che sương muối, cà chua, bắp cải cháy hết. Trước mắt tự thu gom lẻ, lâu dài cô sẽ đứng ra mua lại các nhà buôn lớn với giá cao, người ta nói buôn có bạn là thế. Và cô chỉ làm mỗi việc dựng nhà kho ngay gần doanh trại, nhà buôn đổ hàng, cô nhập rồi hôm sau chuyển cho doanh trại thế là xong.

- Tôi lo là lo tháng Sáu này cung cấp cho họ rau gì...

Ông Vẹn e hèm:

- Chú nghĩ cháu cho đi mua trữ khoai tây từ bây giờ, khoai tây để vài tháng có sao đâu? Bí đỏ vụ trước nhiều nhà vẫn còn quẳng lăn lóc dưới gầm chõng mua gom là ổn mà... Này cháu, tháng Năm khoai mỡ nhiều lắm, ngon như khoai tây, nếu họ ăn được thì chả có gì phải lo...

Thế mà không nghĩ ra, Lan từng sai con Nụ mua khoai mỡ nấu xúp, Laglan ăn nức nở khen ngon. Cái ông hát xẩm hóa ra được việc. Lan nhẹ người và chợt hiểu, đời này chẳng ai hiểu hết thiên văn địa lý, người ngu dốt đôi khi cũng ló cái khôn.

- Cháu giao việc đó cho chú.

Ông Vẹn ngây ngất, “mình chẳng đến nỗi nào, cũng giúp được cháu”.

* * * * *

Cứ mở cửa sổ là Lan nhìn thấy điện Kính Thiên bị phá nham nhở, xa một chút là tường, rêu bám xanh chắn tầm mắt. Hàng ngày ra vào đều phải qua cổng, thân thuộc như cổng ngõ ở quê nhưng Lan không hiểu biết gì về thành. Cô chỉ biết, nơi cô đang ở xưa là chỗ dành cho vua quan trong đó có vua Trần Thánh Tông, vua Lê Thái Tổ. Từ hôm đọc bài viết trên báo Bắc Kỳ độc lập phê phán cuộc họp bàn bạc phá tường thành của hội đồng thành phố thì cô mới bắt đầu chú ý. Laglan bảo nhà báo A. Le Vasseur là cây bút sắc sảo, ông ta thường viết báo bài bác chính sách của chính phủ bảo hộ. Ông ta không ủng hộ việc phá tường thành, cho rằng đó là tài sản của người An Nam. Chính Lan đã nghe ngài thanh tra Học chính Đông Dương, Dumoutier cũng không đồng tình phá dỡ tường thành.

- Tại sao các ông ấy phản đối chính phủ bảo hộ mà không bị bắt tù? - Lan hỏi chồng.

- Ồ, đó là quyền tự do cá nhân được quy định trong bản tuyên ngôn của nước Pháp.

Rồi một hôm Lan thấy báo Tương lai Bắc Kỳ đưa tin dù bị phê phán nhưng Toàn quyền Lanessan không từ bỏ ý định. Lan theo dõi chẳng để hiểu giá trị của thành, cũng không phải xem ý kiến của nhà báo Le Vasseur và ngài Toàn quyền ai đúng ai sai mà cô nhìn thấy cơ hội có thể kiếm được tiền.

Hôm nay cô cầm trên tay tờ Tương lai Bắc Kỳ, ngay trang nhất tờ báo dâng dòng tít to tướng “Số phận thành đã được quyết định”, cô hồi hộp đọc từng từ “Ngày 15-2-1894, ngài Toàn quyền Lanessan đã ký với công ty Bazin ở Paris một hợp đồng phá tường thành Hà Nội, ngài Toàn quyền yêu cầu công ty này phải hoàn thành công việc trong hai năm”. Cô vớ tờ Đời sống Đông Dương, sau vài dòng đăng tin Toàn quyền ký với hãng Bazin, bài báo này lên tiếng chỉ trích “Chính quyền đã ưu ái công ty này vì ngoài được sáu mươi nghìn đồng, Bazin còn được quyền sử dụng chín mươi mẫu Tây đất trong khu vực thành. Nhưng Bazin không thể tự làm nên họ buộc phải thuê các nhà thầu phụ bằng cách cho trưng thầu”. Lan phấn chấn, cô sẽ tham gia vào vụ làm ăn này. Nếu may mắn, không chỉ lợi về tiền bạc, danh tiếng công ty sẽ vang khắp An Nam. Và khi đã có danh, công việc kinh doanh càng thêm thuận.

