← Quay lại trang sách

Chương 6

Tương lai Bắc Kỳ, tờ báo hàng đầu ở Hà Nội giật tít “Một đánh bại bốn”, còn tờ Người Đông Dương dâng hàng tít khiêu khích ngay dưới măngsét “Người Pháp, người Tàu thua trí đàn bà An Nam”. Tờ báo này bình luận “Người Pháp quá tự tin khi cho rằng, họ sang mở mang đầu óc kinh doanh cho người An Nam, nhưng bằng chứng là bà Tư Hồng đã thắng thầu”.

Lan bỏ mấy tờ báo sang bên cạnh, cô trầm ngâm nghĩ đến chuyện chị Ba kể lúc sáng. Ngoài đường dân phố ngầm chửi cô tiếp tay cho Tây phá nốt những gì tổ tiên để lại. Điều Hồng nói hoàn toàn đúng, có lẽ ông ta sinh ra và sống ở An Nam quá lâu nên hiểu tâm trạng người An Nam, họ chả buồn nghĩ cô không phá thì người Pháp, người Tàu cũng phá.

Bát bún thang dì Mùng mua về cô chẳng buồn ăn. Vừa sai mang đi thì Phillippe vào, chả biết lão cáo già này mò đến làm gì?

- Sự thật cô đã trúng thầu ngoạn mục. Tuy nhiên cho đến hôm nay tôi vẫn không hiểu nổi tại sao cô lại bỏ giá đó. Công ty của tôi tham gia thầu khắp Đông Dương, giúp việc cho tôi có rất nhiều thư ký tài ba và tất cả bọn họ đều quả quyết với tôi, cô sẽ lỗ nặng. Cả ba công ty kia họ cũng suy nghĩ giống như tôi...

Lan tin ông ta nói thật. Cô đánh bại họ chính vì họ tính sai về giá thuê phu. Cô khiêm tốn:

- Tôi chả nhiều tiền vung ra mua danh. Ông vui lòng chờ đợi vậy.

Philippe ra về thì ông Quang Minh lò mò vào. Quang Minh có chân trong hội đồng thành phố. Đôi lần cô cũng trò chuyện về buôn bán với ông ta. Đó là một người đàn ông khéo léo và thực dụng. Ông ta từng học chữ Nho, chữ quốc ngữ, khi làm ăn với nhà thầu Tây, ông vội vàng học tiếng của họ. Hai cha con ông từng thầu lại việc cung cấp gỗ cho vài công trình của chính phủ bảo hộ và giàu lên từ đó. Ông ta có thân hình cao, gầy, ăn bận đồ Tây, đầu đội mũ cát trắng. Vì đầu nhỏ nên ông phải thả quai xuống cằm để mũ khỏi bay khi gió, trông như mũ đi mượn.

- Mừng cô đã thắng.

Chắc cuộc viếng thăm có chủ ý nhưng cô chưa đoán là việc gì.

- Tôi thực sự khâm phục cô, đúng là không thể xem thường đàn bà An Nam.

Nói xong ông Quang Minh cười giòn tan. Câu khen làm cô tự hào. Người An Nam duy cảm, duy tình nên khó buôn bán lớn. Cô không những dám làm mà còn đua chen với Hoa thương và các nhà thầu Pháp.

- Chắc cô đang bận... tôi không vòng vo tam quốc nữa... Cô phá thành chắc chắn phải dùng xe cút kít mà dùng xe thì phải cần gỗ... nếu chưa có ai... tôi xin thầu lại... mà nếu có rồi thì tôi đưa giá rẻ hơn... Cùng người An Nam với nhau mà...

Hôm qua cũng có người đánh tiếng nhưng cô chưa nhận lời. Phải để Laglan tính toán kỹ lưỡng mới đưa ra giá mua.

- Ông cho tôi suy nghĩ, có gì tôi sẽ gặp ông thưa chuyện sau...

Ông Quang Minh lại cười giòn tan.

- Vâng, chuyện lãi lỗ là không vội được. Nếu thấy cần cô cứ sai người đến gọi tôi.

Ông ta có mấy căn nhà xây theo kiểu Tây ở phố Hàng Gai, lại vừa mua lô đất rộng ở phố Gambetta để xây biệt thự. Thực ra Lan đã ngầm tính mua gỗ của ông chẳng phải vì ông có chân trong hội đồng thành phố mà nhà buôn giàu có thường trường vốn sẵn sàng cho cô trả chậm.

Bù đầu cho chuẩn bị lễ động thổ khiến Lan quên cả hẹn với ông bác sĩ ở bệnh viện Lanessan. Nếu hôm qua ông ta không nhắn thì cô và Laglan cũng chẳng nhớ. Giọng ông ta trầm trầm:

- Viện xét nghiệm Paris đã chuyển kết quả sang cho tôi... và tôi thật sự chia buồn với ông bà, chất đó có tên là DVB, độc dược có tác dụng gây ung trứng nên khi rụng xuống gặp tinh trùng cũng không thể thụ thai được.

Vợ chồng Lan nín lặng, tiên lượng tình hình rất xấu nhưng không ngờ đến mức này.

- Tuy nhiên tôi vẫn muốn hỏi bà một câu, từ khi còn bé cho đến bây giờ, bà có ăn uống thứ gì khác lạ với những thứ mà bây giờ bà vẫn ăn không?

Lan lắc đầu:

- Người ta ăn gì tôi ăn nấy... Thưa bác sĩ, với tất cả những hiểu biết của ngài, có loại thuốc nào có thể giải được độc dược đó không ạ?

Ông bác sĩ trầm ngâm.

- Vì là độc dược mới phát hiện nên chưa có dược sĩ nào bào chế ra thuốc đặc hiệu để trị... Thưa bà, tôi rất tiếc về điều đó...

Laglan lên tiếng:

- Thưa ngài! Tôi muốn hỏi ngài, độc dược ấy cứ tồn mãi trong cơ thể vợ tôi sao?

Bác sĩ chia sẻ:

- Thưa ngài quan tư, độc dược ấy sẽ bị đào thải hay liên tục kết hợp với các phân tử có sẵn trong cơ thể để ở lại lâu hơn thì các bác sĩ ở Paris sẽ nghiên cứu nó... Và tôi không biết chắc nghiên cứu đó bao giờ có kết quả...

Ngồi trên xe ngựa về nhà, cô im lặng tựa vai chồng. Laglan cũng buồn bã nhìn đường. Rồi ông lẩm bẩm “số mình thế”, quay sang thấy mắt vợ rơm rớm, Laglan đặt tay nhẹ lên vai vợ.

Dãy nhà tĩnh lặng như mọi tối. Các phòng đều đóng cửa. Hai ngọn đèn điện dưới sân hắt ra ánh sáng trắng nhạt. Thành mới mắc điện vài tháng nay khi chính phủ bảo hộ đưa máy phát từ Pháp sang. Theo ngay sát Hồng còn có ba kẻ bịt mặt. Ông ta nhìn nhanh hành lang rồi khẽ mở cửa. Con Nụ và con Thơm thấy người lạ bịt mặt hoảng hốt lẩn vội vào phòng trong. Hồng ngồi xuống ghế. Ba thằng kia chặn ngay cửa. Lan biết thế nào Hồng cũng quay lại. Nhưng cô không hiểu lần nào Hồng đến chồng cô đều vắng nhà. Chắc phải có kẻ cùng đơn vị bí mật theo dõi và báo cho kẻ đứng phía sau Hồng. Ông ta dẫn ba kẻ bịt mặt chắc chắn chuyện rất nghiêm trọng. Nhưng Lan ngồi trên ghế vẻ bình thản.

