← Quay lại trang sách

Chương 7

Hợp đồng hoàn thành trước thời hạn, công ty Bazin đã thanh toán hết tiền, Lan thanh thản vô cùng. Cô tự thưởng cho mình chuyến đi chơi. Cô không ngồi xe ngựa, muốn đi xe tay cho dân Hà Nội biết mặt con mụ Tư Hồng to gan. Chiếc xe bóng loáng chạy quanh hồ Gươm rồi dừng trước cửa đền Bà Kiệu, ngôi đền thờ ba nữ thần là công chúa Liễu Hạnh, đệ nhị Ngọc Nữ và đệ tam Ngọc Nữ bị Tòa đốc lý phá một nửa lấy đất làm con đường quanh hồ. Cô thắp một nén hương cầu mong ba nữ thần phù hộ.

Xe chạy xuống phía nam, Tòa đốc lý trông lạnh lẽo vì tường vôi trắng toát. Bên tay phải, ngay mép hồ là cây gạo khá cao, hoa nở đỏ trên cành. Loại này thường được trồng ở giữa cánh đồng hay đầu làng làm nơi trú ngụ cho ma quỷ. Hóa ra Tây cũng mê tín, họ trồng để ma quỷ tụ ở đây, không vào Tòa đốc lý quấy nhiễu. Dưới một tí là chùa Báo Ân, nay chỉ còn lại tháp Hòa Phong cô đơn, vài cây cỏ trên đỉnh nghiêng nghiêng theo gió. Vị trí chùa xưa giờ là nhà bưu điện hai tầng, gian giữa gắn chiếc đồng hồ tròn nhưng lấy theo giờ Paris. Hơn mười năm Pháp chiếm, Hà Nội hoàn khác. Phố Paul Bert với tấm biển bằng sơn mài do Bá Kim, hào mục làng Vũ Thạch tặng đứng lẻ loi trên cột gỗ. Chỉ có Tây. Người An Nam vào phố này, nếu không công chức phải là dân giàu có lượn lờ mua những món đồ đắt tiền. Nhìn chiếc xe tay mạ thép sáng loáng, ngồi trên xe là một đàn bà An Nam, viên cảnh sát ra hiệu phu dừng xe. Lan vênh mặt:

- Mày cứ đi, bà chịu.

Chiếc xe chậm lại. Thằng xe đảo mắt nhìn viên cảnh sát phồng mồm huýt còi. Nó buộc phải dừng xe. Lan không xuống xe, giọng đanh đá:

- Tư Hồng đây!

Viên cảnh sát lại gần, từng biết cái tên Tư Hồng trên báo, biết qua các cuộc rượu, hôm nay anh ta mới nhìn rõ mặt. Trông cũng đáng nể.

- Xin lỗi bà.

Thằng phu cho xe chạy tiếp. Các cửa hiệu bán quần áo, bánh mì, quán rượu san sát. Khi còn bán gạo, cô từng đến đây, phố đang xây ngổn ngang. Lan bảo phu xe dừng ở khách sạn Con Gà Trống, cô vào quầy gọi cốc kem. Cô chả hiểu tại sao lại mê món này. Mùi thơm, vị béo ngậy luôn kích thích cô. Mùa đông lạnh buốt, cá hồ Gươm chết cóng mà cô vẫn ăn. Hôm nào bận việc không đi được cô sai người ra mua mang về. Đầu tuần cô ăn kem sôcôla, ngày tiếp theo kem hạnh nhân rồi đến kem sữa.

Ăn xong cô uống cốc nước tráng miệng, vội nhổ phì phì, Tây đầm ngoái nhìn. Hầu bàn An Nam chạy lại.

- Thưa bà, khăn đây ạ!

- Nước gì mà cay thế? Lan nhăn mặt.

- Thưa bà, nước bạc hà để xúc miệng... không phải nước uống ạ...

Lan lầu bầu:

- Xúc miệng phải bằng nước chè chứ.

