← Quay lại trang sách

Chương 6 (tt)

Làng Bình Thơ thưa vắng người, trai đinh đã theo Lan ra Hà Nội phá thành cả. Ai về hiếu hỉ xong cũng vội đi ngay, chậm một ngày mất tiền một ngày. Chỉ còn đinh họ Trần, sáng ra ao kiếm mớ cá rồi về hút thuốc vặt. Mọi năm vào tháng nước cạn còn có người thuê đào ao, vật đất vì thợ đấu Bình Thơ có tiếng khắp vùng. Năm nay chờ mãi chẳng thấy ai gọi. Không nói nhưng đinh trong họ gặp nhau ai cũng lắc đầu.

Từ ngày nhà gái trả lễ, thằng Lân như kẻ mất hồn. Xong việc đồng về nhà nó lặng như cái bóng, chú thím hỏi câu nào giả lời câu ấy. Có lúc mặt nó hằm hằm, đó lúc nó tức tối chị để nó phải hứng chịu cảnh ê mặt. Cha mẹ con bé kia lúc đầu cũng thông cảm “cam làm cam chịu” nhưng người ngoa ngoắt chẳng buông tha “sợ con ế chồng hay sao mà phải ép nó làm em dâu con đĩ”. Lại có kẻ ác khẩu vu “chắc đồng cảnh mới tương lân”. Thế là cha mẹ cô ta đành trả lại trầu cau. Từ hôm đó, cứ nhìn thấy bóng Lân con bé tránh mặt. Ông Sáng uất ức. Ức chị nó, ức nhà kia lật lọng, ức cả cái làng thối mồm thối mõm. Nhìn nó như bã thuốc lào ông an ủi cháu:

- Không lấy gái làng thì lấy gái thiên hạ. Cứ từ từ chú thím dạm cho một đám.

Nó vâng dạ cho qua chuyện. Nó hiểu khó nhà nào chấp nhận nó làm rể ngay cả khi con gái người ta bị câm, bị điếc.

Mấy ngày nay ông Sáng cũng trầm ngâm, vợ ông tưởng mệt giục đi bắt mạch. Ông chưa dám nói với thằng Lân chuyện hôm trước chị nó cử người về bí mật gặp mời nhà ông và thằng Lân ra Hà Nội. Đi thì sẽ bị từ vì họ ông đang thắng thế trong làng. Trưởng họ ra đình bóng gió sỉ vả những đứa từng chửi con Lan là đĩ giờ thấy đít nó có cứt lẽo đẽo theo như chó. Không ai dám lên tiếng, ông càng được thể. Nếu bỏ đi chắc ông ấy đau lắm. Nhưng không đi cũng chẳng biết trông vào đâu mà có cơm, ăn cháo mãi mềm người, lúa mới ra đòng, tháng nước cua cá khó bắt hơn. Đang bế tắc chưa biết đi hay ở thì bà Mùng bất ngờ xuất hiện. Bà bảo ông khép cổng rồi thì thầm to nhỏ. Ông tặc lưỡi quyết. Vợ ông cũng gật đầu. Bà lay từng đứa dậy ghé tai nói nhỏ. Nghe đi Hà Nội cả bốn đứa tỉnh ngủ. Gà gáy canh một, cả nhà rón rén lặng lẽ ra đầu làng, tiếng chó sủa gâu gâu rồi im bặt. Hai chiếc xe ngựa đã chờ sẵn giữa cánh đồng. Xà ích tháo hết chuông, con ngựa đi chầm chậm trong ánh trăng thượng tuần. Sớm hôm sau, cháu đích tôn họ Trần đến thúc ông Sáng tiền góp sửa nhà thờ, thấy cửa đóng, gọi không ai nghe, anh ta ghé mắt qua khe, bên trong im ắng. Vừa quay ra đường, ông cụ hàng xóm mách:

- Chắc cả nhà đi đêm qua rồi, lúc gà gáy canh một, chó nhà tôi sủa ầm ĩ.

Anh ta chạy như bay về nhà trưởng họ báo lại. Tức điên người, ông sai ngày nào cũng đến ỉa một bãi khi nào sân đầy cứt thì thôi.