- Cô giỏi lắm, cô không chỉ đến nhà quan Đốc lý mà còn mang cả của nợ đến tư gia ngài thống sứ. - Giọng Hồng có chút ghen tuông.

- Ông sai bọn họ giết tôi luôn đi. - Lan thách thức.

Ngày còn ở với Lan, Hồng nhiều lần bị động vì tính cô khó dự đoán. Hồng không ngờ Lan lại bình tĩnh đến thế. Hình như cô ta đoán ông mang theo người cốt để dọa. Ba thằng bịt mặt nhìn Hồng chờ đợi mệnh lệnh. Phòng bên trong, Nụ và Thơm nín thở nghe ngóng.

- Nếu cô không dành cho chúng tôi một phần thầu thì...

- Ông hiểu tính tôi mà.

Biết cương sẽ hỏng việc, Hồng xoay sang ngọt nhạt:

- Giờ ta đánh đổi, nếu cô đồng ý, bên tôi sẽ đưa thuốc cho cô uống và chắc là cô sẽ sinh đẻ bình thường...

Lan nhíu mày. Có thể ông ta nói thật. Cô nhớ câu Trúc nói “Cao nhân tất hữu cao nhân trị”, biết đâu có thầy lang cao tay nghĩ ra bài thuốc giải mà cô không biết? Lan xoay người về phía Hồng. Ông ta nghĩ đòn mình đưa ra đã có kết quả. Giàu mà không có con thì đời cũng vô nghĩa, chết có mang theo được tiền bạc đi đâu.

- Thôi được... tôi đồng ý cho công ty của ông tham gia một phần với điều kiện... tôi chỉ thanh toán tiền nếu tôi sinh được con.

Hồng cười khà khà:

- Tôi cam đoan uống thuốc đó cô sẽ sinh được con... nhưng sao tôi biết chồng cô thế nào...?

- Bệnh viện Lanessan gửi mẫu tinh của chồng tôi về Paris và họ đã có kết quả, ông ta hoàn toàn bình thường.

- Đâu phải cái gì Paris cũng hay, cũng đúng...

Lan bực bội:

- Mời các ông ra khỏi nhà tôi ngay.

Hồng cười gằn vẻ gian ác, kiểu cười cô chưa thấy khi còn ở với ông ta.

- Cô biết Lưu Kỳ là ai rồi đấy!

Lan từng nghe kể về băng cướp Lưu Kỳ qua thành viên phòng thương mại Hà Nội, không được việc là bọn họ ra tay khử luôn. Lưu Kỳ dân Quảng Đông, tinh thông võ nghệ, giỏi dùng dao, cách bốn mét phi vẫn trúng cổ họng. Đàn em ông ta cũng võ nghệ cao cường, coi mạng người như cỏ rác. Băng cướp Lưu Kỳ hoạt động ven biển Trung Hoa bị nhà Thanh truy đuổi gắt gao đã dạt sang An Nam. Lưu Kỳ chuyên giúp thương nhân Quảng làm ăn bằng việc dọa dẫm đối thủ và đòi nợ thuê. Tháng 7-1892, ông ta bắt cóc nhà thầu Charles Vézin khi ông này đang kiểm tra chất lượng mái ngói của Tòa thị chính Hải Phòng. Vézin trở nên giàu có nhờ thầu lại một đoạn đường sắt từ Phủ Lạng Thương đi Lạng Sơn. Vụ này Vézin bỏ túi khoảng một trăm sáu mươi nghìn đồng. Vézin cũng là một trong bốn quản trị của tờ báo Courrier de Haiphong [1]. Lưu Kỳ bắt cóc không phải vì ông ta giàu có mà do ông này lớn tiếng tố cáo sự tiếp tay của các hội đoàn Trung Hoa tại phòng thương mại Hải Phòng. Charles Vézin bị giam một tháng ở đâu chẳng rõ, sau đó nhờ thỏa thuận của viên thư ký, ông ta nộp hai mươi nhăm nghìn đồng tiền chuộc mới được thả. Cảnh sát Pháp ở Hải Phòng và Hà Nội giăng các ngả nhưng không thể tìm ra tung tích. Hồng lấy Lưu Kỳ ra dọa nghĩa là ông ta dối trá, chẳng có thứ thuốc giải độc nào cả.

- Tôi quyết không chia cho ai một xu trong vụ này.

Hồng hiểu ngay Lan đã hóa giải ngón đòn ông vừa tung ra. Ông ta hất hàm ra lệnh, ba tên bịt mặt xông vào. Lan đứng dậy. Đang ở hang hổ, giết cô bọn họ khó lòng thoát được. Và cô biết chắc họ chỉ dọa. Nếu giết cô họ sẽ không đạt được điều họ cần. Cô tin vào sự nhanh trí và láu lỉnh của con Thơm. Bỗng Hồng giơ tay ngăn, gã chỉ vào căn phòng khép cửa, hai thằng nhanh chóng xông lại mở tìm hai hầu gái nhưng bọn họ chỉ bắt được con Nụ. Hồng chạy vào nhìn cánh cửa sổ mở toang, sợi dây thừng buộc vào nắm cửa chớp vẫn còn rung nhẹ. Trước lúc đi, Hồng nghĩ Lan ương bướng kiểu một con đàn bà, không ngờ cô ta xoay được tình thế làm cho sự việc diễn biến theo chiều nguy hiểm đến tính mạng của cả bọn. Hồng hất đầu cho ba tên kia rút. Trước khi ra khỏi phòng còn đe:

- Bọn tôi có làm sao thì mạng sống của cô vẫn treo trên lưỡi dao của Lưu Kỳ.

Cũng vừa lúc ấy, cánh cửa mở toang, năm lính Pháp lăm lăm súng trong tay chĩa thẳng vào cả bọn. Ba tên bịt mặt từ từ giơ hai tay. Hồng chết lặng.

- Thưa ngài đội xếp, không có chuyện gì cả, họ là khách hàng của tôi đến bàn chuyện buôn bán. Hầu gái thấy chúng tôi to tiếng, nó sợ nên báo ngài. Mong ngài thông cảm.

Viên đội xếp đích thân khám xét từng người. Phát hiện ra ba mũ che mặt, đội xếp hất hàm, Lan nhanh nhẩu:

- Nghe tin Hà Nội đang có dịch tả, sợ bị lây nên họ mang theo mũ bịt.

Viên đội xếp chưa hết nghi ngờ, ông ta xem kỹ thẻ cư trú và giấy ra vào thành.

Thấy khớp tên và đúng là đến nhà bà Tư Hồng, ông ta khoát tay ra hiệu cho đi. Cả bốn nhanh chóng xuống cầu thang. Cô biết Hồng thế nào cũng quay lại nên đã dặn con Nụ và con Thơm cách đối phó. Trò leo dây tụt xuống báo cảnh binh chính Lan bày cho hai đứa. Cô cám ơn sự dũng cảm của nó bằng cái nhìn âu yếm. Con bé đáp lại bằng một nụ cười duyên rồi đi vào phòng.