Trả tiền xong cô đi ra. Đột nhiên cô sai phu xe chạy đến nhà ký Bưởi cuối phố Tràng Thi. Ngôi nhà có gác xây theo kiểu mới. Sau khi thầu làm nhà cho phu, ký Bưởi mở công ty riêng, buôn bán ngày một phát đạt. Kém Lan sáu tuổi nhưng dứt khoát không xưng em, đôi khi nhìn cô bằng đôi mắt long sòng sọc. Ký Bưởi có nhà. Áo gilê vải satanh đen mặc bên ngoài chiếc sơmi màu trắng, đầu chải sáp bóng mượt ra cửa đón Lan.

- Hôm nay hạ cố đến nhà tôi chơi hẳn là chị có việc...

Ký Bưởi nói đúng, từ khi nổi tiếng ở xứ Bắc Kỳ, người đến nhờ vả cầu cạnh suốt ngày khiến cô như trung tâm của thành phố nên chẳng muốn thăm ai. Lan chum chúm cái miệng:

- Tôi đến vì việc dân việc nước, không phải vì việc riêng.

Ký Bưởi cười vang, điệu cười vừa sang vừa uy lực.

- Bà chị lên quan từ bao giờ đấy? - Hỏi xong lại ha hả.

- Tôi nói thật mà. Cậu có nghe cụ cử Lương văn Can nói rằng người An Nam cần phải thực nghiệp không? Nghe tin cậu trúng thầu cung cấp gỗ cho Công ty Hỏa xa Đông Dương nên tôi đến xin việc đây... thế chả là thực nghiệp thì là gì?

- Có việc cho chị đây.

Ký Bưởi có thói quen chờ người nghe sốt ruột mới nói tiếp. Phải chờ lâu Lan quay mặt ra đường.

- Ông Roque, chủ hãng tàu ở Hải Phòng, người từng bị băng cướp Lưu Kỳ bắt cóc đòi năm mươi nghìn đồng tiền chuộc, chán kinh doanh ở Bắc Kỳ đang muốn bán lại ba con tàu sông pha biển với giá rẻ. Ông ta vừa mời nhưng tôi đang chóng mặt vì xuất khẩu ngô và đang đấu thầu thu thuế ở chợ Vinh thêm cả chợ Nam Định nữa, tôi nghĩ chị làm được...

Nghe Ký Bưởi nói Lan quay lại:

- Hay tôi với cậu kinh doanh chung?

- Tôi bỏ tiền nhiều chỗ quá nên không còn vốn. Trước sau tôi sẽ kinh doanh vận tải sông biển, nhà buôn An Nam ngày càng nhiều, nghề đấy sẽ đi lên... với lại tôi thấy Tây Tàu hoành hành, bắt chẹt giá mà nhà buôn phải chịu. Tôi xuất ngô tôi biết, tức lắm.

Nhìn dáng vẻ tươi trẻ của ký Bưởi, cô rạo rực trong người. Ngay lần tiếp xúc đầu tiên, Lan đã bị vẻ mặt nam tính của cậu ta mê hoặc. Quen hơn, cậu ta càng thu hút nhanh nhẹn, quyết đoán, nói là làm, làm là được. Mấy lần Laglan đi công tác, cô chủ động mời cậu ta ăn tối và chia tay bằng nụ hôn. Có lần cô ở lại đến nửa đêm mới về. Lại sát bên, Lan hích tay vào sườn.

- Ngon ăn sao cậu không làm mà xui tôi?

Ký Bưởi chẳng để cô phải chờ lâu, một tay ôm ngang lưng tay kia nâng chiếc váy, đứng giữa nhà hôn nhau...

Về nhà Lan đánh điện ngay cho ông Roque. Ông ta hứa sẽ chuyển cho cả mối bán gạo sang châu Phi. Kinh nghiệm mách bảo Roque đang rất cần tiền và giả rẻ ông ta cũng bán. Chồng chị Ba đã nghỉ hưu, nếu mời chắc sẽ nhận lời đảm nhận việc giao dịch với mối hàng châu Phi. Đó mới chỉ là thuận lợi ban đầu. Thủy thủ có muốn tiếp tục làm cho cô không? Thằng Lân chẳng dư dả sức khỏe và ngờ nghệch liệu có gánh vác được công việc mua thóc? Mà việc này lại không thể giao cho người ngoài, chỉ cần họ tăng mỗi yến lên hai giá thì một tàu thóc đã mất khá tiền. Chú Vẹn nhanh nhẹn nhưng xay xát là việc hoàn toàn mới. Lan chìm vào tính toán. Ngày còn ở với Hồng, dù ông ta không nói, cô cũng biết buôn gạo chẳng hề dễ dàng.