- Em muốn tham gia trưng thầu phá tường thành Hà Nội...

Laglan trợn mắt nhìn vợ. Ông nghi ngờ thần kinh vợ mình có vấn đề như hồi định tự tử. Thầu xây dựng hoàn toàn khác với cung cấp thực phẩm. Phải có người quen việc và giỏi mới tính toán được bỏ giá nào để trúng thầu mà vẫn có lãi? Còn muốn học hỏi thì hôm Bazin mở thầu cứ vào ngồi nghe. Ấy là chưa nói trúng thầu thì thuê phu ở đâu, chỗ ở ra sao, sắp xếp cách nào để hàng trăm con người không dẫm việc lên nhau, ai hàng ngày đốc xuất họ? Liệu có đảm bảo thời gian đúng cam kết không? Có mỗi hợp đồng con con ông thấy vợ đã rũ ra, quên cả chồng huống hồ đây là việc quá lớn.

- Theo anh, hãy làm tốt việc em đang làm, đừng lao vào việc mình không biết.

Người đâu chỉ toàn bàn lùi. Lan lặng lẽ tìm đến Trúc. Cô tin Trúc cho cô những lời khuyên bổ ích.

Đây là lần đầu Lan đến từ khi Trúc mua nhà. Hôm tân gia, Trúc mời nhưng cô biết chắc chắn sẽ có họ hàng và các nhà Nho. Sợ Trúc mang tiếng làm bạn với me Tây nên cô không đến, chỉ ngầm cho người mang quà tặng là chiếc bình hoa bằng pha lê.

Ngôi nhà ngói nằm trên phố Balny [1] bên hông Tòa đốc lý cách bờ Hồ chưa đầy trăm thước. Cái sân nhỏ lủng lẳng những quả mướp non và hoa vàng khiến căn nhà xinh xinh yên bình. Bốn bức tường gạch trong phòng khách nhỏ treo đầy chữ. Chắc các nhà Nho tặng. Cô không hiểu nhưng đoán nó có rất có ý nghĩa với người viết và chủ nhà. Giá gỗ bên cạnh bàn uống chè ngăn trên toàn sách chữ Hán, dưới là chữ Pháp xếp ngay ngắn. Bên trên đặt lọ hoa cô tặng cắm hải đường hàm tiếu. Ngày nghỉ nên Trúc mặc áo the, quần trắng thư sinh y như hồi còn thuê trọ ở bờ sông. Gấp cuốn sách chữ Pháp, Trúc rót bát nước vối nóng mời khách.

Không khát nhưng Lan bê bát nước định uống, luống cuống cô đánh rơi cả bát xuống sàn...

3.

Sau khi xem xét kỹ hồ sơ, Bazin chọn năm công ty mà họ cho là đủ năng lực trong đó có hai công ty Pháp, hai công ty Hoa kiều và Tư Hồng An Nam công ty.