Đêm đó Lan trằn trọc, chia tay mà vẫn chưa dứt, số cô sao cứ phải dính với ông ta. Còn dính đến bao giờ nữa? Lần trước ông ta yêu cầu cô không tham gia thầu, lần này lại đòi chia một phần chắc chắn bọn họ không vì danh tiếng, cũng chẳng phải vì tiền, phải có mưu đồ phía sau chuyện này. Nhưng mưu đồ gì thì cô không thể đoán nổi. Thành yên tĩnh. Cô lấy áo sơ-mi của chồng phủ lên mặt.

Tú Khai người thôn Tân Khai, thôn nằm ngay sát cổng phía Đông thành. Cha anh nhiều lần đi thi Hương nhưng chưa bao giờ qua được trường hai. Bà mẹ buôn bán chè và thuốc nuôi cả nhà.

Từ bé thấy Khai lanh lợi lại sáng dạ, người cha mang cơi trầu đến nhà cử Hiền thưa chuyện xin cụ dạy chữ cho con. Khai học trội hơn các trò đồng niên, chữ lại đẹp nên cử Hiền rất yêu. Khi cựa con gà đã cứng, cử Hiền khuyên ông bố cho Khai đi thi. Kỳ thi thử, Khai đỗ đầu nên được dân trong thôn gọi là Khai đầu xứ. Kỳ thi Hương cuối đời vua Tự Đức, Khai qua được kỳ thi Kinh nghĩa, Thư nghĩa. Bài bắt buộc làm theo lối văn cổ được chấm điểm cao nên cậu trúng vào thi trường hai với ba môn Chiếu, Chế và Biểu. Kỳ này buộc thí sinh phải biết soạn văn tự tấu quan trên ra chiếu chuẩn bị cho một ông quan tương lai. Khai lọt qua khá dễ dàng, được thi tiếp trường ba. Bài thơ Rạng Thăng Long theo thể thất ngôn của Khai rất hay nhưng bị cho có ý chống người Pháp nên hội đồng đánh trượt. Không được thi trường tư, Khai ở nhà luyện thêm, đang đèn sách thì cha mất. Sau tang cha, việc buôn bán của mẹ cũng sa sút. Thấy hoạn lộ trắc trở, Khai quay ra học tiếng Tây.

Rồi chè thuốc bị cạnh tranh, tiền vốn teo tóp, mẹ cậu phải bán nhà ở Tân Khai mua gian nhỏ hơn ở phố Củ Nâu [2] chuyển sang bán hàng cho phường nhuộm vải. Dù không đỗ cử nhân nhưng qua bài Rạng Thăng Long, cử Hiền nhìn ra chí hướng của đứa học trò thông minh này.

Tú Khai biết cử Hiền gọi đến vì chuyện cậu nói với Lan năm người bàn chuyện phá tường thành ở đền Bạch Mã. Vì lấy lòng Lan, cậu đã bộc bạch trong một lần rỗi rãi ở văn phòng. Lan hỏi lại Trúc cũng chỉ chả ý gì muốn kiểm tra tú Khai có thật không. Trúc bực bội đã mách cử Hiền cốt là để cụ đề phòng bất trắc, nào ngờ cụ giận tú Khai.

Thầy cho gọi nên tú Khai không thể không đến. Chả biết thầy hạch vì tội gì. Cụ cử Thạch và cử Hiền đã đợi sẵn. Chờ tú Khai ngồi xuống cử Hiền lên tiếng:

- Thật lòng ta rất quý sĩ khí của cậu nhưng chuyện hôm trước ta bàn với nhau sao lại đến tai Tư Hồng?

Tú Khai hiểu ngay.

- Thưa hai cụ, cháu biết các cụ cho gọi đến đây để hỏi về chuyện đó. Cũng không có gì phải giấu diếm hai cụ, cháu đã đi làm cho công ty Tư Hồng An Nam. Từ khi Pháp bảo hộ, công việc buôn bán của mợ cháu kém đi nhiều vì người ta chuyển sang hút thuốc cuốn giấy nhiều hơn và uống rượu ty. Rồi khách mua củ nâu cũng thưa thớt vì vải Anh quốc từ Hương Cảng tràn qua, mợ cháu phải sang cửa hàng ở phố Củ Nâu mua nhà nhỏ trong làng Thể Giao. Cháu thấy thẹn cứ bám mãi vào váy mẹ già thành ra sĩ khí cũng hao mòn... Thú thực cháu cũng chẳng ưa Pháp cũng như ký Trúc thôi... đi làm cho Tư Hồng, hàng ngày đỡ phải nhìn mặt quan Pháp như ký Trúc... Cháu nghĩ Tư Hồng tuy là me Tây nhưng bụng dạ chị ta vẫn nguyên An Nam. Cháu kể cuộc gặp lần trước cũng chỉ để chị ta kính trọng nhân tâm hai cụ, không có ý gì khác...

Cử Hiền Thạch thở dài:

- Cảnh dĩ phi, giai nhân dị. [3]

Mặt cử Hiền bừng bừng, ra điều Trúc làm với Tây là do cụ. Nhưng cậu ta đâu có biết, để Trúc vào Tòa đốc lý cũng là cách nhà Nho Hà thành trả thù triều Nguyễn đã chuyển kinh đô vào Huế. Định nói thêm, cụ lại kìm được, sợ Khai lại sang tai kẻ khác.

2.

Hơn một chục chiếc xe ngựa bóng loáng có rèm nhiễu tía xung quanh, nối nhau lốc cốc chạy cả đêm trên đường thiên lý. Xà ích ăn bận như lính triều đình, nón chóp bạc, áo có chữ phúc, chân giày cỏ, quấn xà cạp điều. Rạng sáng thì tới đường rẽ vào huyện Vụ Bình. Nghe tiếng trống tùng tùng, lại thêm thanh la vọng lại, Lan vạch rèm thấy cờ ngũ sắc cắm hai bên, phường sư tử đang múa, không khí như ngày hội. Ông già, bà cả, con gái, trẻ con đứng thành hàng, trông họ nhếch nhác đáng thương. Một bà cụ nói to, tiếng lọt vào tai Lan “Đón xong thì lĩnh tiền ở đâu nhẩy?”. Chẳng biết quan huyện phát cho mấy trinh nhưng cô hài lòng, quan huyện không để dân bụng rỗng đón khách là tốt rồi. Xưa nay, họ sợ quan phủ, sợ cả quan Tây nhưng không có tiền thì viện mọi lý do từ chối vì thế cô cho ký về trước đưa tiền. Gây thanh thế bằng tiền là nhanh và dễ. Xe dừng trước cửa huyện đường, Tri huyện Trần Trọng Trí đã đợi sẵn. Lan vén rèm bước xuống, trông cô rực rỡ, lộng lẫy, nổi bật giữa vùng quê xám xịt.

- Chào bà quan tư! Danh tiếng bà vọng về vũng chiêm trũng này từ lâu nhưng hôm nay chúng tôi mới được diện kiến, thật là phúc đức cho huyện nhà.