Mấy ngày nay Laglan thấy vợ ngẩn ngơ, ông ta cọ râu vào bộ ngực nhưng hàng ria cứng chẳng còn tác dụng, đầu vợ không co lên, bàn tay cũng không che ngực để chặn những sợi râu lia xuống phía dưới bụng. Chắc cô ta đang tính toán làm gì tiếp theo vì công việc phá tường thành đã xong, cung cấp thực phẩm vào nếp.

- Em muốn làm thêm nghề xuất khẩu gạo.

Laglan trợn mắt, mồm há tròn nhìn vợ như nhìn vật thể lạ. Còn điên hơn cả phá tường thành. Toàn những việc khó mà cô ta lại không có kinh nghiệm, còn ông không đỡ được vì nó chẳng liên quan đến quân đội và ông cũng chẳng hiểu biết chút nào. Hoa thương buôn gạo ở Bắc Kỳ cách đây mấy chục năm, họ có nhiều bí quyết và mưu mẹo, liệu có cạnh tranh được với họ? Đặt tay lên trán vợ, Laglan lo lắng:

- Canh bạc này mạo hiểm quá... phải mất nhiều trí tuệ và công sức mới có được chút vốn...

Laglan vốn là loại người chỉ làm cái gì mình thạo, mình hiểu. Biết chồng có lý nhưng ký Bưởi mở mồm hẳn cậu ta đã quan sát và tính toán kỹ lưỡng, cơ hội đâu có sẵn sao lại bỏ lỡ? Cô thiếp đi. Laglan nhìn vợ thở dài.

2.

Ông Sáng áo the khăn đóng đang lễ, nhìn cử chỉ và miệng ông xít xoa sau mỗi câu khấn, Lan biết chú thành tâm. Ông Sáng khấn xong, Lan ra trước bàn thờ chắp hai tay lầm rầm. Gia đình đoàn tụ, không còn đói khổ mà cha mẹ lại chả còn. Mắt Lan rưng rưng. Laglan cũng khấn, chẳng biết cầu xin gì. Nhìn nước mắt thằng cháu rể giàn giụa, ông Sáng và ông Vẹn ngạc nhiên như muốn nói “Thằng rể Tây này chả khác người An Nam”. Laglan lễ xong nói với vợ:

- Khói hương nhiều quá!

Thì ra khói hương làm ông ta chảy nước mắt. Cả nhà phì cười.

Lẽ ra cỗ tất niên năm nay làm ở nhà Lan nhưng biệt thự ở làng Hội Vũ chưa hoàn thành trước Tết như dự tính vì kiến trúc sư Auguste Henry Vildieu đòi sàn gỗ phải đúng lim Thanh Hóa hàng trăm tuổi. Lan đành cho đổi gỗ theo ý ông ta. Việc kiến trúc sư Auguste nhận lời thiết kế ngôi biệt thự đã thành chuyện cho người Pháp bàn tán hàng tuần ở các quán cà phê hay quán rượu absinthe. Ông ta giỏi chuyên môn song tính cách kênh kiệu, chỉ nhận thiết kế các công trình lớn. Sang Bắc Kỳ được giao phụ trách công trình dân sự, lại càng khó tiếp cận với ông ta. Cô khích “danh tiếng ngài sẽ trọn vẹn nếu ngài có thêm duy nhất một công trình tư nhân” và Auguste nhận lời.

Bà Mùng cũng muốn làm ở nhà mình nhưng ông Sáng tranh vì ra Giêng thằng giai cả cưới vợ, ngầm ý mời hai họ xem tài nấu nướng của con dâu tương lai. Không có họ hàng ở Hà Nội mà ba nhà cũng ít người nên Lan muốn mỗi năm ăn tất niên ở một nhà, tập trung mọi người lại tăng tình thân gia đình. Ông Sáng bảo vợ lên phố Hàng Bồ mua miến mua măng và nấm hương. Còn ông ra tận chợ Ngọc Hà mua gà và cá trắm đen theo yêu cầu của con dâu tương lai.