Mọi người phải chạy việc cả nên văn phòng chỉ còn hai vợ chồng ông Sáng. Ông được cháu giao làm chân trông coi còn vợ ông lau dọn đun nước pha chè. Lương trả theo kiểu người nhà, trừ tiền thuê nhà, tiền ăn uống hàng tháng hai vợ chồng cũng dư ra một món. Vợ ông giằng lấy giắt vào thắt lưng. Nếu không có cháu, tháng này vợ ông mò cua hăm bẹn còn ông ngâm nước đánh dậm nhợt dái. Ra Hà Nội đã khá lâu nhưng thành phố này vẫn còn biết bao điều bí ẩn. Lúc rỗi việc, ông ngồi trước cửa ngắm phố và bắt đầu nhìn xe tay chạy qua biết xe tư hay xe của cai. Mấy giờ thì bà bán cháo đậu xanh đi qua, mấy giờ cô hàng chè ngồi nhờ trước cửa.

Sáng nay ông không ngồi trước cửa mà lẩm bẩm tiếng Pháp. Những ngày Lan ra công trường, anh ký đi Vĩnh Yên giao rau, có điện thoại gọi đến nói bằng tiếng Tây là ông chịu chết, đành cúp máy. Nhiều lần như vậy ông tức mình quyết học tiếng Tây. Nhờ anh ký dạy chay nhưng có hôm anh bận việc cả ngày không đến văn phòng ông lại nhờ ông Vẹn. Ông Vẹn hát xẩm từ bé, lúc nào cũng phải học lời nên bắt chước khá nhanh. Ông lẩm nhẩm:

Tôi đi là Moa-a-lê [1]

Rê-vây thức dậy, Cu-sê đi nằm [2]

Toa ba, cát bốn, sanh năm [3]

Xa-lông phòng khách, La-săm cái buồng [4]

- Cháu nó đã cho hai đứa học tiếng Tây rồi sao ông không học cái chữ Nho để thỉnh thoảng viết sớ cho tôi khấn có hơn không?

Ông Sáng nhìn vợ ra điều không biết gì thì đừng nói. Rồi bà phá đám.

- Nhiều đêm nằm nghĩ con Lan nó thuê hàng nghìn phu thì một tháng giả không biết bao nhiêu tiền. Tôi chả hiểu nó làm thế nào mà nhiều tiền thế, hay Laglan làm quan tư lương cao, lắm bổng lộc?

Chuyện đó mấy lần ông hỏi anh ký, lương quan tư cũng cao nhưng có tích cóp cả năm chỉ đủ trả cho một nghìn phu được vài tháng là sạch. Một lần ông Vẹn thì thầm với ông, có việc con Lan vẫn phải nhờ chồng nhưng nó giỏi lắm, quan hệ, tính toán đâu ra đấy. Chỉ tính riêng hợp đồng cung cấp rau và thịt cho đồn binh Vĩnh Yên một năm tiền lãi đầy hòm.

- Lương quan tư của chồng nó ăn thua gì.

Vợ ông lè lưỡi. Chợt nhớ hôm nay hai đứa con được nghỉ học, ăn xôi sáng xong lôi thằng Lân đi chơi phố, gần trưa mà vẫn chưa về bà sốt ruột. Rồi bà mếu máo. Ông Sáng tức vợ định quát thì Lan về. Theo sau là ông Vẹn, thằng Lân và con ông. Bà tươi tỉnh. Nhưng hình như có chuyện, vì mặt con Lan căng thẳng. Đúng là có chuyện. Lan xua tay ra hiệu cho các em về nhà rồi vẫy vợ chồng bà vào gian trong. Bốn người chụm đầu thì thầm.

Laglan ra tận nơi chỉ các vị trí nghi ngờ quan bố chánh cho chôn bạc rồi lảng đi ngay. Ông Sáng, ông Vẹn và mấy đứa trẻ thay nhau đào. Phu đang làm xung quanh cũng chẳng để ý, họ mải việc họ.

Ngày đầu đào hai hố sâu hai thước nhưng không chạm chum hay bồ. Tối về Lan lầu bầu. Lgalan cười:

- Đó chỉ những chỗ đáng nghi ngờ nhất, cứ đào tiếp đi tôi tin thế nào cũng chạm.

Đến ngày thứ ba thì nhát mai chắc nịnh của ông Sáng bị chặn lại bởi một vật cứng. Kinh nghiệm thợ đấu mách bảo lưỡi mai đã chạm vào một vật bằng tre. Xắn hết lớp đất quả nhiên lộ ra miệng cái bồ. Ông Sáng ra hiệu mọi người quây lại để che mắt phu xung quanh rồi cậy nắp, toàn bạc nén. Ông Sáng định nhặt, Lan ngăn, bảo đậy nắp và lấp lại. Tất cả ớ ra nhìn Lan không hiểu.

- Các cụ nói được bạc thì sang, được vàng có sự, đây là bạc chứ có phải vàng đâu mà cháu sợ?