Tri huyện này ăn nói khéo gớm, chả biết có xỏ xiên gì mình không.

- Thưa bà quan tư, chúng tôi đưa dân ra đón bà từ canh tư cơ ạ...

- Ơn ông quan huyện đã thịnh tình đón tiếp.

- Mời bà vào nghỉ và xơi chén chè ướp sen cho đỡ mệt.

- Ngài chu đáo quá.

Tri huyện gầy nhom, mắt một mí lúc nào cũng xoay như chong chóng đón gió. Ông ta tự tay rót nước, mùi chè quện với mùi thơm thanh tao của nhị sen thật dễ chịu. Từ ngày lấy Laglan, cô uống cà phê, chén chè sen cho cô cảm giác khác lạ.

- Nghề ướp chè sen ở huyện này đúng là danh bất hư truyền trong thiên hạ. Các nhà buôn Hà thành vẫn tự ướp và xuất khẩu sang Hương Cảng nhưng sang bên đó họ cho đóng hộp, làm nhãn rồi bán cho khách. Rồi cái hộp ấy lại lộn về xứ ta, ai cũng khen ngon nhưng có biết đâu nó là của ta. Chè Hà thành cũng ngon, được nước nhưng không được hương như ở xứ ta đây - Lan nịnh quan huyện.

- Thưa bà quan tư, các cụ nhà ta sành lắm, cây sen ở vũng đồng trũng, nước đọng nhụy bao giờ cũng thơm hơn sen trong hồ. Bà quan tư quả là người biết thưởng chè... Thưa bà, đinh các làng chờ từ sớm ở sân sau, chắc bà sẽ ngạc nhiên, đông vô kể ạ...

- Vậy thưởng xong chén này ta ra luôn, làm sớm kẻo nắng rồi cũng để họ còn về làm việc nhà.

- Bà quan tư xót dân thế thì huyện tôi được nhờ...

Nói xong Tri huyện quay sang nhìn Lan, ý như “tôi làm tốt thế bà phải có thưởng cho tôi”. Lan hiểu ý cười.

- Người ta bảo tôi cười với ai là người đó có lộc, vậy là ông có lộc rồi đấy.

Ký lục chạy vào.

- Thưa bà, mọi việc đã xong mời bà ra ạ.

Dù quan huyện khoe nhưng Lan vô cùng bất ngờ, cả một rừng tráng đinh, cô thầm nghĩ “thế này chẳng lo thiếu phu”.

Đàn ông làng Bình Thơ nghe mộ phu cũng rủ nhau đi, tháng ba ngày tám, công việc đồng áng rỗi rãi, lũ trẻ đã phải trèo vào trong bồ mới xúc được nắm thóc mang xay rồi. Lan mặc quần lĩnh đen, áo năm thân màu đỏ cài khuy, khăn nhiễu điều, tóc bỏ đuôi gà đứng trên một gò đất cao mới đắp, giọng tròn mà âm đanh.

- Thưa các bác, các chú, các anh, các em, tôi là Tư Hồng chủ công ty thầu khoán Tư Hồng An Nam, công ty tôi vừa trúng thầu phá tường thành Hà Nội. Vì thế tôi cần tuyển một nghìn phu tuổi từ mười bảy đến bốn nhăm. Công việc cụ thể là dùng xà beng, cuốc chim phá tường, chở đất lấp hào, lấp ao hồ. Một số thì đẽo gạch và làm các việc vặt khác. Để công việc tiến triển thuận lợi, tôi sẽ chia thành từng đội, mỗi đội có bốn tổ, mỗi tổ có bốn nhóm, mỗi nhóm tám người. Nhà thầu có lán cho phu ở, cơm nhà thầu nấu cho ăn ba bữa. Phu sẽ được trả công ba xu một ngày, nhóm trưởng ba xu hai, tổ trưởng ba xu rưỡi, đội trưởng một hào một ngày. Nhiều huyện ở các phủ khác nhã ý muốn đón tôi về nhưng tôi sinh ra, lớn lên ở vùng đất này nên tôi muốn mang việc về quê hương mình, nếu mộ không đủ, tôi mới đi nơi khác. Tôi có mười bàn đăng nhập, các thầy ký sẽ nhìn người cất nhắc làm trưởng nhóm và tổ trưởng, còn chức đội trưởng do tôi chọn. Ai nghĩ mình phù hợp tôi đón chào, ai thấy công sá thấp không làm cũng chả sao.

Kế chia thành đội, tổ và nhóm là do chồng cô bày cho, bắt chước kiểu chia binh của quân đội Pháp. Chờ không còn tiếng lao xao, Lan nói to:

- Giờ xin hỏi công xá như vậy có được không?

Tiếng đáp lại vang cả một góc trời.

- Được!

Một nhóm toàn người trung tuổi, áo nâu cũ, tóc búi rối bàn tán.

- Chủ cho ăn, có chỗ ngủ, đi Hà Nội nhà thầu chịu tiền, được quá còn gì.

Đám trai mới lớn háo hức. Một anh người thấp, cổ to, đùa:

- Chuyến này đi cố gắng xem cái ấy của con gái tỉnh thành có khác ở quê không.

Tất cả cùng cười ha hả. Bốn ông tách hẳn đám đông không hào hứng.

- Công thấp hơn làm thợ đấu, nhưng khan việc thì làm cũng được.

Đám đinh Bình Thơ té ngửa quây lại một góc, một ông gầy guộc mắt trắng dã bô bô:

- Tưởng Tư Hồng là ai, té ra là con đĩ Cầu Nôm, về thôi anh em ơi.

Một ông đứng tuổi níu kéo.

- Cứ vào đăng ký, nó có biết ai vào ai đâu.

- Nó không biết nhưng về làng, họ hàng nhà nó khinh cho, chửi con cháu người ta giờ lại bám váy đĩ. - Ông mắt trắng dã giọng sin sít.

Một trung niên lên tiếng.

- Ai về cứ về, tôi đăng ký, nhà tôi húp cháo chục ngày nay rồi. Hôm trước con vợ ra thành Nam xin chân nhuộm sợi cho hãng dệt mụ Bá Chín Hội, công một xu mà phải tự lo ăn, tự lo ở. Đi làm ngày ba xu còn có thể mua cái trùm [4], gần năm mươi vẫn chưa có nổi, ra thiên hạ chả sao về làng cũng nhục lắm.

Nhìn quanh, trung niên này thì thầm:

- Này các vị ơi, chả thấy người nhà con đĩ Cầu Nôm đâu nhỉ?

Ông mắt trắng dã ra điều rành chuyện.

- Cả họ tuyệt giao rồi, về quê cấm bước vào nhà thờ tổ.

Một tráng đinh tiếp lời.

- Tôi chưa vợ nhưng cũng muốn kiếm chút tiền mua chức lềnh [5], không có gái làng chê bạch đinh không lấy. Này các bác, con đĩ Cầu Nôm lấy quan Tây lắm tiền thế còn mộ phu làm gì nhẩy?

Ông trung niên tỏ vẻ hiểu biết:

- Thời buổi nhố nhăng, tiền là trên hết, không có tiền nói chó nó nghe.