Hương đã tàn, ông Sáng bê mâm đặt xuống chiếu. Nhìn mâm cỗ Lan bất ngờ vì nấu đúng kiểu cỗ Tết Hà Nội. Bát bóng nấu thịt nạc, bát vi cá, đĩa thịt gà chặt úp ngược vàng rộm trên có lá chanh thái nhỏ. Đĩa xôi gấc đỏ như để lấy may. Lại có cả món truyền thống là nem rán. Lan từng ăn tất niên ở nhà bạn buôn nên cô thích món này, nhân nem toàn thứ bổ, có thịt, trứng, miến đậu xanh, nấm hương... Lan thấy còn có cả món cá trắm đen kho, một món đầu vị trong ngày tết. Chế biến món này cần rất nhiều gia giảm nào riềng, sả, ớt, còn cho cả nước chè tươi, nước dừa và mỡ gà. Ăn miếng cá vừa béo vừa thơm. Cô em dâu thấy chị họ chăm chú nhìn mâm cỗ xấu hổ tọt vào trong bếp. Lan ngạc nhiên hơn vì thằng Lân và mấy đứa em răng trắng hếu.

- Trước tết chú với chú Vẹn bắt chúng nó ra hiệu chiết răng nhưng chả đứa nào chịu, bảo lớp học tiếng Tây có ai để răng đen đâu. Nghĩ đi nghĩ lại sống ở đâu theo đấy, nên các chú cũng chẳng bắt nữa.

Lắc lắc chai rượu trắng đục, Laglan hề hề:

- Rượu nha-que à!

Ông Sáng gật đầu.

- Sao không uống rượu ty, uống rượu nha-que là trốn thuế, cảnh sát biết bắt bỏ tù.

Lan dỗ dành chồng:

- Uống nốt lần này thôi.

Ông Sáng rót một lượt ra chén tống, Laglan đưa lên mũi ngửi rồi nếm thử.

- Nhạt quá!

Ông ta từng uống absinthe nên rượu ngang chỉ hơn nước lã. Bữa tất niên đầm ấm và vui vẻ. Lần đầu tiên Lan biết thế nào là hạnh phúc gia đình.

- Xong dãy nhà ở phố Hàng Da, cháu tặng vợ chồng chú Sáng, vợ chồng dì Mùng và thằng Lân, mỗi gia đình một căn. Mà thằng Lân chuẩn bị lấy vợ đi...

Nghe chị nói, Lân chỉ cười hiền. Nó bị lao phổi, tiêm thuốc đã đỡ nhưng da còn xanh. Từ ngày ra Hà Nội, hết đi học rồi lại bệnh, bác sĩ bảo lúc trẻ nó làm việc quá sức nên giờ phát bệnh. Bố mẹ Lan sinh cả thảy sáu anh em nhưng bốn người bị đậu mùa không qua nổi, vì thế Lan chả tiếc em thứ gì. Lợi dụng cháu vui, dì Mùng mắng yêu:

- Cháu cũng đẻ một đứa cho vui cửa vui nhà...

Lan lặng người, câu nói của dì xuyên thẳng vào nỗi đau mà Lan giấu bấy lâu. Cô không thể kể chuyện bị uống thuốc vô sinh cho dì nghe được. Cô tránh câu trả lời bằng cách lảng sang chuyện khác.

- Hôm nay có đông đủ hai bên nội ngoại, cháu thưa với chú dì chuyện này, nhân thể ta bàn luôn. Cháu có ý định mở chi nhánh ở bên Pháp, đầu bên này xuất hàng qua, bên kia nhập về nhưng khó khăn nhất bây giờ là người, phải là họ hàng thân thích, người Tàu họ bền vững là nhờ bà con. Mà người nhà mình thì ai chịu đi đây? Thằng Lân ốm yếu lại còn đang chữa bệnh mà nó cũng không muốn xa cháu, thôi thì không em này có em khác... cháu muốn biết ý chú và dì thế nào?

Bà Mùng hướng mắt về phía ông Sáng ra điều họ nội nói trước.

- Thôi thì tôi nói trước... nhờ có cháu nên chú thím cũng như chú dì không còn long đong vất vả, các em cũng nhờ chị mà nên người. Cháu bảo đi là chúng nó phải đi, làm cho chị cũng là cho chúng nó, lớn cả rồi, chị cho học hành, không chịu đi, không chịu làm thì a lê ra khỏi nhà.