- Chú nghe cháu lấp lại, chiều nay không đào nữa.

Ông Sáng chưng hửng, đoán cháu có ý gì nhưng chưa tiện hỏi. Buổi tối về Laglan thấy vợ trầm ngâm trên xa lông.

- Chiều nay đào có tìm thấy gì không?

- Một chum bạc nén, em đã cho lấp lại.

Laglan tròn mắt, không hiểu ý vợ.

- Đào chỉ cốt để kiểm tra Hồng nói thật hay nói dối thôi. Bọn họ không ăn được sẽ đạp đổ, thế nào cũng báo với Thống sứ Bắc Kỳ...

- Bọn họ không chỉ địa điểm, sao biết mình đào được?

- Nhưng họ biết thế nào vợ chồng mình cũng kiếm tìm... Chuyện vỡ lở, Bazin cắt ngay hợp đồng vì mình vi phạm. Chưa biết chừng còn bị tòa xử tội ăn cắp tài sản nhà nước. Hay anh muốn em đi tù?

Biết vợ nói đúng, Laglan im lặng. Ông thầm phục cô vợ An Nam biết nhìn gần nhìn xa. Ông mở cửa sổ. Toàn thành yên tĩnh. Lan ôm lưng chồng. Cô vuốt người ông rồi xoắn túm lông ngực. Laglan rú lên, cô bỏ chạy. Ông đuổi vợ quanh gian phòng. Tiếng chân rầm rầm làm con Thơm và con Nụ tỉnh giấc, hai đứa hé cửa phòng thấy ông bà nằm trên sàn âu yếm. Con Nụ xấu hổ thụt vào, còn con Thơm nhìn thêm một tí mới nhẹ nhàng khép cửa.

5.

Mặt ký lục tái mét, Lan biết có chuyện chẳng lành. Sáng nay dân Kim Tang không bán rau cho công ty như đã thỏa thuận hôm kia. Sợ sai hẹn với doanh trại Vĩnh Yên, ký lục tự ý cho mua gom nhưng chẳng chợ nào trong vùng còn bắp cải. Và anh ta phải lên tận nơi xin lỗi ngài chỉ huy, và tường thuật lại sự việc. Ông ta lắc đầu, bảo “Lý do gì tôi không bận tâm, tôi chỉ biết theo đúng lịch, hôm nay chúng tôi phải có su hào hoặc bắp cải, tôi giải thích binh lính thông cảm nhưng sức khỏe họ giảm sút, cấp trên đâu có thông cảm cho tôi?”

- Cậu hỏi dân bảo sao?

- Họ nói mình chỉ thỏa thuận miệng, không đặt cọc nên ai trả giá cao là họ bán.

- Ai mua số bắp cải đó cậu có biết không?

- Thưa bà, không ạ...

Ký lục đi. Lan sai gọi ông Vẹn đến dặn dò tỉ mỉ. Hôm sau ông Vẹn về lắc đầu.

- Đúng là có bọn chơi xỏ. Sáng nay chú cho người rình thấy bốn xe ngựa nhận rau rồi chở về chợ Cái Bùng bán thấp hơn giá mua cho cánh buôn chuyến mang lên mạn ngược. Chú cũng theo một tên và biết chính xác chỗ nó ở.

Bọn họ muốn cho công ty cô vỡ hợp đồng. Nhưng chuyện này có liên quan đến vụ nửa tháng trước hai mươi con ngựa bị tháo hết móng sắt không?

Theo thỏa thuận, cứ bốn ngày, Lan phải chở hai mươi xe ngựa rau lên doanh trại Vĩnh Yên, còn thịt bò, thịt lợn thì hai ngày một chuyến. Để lúc nào cũng đủ rau, Lan sai ký lục đi khắp vùng hữu ngạn sông Cái, nơi đất phù sa hợp cho trồng các loại rau đặt mua trước, lại mặc cả bao giờ cũng cao hơn chợ hai giá. Lan còn thuê đất cho dựng lán làm kho ngay mép đường tiện đưa rau về và chuyển đi. Việc tiến triển thuận lợi thì xảy ra chuyện hai mươi con ngựa ì ra, dứt khoát không chịu đi khi đang chở bí đỏ. Phu xe xem xét mặt đường, ngó kỹ hai bên nhưng chẳng có gì bất thường. Họ kiểm tra bốn chân ngựa cuối cùng phát hiện mặt sừng bị tháo hết móng sắt. Đường dài, mấp mô lại chở nặng không có móng sắt, ngựa không chịu nổi nên ì ra. Cuối cùng ký lục phải thuê hơn trăm đàn bà gánh lên doanh trại. Hàng ngày cưỡi ngựa nên viên chỉ huy hiểu móng sắt vô cùng cần thiết, ông ta thông cảm việc chậm trễ và lại thấy vui vì có rất đông chị em. Nhưng tại sao hai mươi con ngựa đều bị tháo móng? Chắc chắn ban đêm có kẻ đột nhập vào chuồng làm việc đó? Hay đó chỉ là trùng hợp ngẫu nhiên?