Công ty cung cấp vật liệu Đông Dương và Công ty thầu xây dựng An Nam đã hoạt động gần chục năm ở Đông Dương. Là người Pháp nên họ cũng được chính phủ ưu ái giao thầu nhiều công trình làm bằng tiền ngân khố. Hàng loạt trại lính ở Bắc Kỳ do họ làm cả. Họ có thiết bị máy móc tân tiến, có kinh nghiệm tổ chức, biết sắp xếp công việc. Hai công ty Hoa kiều cũng kinh doanh hơn chục năm ở An Nam, từ xuất khẩu gạo, nhập hàng tiêu dùng đến xây dựng công trình dân sự lớn cho chính phủ bảo hộ. Đứng đằng sau họ là ngân hàng Hongkong Shanghai Bank [2] sẵn sàng cấp vốn. Bốn gã khổng lồ, liệu có đấu được với họ không và muốn thắng thì làm cách nào? Chồng cô khuyên chấp nhận mất tiền đặt cọc, rút tên khỏi danh sách.

- Ngựa non chở ít thôi... Laglan nói với vợ.

Chưa ra trận đã sợ thua. Lo thì các công ty lớn họ cũng lo. Khóa nào cũng có chìa để mở, nếu tìm ra chìa việc coi như thành công.

- Ta bỏ thầu giá thấp. - Lan bảo chồng.

- Nếu họ bỏ thấp hơn thì sao? Thấp mà chả có lãi thì thầu làm gì? Giành được thầu nhưng có lãi mới thành công.

Hai vợ chồng đang bàn bạc thì Phillippe, giám đốc Công ty thầu xây dựng An Nam mò đến cùng với viên thư ký. Giới thầu khoán Bắc Kỳ gọi ông ta là con cáo già. Lại nắm trong tay nhiều nhân viên tài ba và trung thành. Không mấy thành công khi làm ăn ở Pháp, tài sản của ông ta chỉ là số lẻ so với các nhà tư bản công nghiệp. Khi chính phủ Pháp muốn biến công cuộc chinh phục thuộc địa thành trò chơi tâm lý để chấn hưng một đất nước đang yếu thế ở châu Âu thì ông ta nhìn thấy tương lai. Mấy người bạn rủ đi Algerie nhưng ông lắc đầu muốn tìm cơ hội ở quốc gia cách xa nước Pháp hơn. Tháng 7-1881, nghị viện Pháp thông qua một khoản ngân sách gửi quân chinh phục thuộc địa thì Phillippe đã chuẩn bị hành trang cho cuộc phiêu lưu sang xứ An Nam xa lắc. Tin Bộ Hải quân cho phép toàn quyền Nam Kỳ đưa quân ra Bắc Kỳ đầu năm 1882 loang ra, ngay lập tức ông ta tót lên tàu sang Sài Gòn và ra Bắc Kỳ. Có thời gian phải ở nhờ trong tòa lãnh sự Đồn Thủy bởi quân Cờ Đen hoành hành. Nhìn lưỡi gươm cứa cổ người An Nam, Phillippe ớn lạnh song vẫn tin mình đúng. Và vận may đã đến, ông nhận hợp đồng làm con đường xung quanh hồ Gươm, tiền khiến ông bớt sợ. Tiền làm cho ông tự tin. Bấp chấp hai lá phổi như hai túi nước khi Bắc Kỳ vào mùa ẩm ướt.

Vụ thầu phá tường thành khiến Phillippe mất ăn mất ngủ. Tất cả các cách tính của viên kế toán đều có một kết quả giống nhau, số tiền trả công cho phu rất cao, chiếm tới hai phần ba. Bỏ giá thấp trúng thầu cũng chẳng có lãi, rời bỏ nước Pháp sang đây đâu để làm không công. Và Phillippe nghĩ đến Quảng Đông địa ốc và Phúc Kiến địa ốc, hai công ty này chắc chắn đưa phu từ Trung Quốc sang, trả họ tiền công rẻ mạt. Ông có lợi thế hơn về thiết bị. Tuy nhiên toàn quyền Lanessan không chấp thuận đơn của họ, ông ta sợ một lượng lớn người Hoa sang An Nam sẽ khiến tình hình phức tạp. Suy đi tính lại cuối cùng ông tin Tư Hồng An Nam sẽ trúng thầu vì bà ta là người An Nam nên hiểu đồng bào mình. Và đồng bào của bà sẵn sàng chấp nhận tiền công rẻ rúm để giúp nhau, giúp Tư Hồng An Nam vì nó là công ty đầu tiên của người An Nam ở Bắc Kỳ...