Nói xong ông quay sang bà Mùng.

- Tôi nói thế có phải không ông bà?

Vẹn “xẩm” tủm tỉm nhìn vợ.

- Sao chuyện gì ông cũng đẩy cho tôi nói thế, bảo hát thì ừ ngay đấy.

Câu mắng chồng khiến mọi người cùng cười.

- Dì thấy ông Sáng nói đủ rồi, giờ dì chỉ thêm ý này thôi, nếu các em cháu sang bên đó đứa nào hợp duyên cứ lấy thôi, thời buổi bây giờ khác trước, đâu còn ở Bình Thơ nữa.

Mặt Lan tươi như hoa. Tranh thủ mọi người nói chuyện, Laglan kềnh ra tấm chiếu sau lưng vợ. Có vẻ rượu nếp cái hoa vàng đã ngấm. Ông Sáng cười khoái chí.

- Cu cậu khướt rồi.

Ông Vẹn nổi hứng lấy đôi đũa gõ vào bát và cất giọng hát.

Con ơi đất rộng trời cao... i... sánh làm sao được công lao mẹ hiền. Mẹ mới có thai kể từ một ân thì con... i... mẹ mới có thai. Âm dương là âm dương nhị khí, ới nào ai biết gì. Ở trong lòng ờ ờ... luống những sầu bi...

Rồi ông gõ đũa dồn nhịp lại hát tiếp.

Ở trong lòng mà con ơi... i... luống những sầu bi. Ruột gan chua xót mỗi khi vơi đầy. Sang đến hai ân con ơi mẹ chịu biết bao tầy i i i...

Ông Vẹn dừng hát gõ nhịp. Cả nhà ông cùng hát theo.

Sang đến hai ân con ơi mẹ chịu biết bao tầy. Cưu mang là cưu mang chín tháng ới mười ngày khai sinh, nay mà kể từ vách đất lều tranh, nắng í mưa đùm bọc rách lành mẹ luôn những che chở, lúc mà ra đời con ơi cất a tiếng khóc oe oe...

Nghe tiếng hát, Laglan tỉnh dậy chăm chú nhìn tay ông Vẹn gõ hai chiếc đũa vào bát canh miến. Bàn tay thô ráp của ông chú nha-que sao mà dẻo và khéo đến thế. Âm thanh cũng lọt tai. Sống ở An Nam hai chục năm, hôm nay Laglan mới được nghe hát kiểu dân gian. Dù chả hiểu lời nhưng Laglan cảm nhận câu hát chất chứa nỗi niềm trong đó.

Cất tiếng oe oe là mà dốc lòng là chưng nay mẹ nhưng a nữa vỗ về nâng niu. Sang đến ba ân con ơi ngọn gió hắt hiu. Thân gầy sữa cạn mẹ chắt chiu mỏi mòn, ơ tần tảo ì bú mớm nuôi con...

Cả nhà ông lại hát cùng. Mắt bà Mùng rơm rớm.

Bú mớm nuôi con sòng mà bốn ân chưng đây mẹ kể chợ thôn đi về, kể từ hạt gạo đồng quê tảo tần đi khuya sớm mẹ lo bề rau cháo con ăn...

Laglan ngạc nhiên thấy mắt ai cũng đỏ. Thằng Lân chạy ra một xó hu hu.

- Lời bài hát có ý nghĩa gì mà ai cũng khóc? - Laglan hỏi ông Vẹn. Câu hỏi chạm vào nỗi buồn ông luôn muốn giấu. Ông ôm mặt nức nở. Lan thì thầm:

- Bài này tên là Thập ân phụ mẫu, kể về mười nỗi khó nhọc mà cha mẹ phải chịu đựng từ khi sinh con ra đến lúc chúng trưởng thành. Ông ấy khóc vì dạy con luôn ghi nhớ nhưng chính mình lại chưa giúp gì cho cha mẹ.