Ông mắt trắng im bặt. Tri huyện Trần Trọng Trí đứng lên gò đất xua xua tay ra hiệu im lặng rồi oang oang:

- Dân huyện Vụ Bình vô cùng biết ơn bà quan tư mang phúc về cho huyện nhà. Mọi việc quan bà đã phổ biến hết rồi. Tôi chỉ nói thêm, tất cả trai đinh xếp thành hàng, ghi tên theo thứ tự, ai chen ngang gây rối lập tức sẽ bị bắt nhốt. Mời anh em xếp hàng đăng ký đi.

Mọi người tự động đứng thành hàng. Ông trung niên hà hà:

- Đăng ký trước biết đâu làm đội trưởng!

Rất nhiều đinh Bình Thơ ùa ra, một số ít lưỡng lự. Lan mừng thầm ghé tai ký:

- Cứ để họ đăng ký nhưng xếp vào các tổ khác nhau.

Anh ký cúi đầu chạy vội vào đám đông. Cái lưỡi họ chửi mình nhưng cái dạ dày họ cần mình. Gần chục năm cô chưa về làng chưa thắp nén hương cho cha mẹ, cũng từng ấy năm cô không gặp thằng Lân. Cô thấy cần phải về.

Xe ngựa dùng ở đầu làng. Cô biết họ họp và từ cô, còn cấm vào nhà thờ tổ. Mắt cô rưng rưng, cô không vào làng mà đi thẳng ra bãi tha ma. Hai nấm mộ cô và Hà chuyển sang chỗ mới trong đêm mưa trong họ không ai biết vì vẫn còn bốn cây dứa dại trồng bốn góc.

Cô thắp hương và khấn.

Con là Trần thị Lan, lâu lắm con về thắp hương cho cha mẹ, xin cha mẹ tha tội cho đứa con bất hiếu. Con về quê mà chẳng dám vào làng thăm hai bên nội ngoại, con sợ chú Sáng và thằng Lân lại bị họ hàng đay nghiến, dân làng lại được dịp xỏ xiên phỉ nhổ vì người ta vu cho con làm đĩ, con lấy chồng thực dân. Hai chị em chỉ cách nhau mấy trăm thước mà không thể gặp mặt, đau xót quá cha mẹ ơi. Mà có về con cũng chả biết chú và thằng Lân có nhận cháu nhận chị không. Con đau thắt mà chưa biết làm cách nào để rửa tiếng oan để cha mẹ nơi chín suối không tủi hổ nhưng con hứa sẽ có ngày con rửa sạch tiếng oan ấy, con tin con làm được. Hôm nay con về thắp hương cho cha mẹ mong cha mẹ phù hộ độ trì để công việc phá tường thành của con thuận buồm xuôi gió, không gặp trắc trở. Con lạy trăm lạy, nghìn lạy cha mẹ.

Khấn xong Lan quỳ lạy ba lạy. Lạy xong cô tìm mộ ông bà hai bên nội ngoại thắp hương. Rồi cô lặng nhìn cây đa, tuổi thơ như trôi trước mặt.

Nghe tin chị về huyện thằng Lân vừa mừng vừa sợ. Mừng vì chị về lại mộ phu. Chị nó phải là cai mới mộ phu tức là chị nó không làm đĩ như dân làng rêu rao. Nó không hiểu vì sao chị giàu nhanh thế. Nhưng nó sợ nhiều hơn mừng, nhân cớ này kẻ mồm loa mép giải đi ngang mặt lại nhổ nước bọt. Ông Sáng cũng thừ ra chẳng biết sẽ xử sự với cháu thế nào, bàn thờ bố mẹ nó đặt ở nhà ông, nó thắp hương không nhẽ đuổi nó ra. Không đuổi ông trưởng họ lại tẩy chay cả hai chú cháu. Dân Bình Thơ có tục trọng xỉ hơn trọng tước [6]. Ông trưởng họ đã ngoài bát tuần nên “bất nhập đình trung”, làng có việc ông không phải ra đình mà dân còn phải mang cỗ mặn, cỗ ngọt đến tận nhà. Ngược lại ý ông tức là chống đối, như thế mạng vạ. Hai chú cháu thờ thẫn ngồi trên hè đất. Chưa biết tính sao thì trưởng họ sai cháu gọi đến họp. Đến nơi, đinh họ Trần đã đầy đủ, chẳng thiếu một ai. Lân chui vào một góc còn ông Sáng ngồi mép hè. Tất cả im lặng. Chẳng ai nói với ai lời nào. Chỉ có tiếng rót nước vối tè tè, tiếng rít thuốc lào cô độc. Mọi người nhao lên khi thằng cháu đích tôn của họ chạy vào, nó nói như sợ cướp lời:

- Đúng là chị thằng Lân, ban đầu không nhận ra, trông hồng hào không đen đúa xấu xí giống hồi còn ở làng. Nó tuyển một nghìn phu...

Nghe nhắc đến chị, Lân nghểnh tai. Mọi người nhìn nhau ý muốn hỏi “Làm đĩ sao nó lại mộ phu?”. Ông trưởng họ giải tỏa.

- Để thằng cháu Lân nói trước, họ Trần đã từ rồi, nhưng nó là chị cháu, cháu có muốn đi làm với chị mày không?

Thằng Lân đứng lên lí nhí:

- Thưa... Cháu là đinh họ Trần mà...

Trưởng họ giọng kẻ cả:

- Đấy, cả họ nghe rõ cháu Lân nó nói đấy. Không ai đi làm phu cho con Lan cả, xoay cách khác, ai thiếu quá đến tôi cho mượn. Ai cố tình, họ từ luôn, có như vậy mới cho cả cái làng này không còn khinh họ nhà ta nữa. Đứa nào cạnh khóe mà đi làm cho con Lan thì ta ỉa vào mặt chúng nó.

Vừa lúc ấy cháu nội ông trưởng họ chạy về, vừa nói vừa thở:

- Cô ấy đang ở bãi tha ma.

Trưởng họ đang hút thuốc lào bật dậy oang oang.

- Bố nó nhưng là họ nhà ta, cháu Lân ra mời chị mày đi ngay cho bố cháu nơi suối vàng khỏi tủi hổ.

Mọi người dồn về phía thằng Lân, có ánh mắt thương cảm kín đáo, có ánh mắt chờ đợi. Thằng Lân biết không thể chống lại ý ông trưởng họ, nó miễn cưỡng đứng dậy. Chị nó cũng là con bố mẹ nó, đuổi chị không được thắp hương nó thấy bố mẹ thiệt thòi. Nó bước chậm chạp. Ông Sáng chẳng dám nhìn cháu, cúi mặt xuống sân đất. Ông biết nó khó xử.

Nó ra tha ma. Thật may nó không phải đuổi vì chị nó đã đi. Nó chậm chạp quay về.

- Chị ấy đi rồi...

- Biết nhục thế là tốt!

Trưởng họ nói xong rít thuốc lào. Không ai nói ra nhưng nhìn bộ mặt họ, ông Sáng đoán ai cũng tiếc một cơ hội kiếm tiền.

3.