- Tôi nghĩ nếu hai công ty chúng ta hợp tác, cơ hội thắng thầu là rất lớn và nếu thắng thì khá dễ dàng xong sớm hơn yêu cầu của Bazin.

Việc con cáo giá thầu khoán Bắc Kỳ mong muốn hợp tác với công ty nhỏ bé tức là ông ta đã nhìn ra điểm mạnh của Tư Hồng An Nam. Điểm mạnh ấy là gì chính cô không biết. Hay ông ta nói vậy cốt để thăm dò? Lan nhìn chồng.

- Ông là người lạc quan... có lẽ chúng tôi không như ông nghĩ đâu...

- Bà từ chối?

- Công ty chúng tôi quá nhỏ, tham gia để lấy tiếng thôi...

Có thể cô ta trưng thầu chỉ để lấy tiếng thật. Xã giao vài chuyện với Laglan, Phillippe ra về.

Bỗng Lan ôm chồng hôn túi bụi. Chính đề xuất của Phillippe đã trả lời hộ cô bài toán mà hai vợ chồng đau đầu nhiều ngày nay. Họ tìm đến vì mắc mớ thuê phu. Mộ hàng nghìn phu là không dễ. Họ không thể tự đứng ra làm việc đó và nếu qua cai thì tiền công đội lên cao hơn. Và việc đục tường xe đất cũng chả cần đến máy móc. Cô nhớ lúc bố còn sống, ông làm thợ đấu, vác đất từ sáng đến tối cũng chỉ có mấy xu mà còn tranh nhau. Quê cô lại sẵn trai đinh. Mang việc về cho họ vừa được tiếng làm phúc lại vừa tẩy rửa tiếng oan. Đêm đó hai vợ chồng cô trần truồng trên giường vật lộn với những con số cho đến tảng sảng.

* * * * *

Tin hãng Bazin chuẩn bị mở thầu đăng trên báo Tương lai Bắc Kỳ càng làm cử Hiền bồn chồn, cụ muốn gặp Trúc vì cậu làm thư ký cho đốc lý Tirant Gilbert. Cuộc gặp hôm nay cụ mời thêm bạn hữu đồng tâm đồng ý. Trúc là cháu nội cử Khiêm, người làng Trung Hòa, bạn đồng niên và tri kỷ ở trường Hồ Đình của tiến sĩ Vũ Tông Phan. Hai cụ đỗ cử nhân cùng khóa thi triều vua Tự Đức. Cả hai cùng từ chối chức quan, chọn cách ở nhà dạy học. Cha Trúc là con cả nhưng chẳng may bạo bệnh mất sớm. Cử Khiêm hay chữ ở phủ Hoài Đức, đầu năm ai cũng cố xin cụ chữ vì chữ đẹp và hàm ý sâu rộng. Lạ thay cụ lại nhờ cử Hiền dạy cháu. Đang học, Trúc giấu cử Hiền thi vào trường Thông Ngôn và trúng học bổng, cậu van xin cụ cho theo học. Ông nội nghe tin giận tím ruột, may cho Trúc cử Hiền có lời đỡ “muốn chống Tây phải hiểu họ nói gì”. Câu nói của cử Hiền lộ ra tâm chí cháu nên cụ thôi giận. Học xong, quan đốc lý biết Trúc thông thạo chữ Hán, chữ quốc ngữ liền mời về làm ký. Hay tin cháu làm cho Tây, cụ lầm lì ít nói, lần nào Trúc về thăm cũng tránh mặt. Biết ông giận, Trúc định bỏ việc nhưng các chú ngầm khuyên.

- Cháu có tâm chí thì cháu cứ đi. Miễn đừng ngược lại “Trung hậu gia thanh” [3] là được. Hôm nay ông chưa hiểu thì mai ông sẽ hiểu.