Bỗng có tiếng lách cách liên tục của tiền xu va vào ống tre ở ngoài phố. Con Dọc chưa kịp mở cửa, mấy đứa trẻ đã đứng ngoài hát:

Nhà bà còn đèn còn cửa

Mở cửa cho anh em tôi vào

Bước lên giường cao thấy đôi rồng ấp

Bước xuống giường thấp, thấy đôi rồng chầu

Bước ra đằng sau thấy nhà ngói lợp

Voi ông còn buộc, ngựa ông còn cầm...

Ông Sáng ra mở cửa. Lan đưa cho con Dọc mấy đồng tiền trinh. Nó hớn hở bỏ vào ống nứa. Một đứa trẻ giơ cao ống tre lắc mạnh, tiếng lách cách rộn ràng. Lũ trẻ lại sang nhà bên cạnh. Pháo tép nổ lạch tạch. Đường phố vắng lặng. Những hạt mưa bay rơi ngang ánh sáng đèn điện màu vàng. Lan chảy nước mắt vì quá hạnh phúc.

3.

Hôm nay quốc khánh Pháp. Cờ tam tài [1] treo quanh hồ Gươm, đèn điện sáng trưng hai bên cửa Tòa đốc lý. Người ta còn treo cả đèn lên đầu tượng thần tự do bên vườn hoa Paul Bert. Tiếng là Hà Nội có nhà máy đèn Bờ Hồ từ năm 1895 nhưng chỉ cấp cho các công sở và một vài tư dinh vì công suất quá nhỏ. Đường phố vẫn treo đèn dầu. Cảnh sát mặc quần soóc trắng, đội mũ cát trắng đeo súng nòng dài đi lại. Đôi mắt cú mèo lia qua lia lại. Người Pháp dân sự và đám quân nhân mặc đồ sơvin ùn ùn tới. “Bông xoa” râm ran. Phu trả khách xong vội vã kéo xe ra thật xa ngồi chờ, khu vực này cảnh sát cấm không cho xe đỗ.

Lan mặc váy đầm trắng, đầu đội mũ vải mềm trắng, chỉ thiếu một bông hoa bên ngực trái là giống cô dâu. Cô tươi tắn khoác tay chồng đi vào. Ngoài sảnh đến phòng khánh tiết, bóng điện các màu làm các chậu hoa bị lép vế. Mọi người biết nhau cả vì đều ở quanh quẩn hồ Gươm. Họ đứng thành từng nhóm, chuyện rôm rả. Các ông chồng hỏi thăm bạn bè, các bà vợ An Nam rúm vào một góc, có lẽ vì vốn tiếng Pháp chỉ đủ hỏi tiền lương. Lan gật đầu chào cô thợ may Joséphine. Anh chàng thợ rèn Jardonnet hớn hở bên cô vợ An Nam, anh em nhà buôn François vui vẻ cùng huýt sáo một bài hát Pháp. Còn ca sĩ Héloise trong bộ váy diêm dúa, đêm nay cô có cơ hội hát sướng mồm. Mấy nhạc công mặt mũi căng thẳng thử đàn. Lan đảo mắt khắp lượt mà không nhìn thấy Trúc.

Từ ngày lấy Laglan, quốc khánh năm nào cô cũng cùng chồng dự tiệc chiêu đãi và khiêu vũ nhưng cô không hiểu ngày này, cô lay lay tay chồng.

- Quốc khánh là gì?

Laglan nhún vai tỏ ý chê trách vợ:

- Đó là ngày người dân Pháp đứng lên làm cách mạng lật đổ chế độ quân chủ, tức là lật đổ vua thay bằng chế độ cộng hòa. Và người ta lấy ngày 14-7 là ngày sinh ra chế độ mới gọi là quốc khánh.

Lan vặn vẹo:

- Thế sao An Nam vừa có vua lại có quan Pháp? Cái ngày hạ bệ vua An Nam hay đuổi người Pháp về nước thì gọi là ngày quốc khánh An Nam đúng không?

Laglan hôn nhẹ lên má vợ.

- Em thông minh lắm!

- Nhưng chỉ nên hạ bệ vua thôi, không nên đuổi người Pháp vì chồng em là người Pháp - Lan hóm hỉnh.

Laglan ôm vợ.

- Ồ! Cô gái bán gạo, em đáng yêu lắm!

Lan chúm chím nhìn chồng như muốn nói “chúng ta về nhà đi”.