Dồn phu vào lán, thuê người gác cổng có cái hay là ngăn được kẻ bên ngoài vào kích động phá rối. Làm bếp ăn chung còn tránh được chuyện phu tự nấu ăn dễ gây hỏa hoạn, lại không mất vệ sinh, phòng được bệnh dịch lúc giao mùa. Hiểu ý này của Lan, ký Bưởi thuê khoảng đất trống rộng đầu làng Thụy Khuê, ngay sát hồ Tây làm lán để phu vừa có nước tắm rửa lại là hàng rào thủy ngăn họ trốn ra ngoài chơi đêm vì không phải tính ai cũng thuần. Từng dãy nhà ngang dọc thẳng tắp lợp lá cọ đã xong từ mấy hôm trước. Mỗi gian, ký Bưởi cho đặt các tấm ván làm giường. Mới hai mươi tuổi và đây là lần thầu đầu tiên nên ký Bưởi làm cẩn thận vì muốn gây danh tiếng.

Sáng nay, nhóm phu đầu tiên đã nhập lán, quần áo nâu cũ rách, chân đất cầm theo bọc quần áo trông thảm bại nhưng ai cũng phấn khởi, có việc làm sẽ có tiền gửi về nhà nuôi vợ con. Vào trong lán, đám phu trung tuổi ngạc nhiên sao lán tử tế thế. Họ từng làm đường đi Sơn La, chỗ ăn chỗ ngủ sơ sài hơn nhiều. Mùa đông rét tê tái, ban đêm ra ngoài vừa lạnh lại sợ hổ nên vạch chim đái ngay trong lán, cai cũng kệ, mấy năm sống chung với mùi hôi thối.

Lan đứng đầu đường dẫn vào lán đón họ, vừa thân mật mà vẫn ra dáng chủ thầu. Cô có ý xem mặt đinh làng Bình Thơ nhưng chưa thấy. Dân quê thật cả tin, chỉ vì một bài thơ mà họ hùa vào nghiệt ngã với cô dù chẳng biết hư thực thế nào. Cô thấy thương họ hơn là trách. Ký Bưởi đứng bên cạnh vẻ mãn nguyện, cậu ta nháy mắt đong đưa. Cô đáp lại bằng nụ cười đầy ẩn ý.

* * * * *

Trời vẫn còn tối. Thành phố chưa thức giấc. Chỉ có đám lính gác cổng đeo súng đi lại. Theo lệ động thổ phải cúng tam sinh. Bà Mùng đặt cái mâm đồng sáng bóng có thủ lợn, gà luộc và con cá chép rán chín lên gò đất cao được chuẩn bị từ chiều. Bà rót rượu ra ba chén hạt mít. Laglan đánh diêm cho vợ thắp hương rồi đứng bên cạnh. Lan dằn dỗi bắt ngủ riêng mấy ngày Laglan mới chịu khấn cùng. Ông ta là chủ gia đình, năm nay được tuổi làm việc lớn, thiếu ông ta việc khó thành.Cô rút trong túi bài khấn mà Trúc soạn hộ.

Con xin lạy trời lạy đất, lạy quan thổ địa xóm chài ven sông Tô, lạy quan thành hoàng Long Đỗ. Con cũng xin cúi đầu lạy các vua triều Lý, triều Trần, triều Lê. Con là Tư Hồng vợ của quan tư Laglan, đáng lẽ chồng con phải làm chủ lễ nhưng chồng con là người Pháp, không biết phong tục An Nam nên con xin thay mặt đứng lễ kính mong trời đất, các quan, các ngài thương hoàn cảnh nhận cho lời cầu khấn của con.

Hôm nay chúng con thành tâm sắm lễ, có lá trầu quả cau thắp nén tâm hương dâng lên trước án có lời thưa rằng: chúng con phá tường thành, kính cáo các quan các ngài soi xét và cho phép con được động thổ. Chúng con không dám tự ý động đến cõi linh, chốn thiêng gây náo loạn cho các quan ngài mà làm theo mong muốn của quan lớn. Nếu có hành tội xin quan ngài hành tội họ, chúng con cũng chỉ là kẻ làm thuê

Chúng con cúi xin các quan ngài chứng giám lòng thành, thụ hưởng lễ vật, độ cho chúng con vạn sự tốt lành, công việc hanh thông, chủ thợ bình an. Con cũng xin phổ cáo với các vị tiền chủ, hậu chủ và các vị hương linh, cô hồn y thảo phụ mộc phảng phất quanh khu vực này xin các vị tới đây thụ hưởng vật, phù trì tín chủ cũng như chủ thợ đôi bên khiến cho an lạc, công việc nhanh chóng, vạn sự như ý. Chúng con lễ bạc tâm thành, trước án kính lễ cúi xin được phù hộ độ trì.

Khấn xong cô quỳ sụp lạy. Laglan bắt chước vợ quỳ xuống lạy ba lần. Bỗng nhiên ba que hương bùng cháy, bà Mùng sợ quá vái lia lịa, “Con lạy ngài Lý Thái Tổ, con xin lạy Lý Thường Kiệt, con lạy ngài Trần Hưng Đạo, con lạy các ngài, chúng con lễ bạc nhưng tâm thành, mong các ngài đừng quấy quả, con chắp tay trăm lạy, nghìn lạy các ngài”. Mở mắt ra bà thấy lửa đã tắt chỉ còn đốm đỏ trên đầu que hương. Bà bảo cháu:

- Các ngài phù hộ cho cháu đấy.

Laglan không hiểu. Lan mừng trong bụng.

Trời đã sáng. Phướn xen lẫn cờ ba sắc cắm hàng dài trên mặt thành lộ ra. Ánh sáng mặt trời buổi sớm chiếu vào cổng chào kết bằng lá dừa được cài thêm hoa trông thích mắt. Lan cho dựng lễ đài bằng gỗ cao ngang tường thành. Tiếng trống hội tung tung, phường sư tử bắt đầu múa vòng tròn trên lễ đài. Phía dưới, phu đã xếp hàng dọc theo từng đội chờ đợi. Ba hồi trống vang lên báo hiệu lễ động thổ bắt đầu. Ngài Đốc lý tay cầm loa sắt hình sâu kèn dõng dạc:

- Thưa các quý quan! Thưa các quý bà và quý ông! Hôm nay Tư Hồng An Nam làm lễ động thổ, thay mặt Tòa đốc lý xin chúc mừng công ty thành công. Thưa quý quan khách, quân Pháp đóng quân trong bốn bức tường thành là biểu hiện của sự thống trị, sẽ thân thiện hơn nếu tường thành bị phá dỡ. Và hôm nay Tư Hồng An Nam sẽ làm việc đó. Tôi tuyên bố lễ động thổ bắt đầu.

Ông Đốc lý cầm cuốc chim bước ra mặt thành bố mấy nhát tượng trưng sau đó trao cuốc danh dự cho Lan. Cô nhận cuốc bổ xuống ba nhát rồi hô to:

- Thắng lợi!