Nhờ bí mật và kiên trì bám theo nên ông Vẹn đã lần ra tên cầm đầu của bọn phá bĩnh. Dù không biết đứng sau gã là ai nhưng Lan muốn đưa vụ việc ra tòa vì tội gây thiệt hại tài sản người khác. Laglan lắc đầu không đồng ý:

- Mình có thể thắng kiện nhưng họa vẫn treo lơ lửng, bọn họ sẽ tiếp tục thuê kẻ khác giở trò bẩn và ta luôn ở thế bị động đối phó. Để anh nghĩ kế triệt tận gốc họa này.

Lan thấy chồng nói đúng. Và giờ cô hiểu tại sao ông Quang Minh không mở công ty. Cô không thể tự đứng ra giải quyết việc này, cần phải có một người đầy uy quyền can thiệp, người đó không ai khác ngoài đại tá Croibies. Ông ta thông minh, có tài thuyết khách. Laglan chưa nói hết câu chuyện, Croibies biết ngay có bàn tay Hoa thương.

Croibies gia nhập quân đội sau khi tốt nghiệp khoa thần học trường Sorbonne. Trước khi sang An Nam, Croibies bỏ hơn một tháng vào Thư viện Paris đọc các cuốn sách và tập san viết về An Nam. Ông đọc kỹ cuốn Lịch sử chính trị, tự nhiên xứ Đàng ngoài của thầy tu Richard xuất bản thế kỷ XVIII để hiểu sâu hơn về nơi mình sẽ đến. Và điều làm ông chú ý chính là những đoạn nói về người Hoa ở An Nam trong cuốn sách này. Croibies đặc biệt quan tâm đến cung cách buôn bán của họ. Sang Hà Nội khi chính phủ Pháp vừa mở lãnh sự ở Đồn Thủy, tiếp xúc với Hoa thương, ông ta thầm phục tác giả cuốn sách nhận xét quá xác đáng về họ. Suốt thời gian quân đội Pháp bình định các tỉnh trung du, miền núi và chống phong trào Cần Vương, Yên Thế, ông có trách nhiệm lo thực phẩm cho Sở chỉ huy chiến dịch Bắc Kỳ. Ông nhận thấy các nhà cung cấp người Pháp không sánh được với Hoa thương về mọi mặt. Họ chia nhau mỗi người nhập một mặt hàng, hỗ trợ nhau tiền bạc và nếu một công ty nào đó có thể vỡ hợp đồng, họ xúm vào giúp đỡ. Không có họ, quân Pháp ở Bắc Kỳ sẽ thiếu thốn lương thực và thực phẩm. Họ lấy được lòng tin với quân đội Pháp đến mức nhiều công ty Pháp bực bội “chúng ta hy sinh ở xứ An Nam để cho họ làm giàu sao”. Năm 1886, khi tổng trú sứ Paul Bert bổ nhiệm thành viên phòng Thương mại Hà Nội, dù nhà buôn Pháp chiếm ưu thế nhưng không thể thiếu giới kinh doanh Hoa kiều. Thậm chí trước đó, Đốc lý Hà Nội đồng ý cho họ có chân trong hội đồng thành phố. Chính phủ bảo hộ ưu ái bởi họ đóng thuế nhiều nhất cho thành phố, vốn đang rất cần tiền để xây dựng và giải quyết các vấn đề của một xã hội đang chuyển.

Hai vợ chồng cô “cầu cạnh”, ngài Croibies nhận lời ngay vì ngoài tình đồng hương, Croibies từng mang ơn Laglan, nếu không có Laglan giúp, sao ông nhận được huân chương của Bộ Hải quân.

Quán cà phê Bên Hồ vắng khách, Langlan và Croibies chọn góc khuất trên tầng hai. Chưa nóng chỗ, thương nhân mà Croibies mời đã xuất hiện, ông ta vội vàng xin lỗi ngài đại tá và Laglan vì có công việc đột xuất. Laglan cũng từng nghe Croibies nói về người “có tóc” này. Ông ta không trực tiếp buôn bán nhưng có quyền lực tối cao ở nhiều công ty lớn. Các hợp đồng giá trị giữa quân đội Pháp và Hoa thương đều do ông ta thương thảo. Bím tóc dài đến giữa lưng, vóc dáng cân đối, chắc ông ta tập một môn võ Trung Hoa nào đấy.