Rồi ông mất đột ngột. Trúc cho tại mình, cả họ lại không nghĩ như vậy nên cậu bớt day dứt. Chỉ duy nhất cử Hiền biết cử Khiêm chết vì ăn hột mã tiền [3], mấy năm nay cụ luôn giấu mấy hạt này trong túi.

Từ ngày một phần tỉnh Hà Nội thành nhượng địa, chính quyền bỏ tiền thu nạp hàng trăm kẻ chỉ để dò la những ai có ý đồ chống Pháp. Các nhà Nho trước là gạch nối giữa triều đình và dân, nay triều đình ở xa, nên họ thân dân hơn, bị giám sát chặt nhất. Nhà nước bảo hộ quy tội các vị là tác giả của tất cả những vần thơ phản kháng người Pháp hay lên án vua quan triều đình nhu nhược. Những vần thơ đầy huyết khí được phu phen, dân nghèo truyền tai lan rông khắp thành. Để che mắt, nhiều nhà Nho đã vờ hợp tác với Viện Hàn lâm Bắc Kỳ, thậm chí có người còn nhận dạy chữ cho con cái các quan trong Kinh lược sứ. Sợ tụ tập đông người dễ dẫn đến bạo động, nhà nước bảo hộ cấm không cho thi Hương ở Hà Nội. Rồi phong trào Văn thân cuối trào, nhà Nho chống chếnh.

Buổi gặp hôm nay cử Hiền chọn đền Bạch Mã vì từ Khánh là chỗ thân thiết đáng tin cậy. Đền có từ thế kỷ thứ IX, và từ đời này sang đời khác, vào tháng Giêng, dân phường Hà Khẩu tổ chức lễ rước nước từ sông Cái về lau rửa đồ thờ. Đám rước vui nhộn nhất Kẻ Chợ, đi đầu gồm năm lá cờ ngũ hành, tiếp đến là bộ chiêng trống. Trống cái của đền thuộc hàng to nhất nhì nên phải cho vào xe bốn bánh kéo. Tiếp đến là bộ cà rùng, dàn nghi trượng rồi đến phường bát âm, long đình đặt hương có lọng che. Kiệu thần cùng tàn quạt đi sau cùng. Kỳ mục phường Hà Khẩu mũ hia, áo thụng bước theo. Lại thêm hai anh khăn nón, áo the nhà Nho tay phe phẩy quạt cao lêu đêu mặc quần ống trắng. Hai anh giấu cà kheo trong quần dài làm cho đám trẻ tò mò chạy theo reo hò mỗi lần hai anh loạng choạng. Đúng ngày hạ cây nêu, đền lại trưng thầu tám đèn lồng vuông bốn mặt có bốn chữ Tam Dương Khai Thái [5] dưới là tua lụa màu và một chiếc đèn tròn lợp the điều có ba chữ Phúc, Lộc, Thọ bằng trang kim. Đây là chiếc đèn có giá nhất. Nhà đền thường mời các gia đình giàu có trong và ngoài phường tham dự, ai trả hơn sẽ trúng thầu và có người che lọng rước về tận nhà. Từ năm 1873, năm Hà thành thất thủ lần thứ nhất đến năm Nhâm Ngọ, năm Hà thành thất thủ lần thứ hai, dân Kẻ Chợ tản cư tránh loạn, tục thầu mai một. Càng loạn, dân lễ đền càng đông, nhất là ngày sóc ngày vọng. Bạch Mã thờ thần Long Đỗ, vị thần bảo vệ Thăng Long nên dân cầu xin ngài diệt ác trừ tà cho dân chúng chăng?