Phu đồng loạt hô theo, âm thanh dội vào tường vọng lên vang trời. Tiếng vỗ tay rầm rầm. Đốc lý bắt tay Lan. Quan khách chúc mừng. Chờ khách ra về, Lan cầm loa sắt dặn dò:

- Trước khi bắt tay vào công việc, tôi có vài điều muốn nói với anh em, chúng ta tin nhau, không làm văn tự, không điểm chỉ nhưng anh em phải đảm bảo đi làm đúng giờ theo kèn binh. Hết giờ tất cả nhanh chóng rời công trường, tránh xa các khu vực nhà binh, ai cố tình bị qu`an Tây bắt giam người đó tự chịu và nhà thầu không giả công. Phải làm việc hết mình theo phân công của nhóm trưởng, tổ trưởng, ai chống lệnh nhà thầu cắt luôn tiền công. Ai gây gổ đánh nhau sẽ bị đuổi việc. Trong lúc làm việc chẳng may bị tai nạn chảy máu phu nhanh chóng đến lán cứu thương để đốc tờ băng bó. Phu không được phép đưa người lạ vào lán trại, ai cố tình không nghe cũng sẽ bị đuổi việc không trả tiền. Nhà thầu thanh toán tiền công đúng hẹn, vào ngày mồng Một và ngày rằm.

- Bà quan tư muôn năm! Bà quan tư muôn năm!

Có phu hăng quá còn vung cả cuốc chim lên trời.

- Và sau cùng, vào ngày đầu tuần, nhà thầu sẽ có hát chèo, hát xẩm ngay tại lán mua vui cho anh em.

Ở dưới phu lại hô vang:

- Bà quan tư muôn năm! Bà quan tư muôn năm!

- Bây giờ công việc bắt đầu!

Các đội trưởng dẫn phu về địa điểm được giao từ chiều qua. Phillippe xuất hiện, ông ta bắt tay Lan, giọng cảm phục:

- Nhìn thấy hàng nghìn phu khí thế, bây giờ tôi mới tin. Chúc bà thành công, hy vọng có cơ hội hợp tác cùng bà.

Lan không đáp chỉ cười. Chờ Phillippe đi hẳn, tú Khai thẽ thọt:

- Lệ xưa cấm đàn bà lên mặt thành, bà là người đầu tiên phá lệ... trông bà oai như một nữ tướng trong lịch sử.

Lan biết tú Khai nịnh nhưng cô vui vì “kẻ có chữ nịnh nó cũng khác”.

Tường thành xây bằng gạch bản to trông có vẻ ngon xơi song chẳng dễ tí nào. Đại bác Pháp bắn ngày 25-4-1882 cũng chỉ gãi ghẻ cổng thành phía Bắc. Người xưa xây bằng mật trộn với vôi, hai thứ này càng rắn theo thời gian nên xà beng nhọn đánh xuống không tách ra được.

- Thưa bà quan tư, có lẽ phải tìm cách nào đó mới được - Tú Khai trình bày.

- Truyền lệnh tôi ai có sáng kiến sẽ thưởng tiền.

Thấy không yên, Lan xuống công trường tận mắt nhìn phu làm ăn thế nào, bất chợt cô nhìn thấy Hà, mặt mũi khắc khổ, râu ria lởm chởm. Cuộc đời thật éo le, có vẻ anh ta nhìn mình, Lan rẽ phải sang đội khác.

* * * * *

Từ hôm ngờ ngợ bà chủ chính là Lan, Hà chểnh mảng hẳn. Ngay cả lúc đang đẩy xe gạch đầy ứ anh ta cũng ngó nghiêng đâm cả vào xe ngược chiều. Sự việc lặp lại nhiều lần khiến gã tổ trưởng bực bội.

- Tao sẽ báo đội trưởng cho mày nghỉ.

- Xin anh bỏ quá, tôi sẽ cẩn thận hơn.

- Không xin xỏ gì hết.

- Tôi xin anh, anh bỏ qua tôi biếu anh nửa kỳ lương.

- Mày nhớ đấy nhé... Này, tao để ý mặt mày lúc nào cũng nhớn nhác, mày tìm ai?

Thằng Hà ghé tai thì thầm, gã tổ trưởng lắc đầu cười nhạt...

- Đừng có dựng chuyện, mày muốn ăn đòn và ra khỏi đây phỏng?

Hà chột dạ, cũng có thể nó nhầm, ở đời thiếu gì người giống nhau. Một con bán xáo trâu đi theo thằng buôn gạo ở Hải Phòng không có chuyện bỗng chốc thành bà chủ vợ Tây giàu tú hụ. Nghĩ thế nhưng nó đinh ninh bà ta chính là vợ cũ, “cô ta bỏ anh chồng buôn gạo lấy chồng Tây thì sao?”. Một con đàn bà dám bỏ một người như nó theo giai thì anh chồng Tàu là cái thá gì? Ý nghĩ ấy luẩn quẩn trong đầu. Thời còn là vợ chồng, nó rất thích đếm nốt ruồi trên người vợ, nó vạch cả kẽ chân cậy bùn khô để tìm. Cô ta có nốt ruồi đỏ ở đầu ti ngực trái. Nó chợt nhớ da thịt Lan lúc nào cũng tỏa ra mùi thơm ngai ngái, dại dại luôn hút nó. Lần hai vợ chồng sang làng bên chơi hội, người đông như phu trên công trường, chen chúc, mải nghe anh chèo diễn hề mồi nó bị lạc vợ. Loanh quanh toát mồ hôi, cô nào cũng áo tứ thân, đầu vấn khăn, cuối cùng thì nhờ mùi ấy nó tìm được. Nếu đứng cạnh nó sẽ biết ngay có phải vợ cũ hay không. Và nó tin cô ta khó quên dáng lều nghều của nó, nhiều lần cô ta cười sằng sặc như cặc phải vôi khi đầu nó sưng như quả ổi vì đập trán vào gióng ngang cửa ra vào. Rồi nó lại phân vân, nếu đúng vợ cũ, giáp mặt nhau sẽ nói gì? Cô ta sẽ lờ không quen? Cô ta mắng mỏ nó “thấy người sang bắt quàng làm họ” và sai người đuổi đi? Bát nước đã nguội từ lâu. Nó cũng lấy vợ và có con. Cưới hỏi đàng hoàng. Vợ mới luôn nghe và sợ nó. Nó đăng ký đi làm vì muốn kiếm tiền nuôi gia đình, hoàn toàn không biết ai là chủ.

Đang cúi lưng đẩy xe cút kít thì có người ăn mặc gần giống lính khố đỏ bảo nó dừng việc đi theo. Nó nổi da gà, đoán được ngay đi gặp ai. Mới vào đến cửa, vẫn mùi thơm ngai ngái như ngày nào. Lan khoát tay cho người hầu ra ngoài. Bao năm tìm kiếm vô vọng, bất ngờ gặp cô ta trong hoàn cảnh trớ trêu.

Nhìn Hà khúm núm, dáng vẻ khổ sở, tóc xơ vì cháy nắng, Lan thấy thương hại. Cô bỏ không phải vì nghèo mà Hà là loại đàn ông đụt chí. Thỏa mãn khi lấy được cô vợ đẹp, hài lòng ngày kiếm được dăm trinh. Chẳng nghĩ xa hơn cái quán xáo trâu. Cô theo Hồng có một phần trả ơn đã cứu thằng Lân, nhưng hơn cả cô nhìn thấy ông ta giàu nghị lực.