- Tôi mời ông đến vì chuyện hôm trước - Coibies vào chuyện.

Ông ta tươi cười, nụ cười toát ra sự khôn khéo.

- Thú thật với ngài đại tá và ngài quan tư, tôi không hề biết chuyện đó, tôi ở Hương Cảng gần một tháng, đúng hôm nghe dây nói của ngài là tôi vừa về Hà Nội.

- Ngài quan tư đây phụ trách một phòng trong cục của tôi, ngài là chồng của cô Tư Hồng, nhà cung cấp thực phẩm cho đơn vị ở Vĩnh Yên - Croibies giới thiệu.

Ông ta bắt tay và kèm theo một câu chắc học của người Pháp.

- Thật hân hạnh cho tôi được làm quen với ngài. Không biết tôi có giúp được gì cho ngài đại tá và ngài quan tư không nhưng tôi sẽ cố gắng.

Nói xong ông ta xoay sang ca ngợi vợ Laglan là phụ nữ xinh đẹp, tài giỏi nhưng lời lẽ không hoa mỹ càng làm Laglan thấy ông ta vô cùng khéo léo. Ngài đại tá chạm nhẹ vào đùi Laglan ý nói việc đã được giải quyết.

Công việc phá thành ì ạch chưa đúng thời gian do chồng vạch ra, cô chọn vị trí cao nhất quan sát nhiều ngày liền, cuối cùng mới tìm ra nguyên nhân. Không phải phu lười biếng, họ chăm chỉ từ sáng đến tối. Thủ phạm chính là bộ tóc dài. Vì chỗ nào cũng đất cũng đá, lại vào tháng khô, chỉ một cơn gió bụi tung lên bám đầy đầu tóc. Ai cũng búi song họ không gội hàng ngày nên đang xe đất cơn ngứa nổi lên họ phải dừng lại gãi. Người đục tường mồ hôi dòng dòng ngứa đầu cũng gãi, và mỗi lần gãi công việc phải tạm dừng. Trẻ con An Nam bé thì để chỏm, lớn lên để tóc dài búi tó, đó là phong tục, bảo họ cắt bỏ là rất khó. Lan đến tận lán thuyết phục.

- Tôi thấy các bác, các anh suốt ngày gãi đầu, cả trăm người gãi khiến công việc chậm hẳn đấy. Không hoàn thành đúng thời gian họ phạt tôi là tôi không có tiền giả cho các bác đâu.

Một người cãi:

- Ngứa mà không gãi bà bảo chúng tôi làm gì cho hết ngứa?

- Nếu các bác húi cho tóc ngắn thì gội đầu nhanh khô hơn, tối nào cũng gội, đầu sạch bụi thử hỏi còn ngứa không? Các bác xem đàn ông Hà Nội còn mấy ai để tóc dài đâu? Người ta còn khuyên đàn bà cạo răng đen cho văn minh, huống chi mình là đàn ông.

Mọi người nhìn nhau, cha sinh mẹ đẻ đã thế rồi. Bỗng nhiên Thiên xuất hiện làm Lan thêm lần bất ngờ, một người bí ẩn, hôm đón phu vào lán cô đâu thấy anh ta.

Anh ta xoa đầu và nói:

- Tóc ngắn như tôi chả bao giờ ngứa. Nam Định bây giờ đầy người để tóc ngắn, mình có phải nhà Nho đâu mà để búi tó mới có chỗ gài bút.

Lan thầm cám ơn anh ta đã gỡ bí cho mình.

- Các bác ở thành thị, có ai để ý đâu, xong việc về quê lại để dài, tóc mọc nhanh mà.

- Bà chủ nói đúng, nhưng bây giờ ai xén cho chúng tôi?

- Chuyện đó chả lo, tối mai có người đến xén cho các bác.

Lan định gặp riêng anh ta hỏi chuyện Hồng, nghĩ sao lại thôi, đi thẳng lên phòng chỉ huy.

Buổi lễ sáng ở nhà thờ kết thúc, cha Gendreau mời vợ chồng Lan vào phòng riêng. Cánh cửa lim ngăn cơn gió lạnh mùa đông nhưng Lan vẫn cảm thấy căn phòng lạnh lẽo cho dù củi trong lò sưởi đang cháy.