Khi còn để chỏm, ông nội dẫn Trúc lên đây thăm cụ từ Khánh, lớn lên còn được theo ông nhiều lần nữa. Hết loạn quân Cờ Đen, hôm nay mới có dịp lại đền. Cậu đội chiếc mũ cát, len trong đám người đông đúc. Kín đáo quan sát xung quanh, thấy không có gì khả nghi mới khẽ mở cánh cửa gỗ vào phòng cụ từ. Bên trong, cử Hiền, cử Thạch dân làng Vũ Thạch, tú Khai, dân làng Tân Khai [6] đang xếp bằng trên chiếu hoa. Một lúc sau cụ từ Khánh vào. Chờ từ Khánh tại vị, cử Hiền lên tiếng:

- Hôm nay tôi mời toàn bậc Nho phong chí sĩ, chỉ tiếc là cụ cử Phong, cử Tốn ươn người nhưng hai cụ có dặn tóm tắt lại cho nghe. Tôi cũng mới biết Tòa đốc lý cho phá tường thành qua báo Tương lai Bắc Kỳ song cụ thể thì không rõ nên sai gọi cháu Trúc đến kể chi tiết hơn để cụ từ, cụ cử và cậu tú tường tận, “Tri kỷ, tri bỉ, cố tri tất thắng”. [7]

Trúc đứng dậy lễ phép:

- Thưa cụ cử Hiền, cụ cử Thạch, cụ từ Khánh và anh tú Khai, chuyện phá thành cháu đã nghe họ bàn từ nhiều tháng trước, ban đầu là đề xuất của ngài Thống sứ Bắc Kỳ, sau đó được toàn quyền de Lanessan ủng hộ vì ông này cũng muốn chính phủ Pháp cấp một khoản ngân sách để mở mang Hà Nội. Họ tính toán nếu phá tường thành, thành phố sẽ thêm được hàng vạn mẫu đất làm đường, làm nhà. Và chỉ nay mai, hãng Bazin sẽ mở thầu.

Cử Thạch thở dài:

- Gia Long đã phá thành nhà Lê, xây nhỏ đi, bên trong còn giữ lại Hậu Lâu và điện Kính Thiên. Dù có xây thêm Kỳ đài cũng coi như mất hết...

Cử Hiền tiếp:

- Đã hết đâu, Tự Đức mới thay Thiệu Trị cho dỡ nốt mang về Huế... giờ thành chỉ còn cái vỏ, nay lại bị phá...

Tú Khai rầu rầu:

- Năm Pháp chiếm thành lần thứ hai, Henry Rivière bị Cờ Đen rồi quân Bãi Sậy đến quấy phải tụ lại điện Kính Thiên biến chốn nghiêm thành lô cốt. Còn Hậu Lâu thì một con mẹ tự xưng là công chúa nhà Lê đến hành đồng, tối tối dắt gái cho lính Tây nên nó gọi là chùa Đàn Bà [8]...

Cụ từ Khánh rơm rớm:

- Hàng ngày nghe bà con vào đền khấn thần Long Đỗ đứng ra hộ dân Thăng Long mà nước mắt cứ chảy. Còn “văn vũ y quan dĩ tức thì” [8].

Thế là Non Nùng, sông Nhị công thánh mãi truyền đã tan... Nhưng đau hơn là họ oán thán sĩ phu Bắc Hà chạy đâu hết, để Pháp muốn làm gì thì làm...

- Ta nghe nói việc phá tường thành, lấp hào, quan đốc lý đã chọn năm nhà thầu tham gia bỏ giá đúng không con? - Cử Hiền hỏi Trúc.

- Thưa cụ, đúng như vậy, nhưng không phải Tòa đốc lý mà do hãng thầu Bazin.

Cụ cử Thạch hướng về phía Trúc:

- Ta cũng nghe nói có con me Tây tên là Tư Hồng cũng tham gia, Tư Hồng là con nào mà lớn gan vậy?