- Cám ơn anh quá vất vả chuyển mộ cha mẹ tôi trong mấy đêm mưa gió.

Nói xong Lan đưa cho Hà gói tiền đã chuẩn bị sẵn. Hà chợt hiểu, đó không phải là quà cám ơn, đó là tiền công và cô ta muốn nó nghỉ việc. Chắc cô ta không muốn có người biết rõ chuyện xưa ở đây, hoặc cô ta thương hại. Hà lắc đầu:

- Công tôi bao nhiêu xin bà trả bấy nhiêu... và tôi chỉ xin bà một ân huệ cho tôi làm khi ở đây xong việc...

Lan không thể ngờ Hà nói được những câu như vậy.

- Thôi được, anh về làm tiếp đi.

Hà đoán gói tiền gấp nhiều lần tiền công cả năm của nó. Nó cũng hiểu được ở lại làm là sự đánh đổi, nó phải câm họng đừng hó hé chuyện cũ của hai người với bất cứ ai. Lủi thủi đi ra nhưng nét mặt nó tươi hơn. Nó tiếc vì không hỏi câu mà bao năm nó không tự trả lời “cô cho cái gì vào rượu sao hôm đó tôi say thế”. Được một đoạn nó lén quay lại nhìn rồi rảo chân.

* * * * *

Lan ngồi trong phòng chỉ huy, bên cạnh có bốn tráng đinh lực lưỡng sẵn sàng nhận lệnh của cô truyền xuống các đội. Đang mải nghĩ thì Hồng đột ngột xuất hiện. Giống như hai lần trước. Ông ta mặc quần hai ống áo cánh hai túi kiểu An Nam, chít khăn nâu cũ che nửa phần đầu không tóc và cũng để giấu cái bím vào trong. Lan ra cửa mắng toán gác vì cho ông ta vào. Một anh phu nắm hai tay phân trần:

- Thưa bà, ông ta bảo là chú ruột bà ở quê ra báo tin có tang nên chúng con mới cho vào ạ...

Lan khoát tay, đám tráng đinh ra hết. Hồng chẳng nói gì. Ông ta ngây ngây nhìn cô, mắt không chớp. Trò gì nữa đây? Linh cảm mách bảo ông ta vẫn rất yêu cô.

- Tôi vô cùng biết ơn cô đã cứu tôi khỏi tù tội. Nhờ cô chuyển lời biết ơn của tôi tới ngài quan tư độ lượng...

Lan biết đó chỉ là sự câu mào đầu. Ông ta can đảm đến đây không chỉ để nói những câu như vậy.

- Tôi biết cụ thể vị trí chôn bạc trong thành... ta có thể bàn bạc để đào lấy số bạc đó. Số bạc lớn gấp nhiều lần số tiền lãi cô thu được từ phá thành...

Ra là vậy. Ngọt nhạt, dọa dẫm là vì kho bạc này. Cô hoàn toàn bất ngờ, tại sao vua quan phải chôn số bạc lớn trong thành?

-... Nếu chúng ta hợp tác được với nhau, số bạc tìm được sẽ chia đôi...

Lời đề nghị làm Lan lúng túng. Phu của cô chỉ được phép đi lại trong khoảng vài chục thước tính từ chân thành. Chả biết kho bạc nằm trong hay ngoài giới hạn cho phép. Tiền thì người âm cũng cần. Vua có cả kho vàng vẫn tham. Nhưng liệu ông ta có gài bẫy? Nhỡ đang đào ông ta đi báo ngài thống sứ, chứng cứ rành rành làm sao cãi được? Và không chỉ bị tịch thu mà có thể hợp đầu thầu sẽ bị đình lại trao cho nhà thầu khác. Đắn đo định trả lời không thì cảnh binh Pháp từ hai ngả ập vào, họ bắt Hồng giải đi ngay. Tráng đinh chả dám báo cảnh binh nếu cô không ra lệnh hay cảnh binh đã theo dõi ông ta?. Ông ta không phản ứng, ra đến cửa ngoái còn lại nhìn cô, ánh mắt rực vẻ oán hận. Laglan nghe tin vội vàng tìm vợ. Lan kéo chồng ra một góc thì thầm.

- Ông ta muốn đưa người vào đào kho bạc chôn dưới chân thành. Đã bao giờ anh nghe ai nói về kho báu này chưa?

Có lần loáng thoáng nghe nói về kho bạc này, lục lọi trong đầu, Laglan nhớ người kể là anh bạn cùng ra Bắc Kỳ năm xưa, nhưng anh ta đã về Pháp. Đâu như khi thành Hà Nội thất thủ năm 1873, Tổng đốc Nguyễn Tri Phương không kịp trở tay nên quân Pháp thu được một khối lượng lớn vàng, bạc nén và tiền đồng. Lần chiếm thành năm 1882, quân Pháp cũng thu được một số bạc và tiền đồng nhưng không nhiều và chẳng ai nghi ngờ vì sao lại ít hơn lần trước. Vị trí kho lương và tiền của triều Nguyễn đặt ở phía bắc thành, nơi này từng là bệnh viện dã chiến cứu chữa binh lính tham gia bình định Bắc Kỳ bị thương. Thảo nào sau khi Pháp chiếm thành được mấy năm, đúng ngày tết Trung chính, Tòa đốc lý tổ chức trò chơi cho binh lính và dân Pháp ở sân gần kỳ đài trong đó có đua xe tay. Họ bắt phu mặc áo đỏ, quấn xà cạp chở theo một người Pháp bụng to, anh nào về nhất thì Lo Ky, Hoa thương gốc Quảng trao thưởng. Lo Ky ngồi xe bắt phu chạy nhiều vòng, chắc có ý quan sát vị trí kho báu chăng?

- Chuyện chôn bạc có thật không?

- Có thật, hàng năm, vua Tự Đức cấp ngân khố cho đại diện triều đình ở Bắc Kỳ để nuôi bộ máy quan liêu, lính tráng và đắp đê chống lụt.

- Là người nhà binh, theo anh quân lính của quan bố chánh sẽ chôn bạc ở khu vực nào?

Laglan chau mày. Nếu bị tấn công bất ngờ, quân lính của tổng đốc sẽ chôn quanh khu vực kho bởi họ chẳng có thời gian. Nhưng trước khi thành thất thủ, Hoàng Diệu có nhiều thời gian hơn Nguyễn Tri Phương nên rất có thể quan bố chánh cho chôn xa hơn để đánh lừa quân Pháp, chờ cơ hội quay lại thành.

- Để anh xem kỹ bản đồ mới có thể dự đoán được. Mà sao em không đồng ý ngay?

- Chưa kịp nói gì cảnh binh xông vào bắt đi rồi.

Vẻ mặt của Laglan đầy tiếc rẻ.

Chú thích:

[1] Thư tín Hải Phòng.

[2] Nay là phố Thanh Hà.

[3] Cảnh đã khác, người đã khác.

[4] Chức mua bằng tiền, làng bán cho đàn ông ngót nghét năm mươi tuổi. Chức này chỉ có ở vùng Sơn Nam Hạ.

[5] Đàn ông dưới ba mươi tuổi có quyền mua chức này, mang tính tượng trưng.

[6] Trọng người cao tuổi hơn trọng người có chức sắc.