- Ta có chuyện muốn nói với hai con.

Vợ chồng cô cùng dỏng tai chờ đợi.

- Ta biết con đi lễ vì chồng con, lời lẽ của ta chưa đủ làm con tin có đức Chúa, ta hy vọng một ngày nào đó con sẽ thông thánh...

Lan vẫn cùng chồng đến nhà thờ vào ngày Chủ nhật nhưng Laglan đi công tác thì cô ở nhà. Dù rất cố gắng song cô không sao hiểu nổi ý nghĩa bài giảng của cha Gendreau.

- Thưa cha, xin cha cho con thời gian...

- Không thể ép khi con người chưa có đức tin. Hôm nay ta muốn nói chuyện khác, số người An Nam có đức tin ngày càng nhiều, nhà thờ muốn mở trường dòng mang tên đức ông Puginier, đất đã mua ở phố Carreau [5] giờ còn thiếu gạch... Ta muốn xây bằng gạch các con phá tường thành vì nó đẹp và rắn chắc hơn gạch mới. Còn chuyện thứ hai là ta cũng nhận đỡ đầu cho dòng tu nữ Les Filles de Saint Paul, họ muốn xây trường Sainte Marie [6] cho các nữ đồng trinh và thu nhận học sinh nữ An Nam muốn học tiếng Pháp cùng môn toán, nhà thờ đã dành đất ở phố Rollandes cho họ, cộng đồng Saint Paul sẽ bỏ tiền ra xây, ngài Toàn quyền Lanessan cũng đồng ý trợ cấp ba nghìn frăng, họ muốn mua gạch... Ý các con thế nào?

Lan nhìn chồng. Laglan nháy mắt ra điều cô nên nói nói.

- Thưa cha, bổn phận làm con chiên của Chúa nên vợ chồng con xin hiến tặng số gạch để nhà thờ dùng vào hai việc trọng.

Cha Gendreau lắc đầu:

- Ồ không, nhà thờ không lợi dụng lòng tốt của hai con. Ta biết vợ chồng con cũng chả được lợi bao nhiêu trong vụ thầu này...

- Cám ơn cha, cha nói vậy xin cha cho vợ chồng con bàn bạc và sẽ thưa lại vào buổi lễ sau.

Thứ cũ kỹ bị phá bỏ không ngờ lại rất có giá trị. Chả riêng nhà thờ, nhiều nhà giàu có ở Hà Nội đánh tiếng muốn mua để xây nhà.

Trên đường về, Laglan băn khoăn. Tại sao vợ ông ham học mà cô ta lại không hiểu bài giảng của cha Gendreau? Cô ta không muốn theo Công giáo và đi nhà thờ chỉ vì đó là tôn giáo của chồng? Định bụng về nhà sẽ hỏi. Ông giục xà ích cho ngựa chạy nhanh hơn.

6.

Làng Vũ Thạch của cử Hiền chỉ còn lại vài xóm. Tòa đốc lý đền cho ít tiền bắt phải di dời để họ xây phố mới. Có ông không chịu nằm lăn ra cản thì ban đêm họ thuê côn đồ đốt nhà. Ngày nào cũng có cảnh cha dắt đứa lớn, vợ bồng đứa bé đến nơi ở mới, lại chứng kiến phu chặt hạ cây đa bóng che cả xóm mà không ngăn nổi, xe cút kít kìn kìn chở đất lấp ao hồ lòng cử Hiền đau thắt. Nhưng cụ đau hơn vì thành không còn, đau mà vẫn phải đứng trơ ra chứng kiến.

Bức tường dày chắc thấp dần, từ ngoài nhìn vào đã rõ trại lính. Cả tháng nay phu xe Thổ Sơn, xe kút kít chiếc này vào, chiếc kia ra đầy ự đất. Cái hồ rộng gần chục mẫu mà cụ và nhà Nho Lê Đình Diên từng hái hoa sen về thờ giờ cũng hẹp dần, ruộng xưa lính cấy lúa đất san cũng cao gần bằng mặt lối đi.

Phía bắc, Tam Sơn, nơi Hoàng Diệu tuẫn tiết giờ chẳng còn dấu tích, cây bàng đã bị đốn hạ, xót thương vị tổng đốc xứ Quảng kiên gan, cụ khóc mấy ngày rồi lăn ra ốm. Trúc nghe tin vội vã đến thăm nhưng cụ quay mặt đi. Phía đông, dân làng Tân Khai ngay sát hào thành kêu oai oái vì Đốc lý đền cho quá ít, không đủ tiền làm nhà mới. Hội đồng thành phố có người An Nam nhưng chỉ là bù nhìn, Tây liếc mắt phải giơ tay biểu quyết theo ý họ nên chả biết kêu ai. Chức hiệp lý Hà Nội vừa bị bãi bỏ mà có còn cũng chẳng giúp gì được dân. Hà Nội sống theo luật Pháp quốc rồi.