Sau khi nghe Trúc kể, cụ cử Thạch ngẫm nghĩ rồi e hèm:

- Chúng ta ngồi đây không đại diện cho sĩ phu Hà thành nhưng biết quan Tây phá thành thì cũng phải tìm cách ngăn lại. Nó phá phách mà mình không tỏ thái độ, hậu thế sẽ nguyền rủa sĩ phu chỉ biết ngâm thơ, uống rượu. Kinh lược Hoàng Cao Khải đã xỏ giày Tây, thành viên An Nam trong hội đồng thành phố cũng là đám bù nhìn, giờ có lẽ chỉ còn trông vào Tư Hồng, nó đàn bà nhưng biết đâu bọn quan Tây lại nghe thì sao?

Cử Hiền lắc đầu:

- Sao lại nhờ một con đĩ... mà cho mở thầu là chuyện đã xong rồi... Con thấy thế nào?

- Thưa các cụ, thưa anh tú Khai, đúng như cụ cử Hiền nói, họ cho mở thầu là quyết hết rồi, không ai cản được, chỉ có điều nếu Tư Hồng trúng thầu, ta có thể nhờ nói với quan toàn quyền xin giữ lại điện Kính Thiên, Kỳ đài...

Tú Khai cắt lời Trúc:

- Tư Hồng là nhà thầu, phá càng nhiều nó càng thêm tiền. Xem ra nhờ Tư Hồng...

Cử Hiền thở dài. Cụ từ Khánh góp lời:

- Hai lần Pháp chiếm thành, bọn quan lại đều bỏ trốn để mặc quan tổng đốc ứng chiến... vết thương đó không bao giờ lành được... làm sao có thể dựa vào bọn họ cứu thành? Giờ lại nhờ me Tây... nhưng cũng chẳng còn cách nào hơn...

Cử Thạch phẫn uất.

- Nhìn đám me Tây máu trong người sôi lên rồi... cực chẳng đã phải nói với nó... vậy ai sẽ đến gặp Tư Hồng?

Trúc hiểu được tình thế.

- Cháu không dám chắc có kết quả hay không, nhưng cháu xin nhận việc đó...

Cụ từ Khánh trào nước mắt.

- Thần Bạch Mã giờ không còn thiêng nữa rồi...

Mọi người im lặng, cố nén tiếng thở dài, ai cũng hiểu vì sao từ Khánh than. Lúc Lý Công Uẩn rời Hoa Lư ra đây, thành cứ xây lại đổ. Một đêm, ngài thấy ngựa trắng trong đền Bạch Mã đi ra rồi bay lên trời, ngựa bay từ tây sang đông lại trở về đền. Sáng hôm sau ngài thấy vết chân ngựa và tin đó là ý trời bèn sai quân cứ theo vết chân ngựa mà xây. Giờ ý trời cũng bị phá...

- Chí thành thì thông thánh [9]. Còn nước còn tát, hơn là đứng nhìn. - Cử Hiền lên tiếng. Không khí buồn bã bao trùm gian phòng. Tiếng bà con khấn bên ngoài rì rầm dội vào...

Chú thích:

[1] Nay là phố Trần Nguyên Hãn. Balny d’Avricourt Paul (1849-1873), là sĩ quan tùy tùng của Francis Garnier bị giết chết trong trận Cầu Giấy năm 1873.

[2] Được biết đến ngày nay với tên viết tắt HSBC.

[3] Nếp nhà trung hậu.

[4] Vị thuốc Nam rất độc.

[5] Tháng Giêng (tam dương) mở đầu (khai) cho sự hanh thông (thái).

[6] Làng Vũ Thạch: nay tương ứng với phố Tràng Tiền, đoạn đầu phố Bà Triệu và đoạn đầu phố Hai Bà Trưng; làng Tân Khai: nay tương ứng với phố Phùng Hưng, đều thuộc quận Hoàn Kiếm.

[7] Biết mình, biết người, đi đâu cũng chiến thắng.

[8] Từ cách gọi của người Pháp khi đó: Pagode des Dames.

[9] Quan văn, quan võ bây giờ cũng khác trước.

[10] Có lòng thành thì thông đạt với thần minh.