Dinh tổng đốc, dinh tuần phủ tan hoang, cạnh đó mọc lên mấy dãy nhà lính. Hôm cụ sang phía tây thành, ngó vào điện Kính Thiên đã không cầm được nước mắt, bài Quân minh thần lương của Lê Thánh Tông văng vẳng bên tai.

Cao Đế anh hùng cái thế danh

Văn Hoàng trí dũng phủ doanh thành

Ức Trai tâm thượng quang khuê tảo

Vũ Mục hưng trung liệt giáp binh...

Điện đã bị phá để làm sở chỉ huy pháo binh giờ còn gì họ phá nốt, chỉ còn đôi rồng đá mất hồn. Một hôm cụ đang nhìn dân phu lấp hào thì có mùi thơm quẩn quanh. Không cần quay lại, cụ biết là Tư Hồng thế là đi thẳng. Từ đó cụ không bao giờ đến thành nữa. Lan đem chuyện phàn nàn với Trúc.

- Cụ còn giận cả tôi, sĩ phu Bắc Hà mà...

Câu nói của Trúc làm Lan nhớ lại bài thơ mà nguời làng cứ gán cho cô.

Những kiêu gạch cũ dài hàng trăm thước Tây vơi dần vì người đặt mua đã thuê chở về. Riêng số gạch dành cho nhà thờ vẫn nguyên vì cha Gendreau dứt khoát bắt cô phải nhận tiền. Các kiêu gạch phía ở phía Tây cô sai chuyển hết về Cửa Đông và làng Hội Vũ để xây nhà cho mình. Hai chiếc ghế đá thời Lê dành cho các quan ngồi chờ bên ngoài điện cô sai phu chở ra Bờ Hồ làm chỗ nghỉ chân cho dân. Nhớ lần chú Sáng kể ông trưởng họ bắt đinh đóng góp xây lại nhà thờ, cô muốn tiến họ tộc phần gạch, nhưng phân vân cô hỏi ông Sáng.

- Chú không chắc ông ấy có đồng ý không, để hôm nào chú về thưa chuyện...

Lan muốn chú thu xếp càng nhanh càng tốt, thuê xe ngựa chở về xếp trên đất nhà chú. Nếu ông trưởng họ lắc đầu cô biếu số gạch đó cho cô chú xây nhà. Về quê giỗ chạp còn có chỗ mà ở. Lan cũng nảy ra ý mua một miếng đất ở làng xây cất gian nhà tử tế. Cũng là để cho làng biết gan con Lan.

Chuông đồng hồ nhà thờ lớn đánh một tiếng, đoàn xe ngựa lên đường. Để an toàn, cô thuê bốn tráng đinh to khỏe, biết võ nghệ đi theo bảo vệ. Lan không để chú Sáng về, cô muốn tự nói chuyện với ông trưởng họ. Laglan cũng định theo nhưng Lan ngăn chờ dịp khác. Cô biết dân làng nhìn cô đi với ông Tây mắt họ lại ngứa ngáy. Ba chiếc xe chạy một mạch, sáng thì về đến làng.

Lần về mộ phu, cô không vào làng, sợ ông trưởng họ làm khó dễ chú Sáng và thằng Lân. Mười mấy năm xa quê, làng không đổi khác, vẫn nhà tre tường đất mái lợp rạ. Đám trẻ cởi truồng, mũi rớt dãi thấy người lạ bám theo. Vài người lớn tuổi cười ruồi, “Cháu về chơi đấy à”. Cũng nhiều người tránh ra bên đường. Cô dừng lại trước gian nhà từng là nhà cô. Có lẽ rất lâu người nhà Lý Tung không sửa, nó xập xệ, vách đất lở từng đám, vườn đầy cỏ. Chắc quan tài bố đặt ở mé đường này. Lan ứa nước mắt, tiếng kèn tò te tí te vọng về bên tai cô.

Bước vào nhà trưởng họ, Lan thấy ông đang ngồi quạt phành phạch bằng mo cau. Trời nóng mà ông vẫn áo the khăn đóng trông ngốt mắt. Lan chào nhưng ông xoay người không trả lời. Cô đã nghĩ đến thái độ này.

- Xin phép ông cho cháu được thắp nén hương cho hai cụ...

Chẳng cần đợi ông trưởng họ đồng ý, Lan đi thẳng vào bàn thờ. Ông hơi nghiêng người, chắc định cấm nhưng lại ngồi im. Lan lấy diêm thắp ba nén hương rồi để lên đĩa ba chục đồng. Cô rầm rầm khấn. Ông nhất quyết không thèm nhìn.

- Cháu biết ông giận... bây giờ thì ông đã rõ người làng vu cho cháu... cháu không làm họ Trần mang tiếng... ông xem họ vu oan giá họa nhưng cháu có thèm chấp đâu, vẫn nhận họ làm phu, thế mới là con cháu họ Trần...

Ông trưởng họ chẳng động tĩnh. Lan đoán ông nghe kỹ từng câu.

- Thưa ông, biết họ sắp sửa nhà thờ... mà bố mẹ cháu mất cả... chị em cháu xin được đỡ hết phần gạch xây... gạch xây cung vua, cung chúa ngót nghìn năm, tuy cũ nhưng còn lành và tốt hơn gạch mới... đó là lòng thành của chị em cháu với tổ tiên... mong ông và trai đinh trong họ nhận cho...

Cái quạt không còn phành phạch như lúc cô mới vào, ông nhẹ tay hơn.

- Giờ cháu xin phép ông cháu ra Hà Nội kẻo giữa đường trời tối.

Chào xong Lan đi ra. Cô đoán ông sẽ ngẫm kỹ những lời cô nói.

Gần nửa tháng nay, ngày nào cũng có xe ngựa chở gạch về Bình Thơ. Gạch xếp đầy vườn nhà ông Sáng, cái sân đất trước cửa nhà chỉ hở lối đi vào cho một người. Đinh làng biết gạch do chính tay họ phá. Và họ bàn tán những ngày ở Hà Nội.

Từ hôm Lan về nói chuyện, ông trưởng họ bối rối, bảo không nhận gạch lấy đâu ra tiền mua gạch mới mà nhận thì xấu hổ với nó. Lại thêm kẻ cố chấp chưa buông tha, tai ông không nghe nhưng con cháu mách vẫn có kẻ bóng gió.

- Nhờ một nhúm tóc rối mà họ có gạch xây lại nhà thờ.

Vài năm nay nhà thờ dột mái, vôi trát tường đã lở từng mảng, có chỗ lõm sâu vì trẻ con lấy mảnh trùng trục cạo gạch non chơi bán hàng. Nếu không sửa e vài ba năm nữa mái sẽ sụp. Hôm trước con Lan về thưa chuyện ông có nói gì đâu. Họ nhà ông nhận viên gạch nào đâu mà thiên hạ độc mồm độc miệng thế. Khốn nạn quá. Mấy ngày liền ông không nuốt nổi miếng cơm nào. Ông cho cả họ đi rình, bắt quả tang kẻ nào nói, lớn bé cứ đánh què cẳng ông chịu nhưng chưa bắt được ai.

Hôm nay ông lại cho họp họ bàn có nhận hay không số gạch chị em Lan tiến họ. Một ông trưởng chi bèm bẹp cái mồm:

- Ông trưởng quyết, chúng tôi theo.

- Quyết được tôi đã quyết rồi.

- Thì mọi lần ông vẫn quyết đấy thôi!

- Lần này khác.

Chẳng ai nói gì. Liên tục chỉ có tiếng điếu rít. Không khí im lặng kéo dài, một ông trưởng chi khác nhấp nhấp cái môi thâm sì vì chè thuốc.

- Tôi không biết ý các chi thế nào, riêng chi nhà tôi nhất quyết không nhận, tiền không mua được hết và không nhận cũng để làm gương cho con cháu trong họ tránh xa những thứ tai tiếng. Dột đã dột rồi, dột ta khắc phục, “không ai giàu ba họ, không ai khó ba đời”, ta phải sửa nhà thờ bằng đồng tiền đẫm mồ hôi.

Chẳng ai nói thêm. Ông trưởng họ miễn cưỡng gật đầu.

Chú thích:

[1] Moi aller

[2] Réveiller; Coucher.

[3] Trois; Quatre; Cinq.

[4] Salon; La Chambre.

[5] Nay là phố Lý Thường Kiệt, quận Hoàn Kiếm. Pierre Paul Carreau (1836-1883), sĩ quan Pháp, đến Hà Nội năm 1883.

[-] Nay là khu vực bệnh viện Việt Nam-Cu Ba trên phố Hai Bà Trưng, quận Hoàn Kiếm.