Tiếng ồn ào nhỏ dần từ ngoài lan vào trong. Ngài Toàn quyền Paul Doumer đang vào. Đám quan chức phủ Toàn quyền, phủ Thống sứ cúi đầu chào trân trọng. Paul bắt tay từng người. Lần trước, Lan đã đến tận dinh xin gặp nhưng ông ta từ chối, lấy lý do bận vì đang chuẩn bị mời thầu xây cầu trên sông Cái. Không bỏ lỡ cơ hội, Lan kéo chồng lại bên vị Toàn quyền.

- Kính chào ngài Toàn quyền!

Con người hiếm khi ban phát nụ cười cho ai hôm nay đã nhếch mép.

- Chào bà Tư Hồng, người nổi tiếng xứ Đông Dương của tôi. Nhân đây cũng xin nói lại cho bà thêm rõ, tôi đến An Nam quá muộn để giữ lại những di tích cần thiết. Đặc biệt là các cửa thành, nhẽ ra nó phải được bảo tồn, chúng có những phong cách lớn gắn bó mật thiết với lịch sử đáng cho ta phải trân trọng. Giống như Khải Hoàn Môn ở Paris, các cửa thành đó rất đẹp cho tương lai thành phố mà không cản trở giao thông và qui hoạch của chúng tôi.

- Cám ơn ngài đã đánh giá tôi quá cao! Cám ơn ngài tiếc cho cái không còn. Vâng, thưa ngài, xứ Đông Dương do ngài cai quản nhưng quan lớn trong suy nghĩ của dân An Nam thì dân chi phụ mẫu [2]. Thưa ngài! Tôi biết ngài bận bịu với kế hoạch khai thác thuộc địa để mang lại phồn vinh cho nước Pháp song tôi hy vọng ngài sẽ dành cho tôi chút ít thời gian, tôi muốn được bày tỏ với ngài suy nghĩ của nhà kinh doanh Bắc Kỳ...

Paul nhìn Lan, biết không thể từ chối.

- Tôi sẵn sàng lắng nghe nếu điều mà bà sẽ trao đổi có ý nghĩa với chính phủ Bảo hộ. Và để bà có nhiều thời gian hơn dành cho kinh doanh bà nên gửi trước cho ông thư ký đây những điều bà muốn bày tỏ.

Paul quay sang phía viên thư ký.

- Ông Daniel đây sẽ sắp lịch và thông báo cho bà biết cụ thể thời gian.

- Vô cùng cám ơn ngài!

Ông ta bắt tay Lan nhưng chỉ gật đầu với Laglan rồi đi về phía sân khấu. Lan đưa danh thiếp cho viên thư ký. Ông này đọc nhanh đến ngạc nhiên:

- Bà đã lắp dây nói?

- Xin hỏi ngài, văn minh của người Pháp mang sang An Nam cho ai dùng?

Lan đanh đá, viên thư ký mỉm cười.

- Tôi không có ý như vậy. Ý tôi muốn nói bà là người An Nam đầu tiên ở Bắc Kỳ sử dụng phương tiện văn minh này. Tôi sẽ gọi cho bà...

Ông Đốc lý vỗ tay ra hiệu cho mọi người trật tự. Ban nhạc tấu quốc thiều Pháp, Lan thấy ai cũng đặt tay phải lên tim, mặt nghiêm trang hát. Tiếng hát vừa dứt, Đốc lý nói rất to:

- Allons enfants de la patrie [3].

Mọi người hồ hởi vỗ tay rầm rầm. Chờ tiếng vỗ tay dứt hẳn, ông Đốc lý cất giọng trầm ấm như diễn viên kịch mà Lan cùng chồng đi xem ở rạp Hội Âm nhạc.

- Tôi muốn các bạn vỗ tay thật nồng nhiệt chào đón ngài Toàn quyền đến dự tiệc chiêu đãi quốc khánh Pháp tại Hà Nội.

Tiếng vỗ tay lại rào rào kèm theo những câu bình luận chỉ hai người nói với nhau nghe được.

- Tôi xin cám ơn các công dân Pháp, bạn bè người An Nam có quan hệ thân thiết với chính quyền Bảo hộ có mặt trong buổi tối hôm nay, những người đã đang và sẽ làm cho nước Pháp ngày càng phồn vinh, cho chính phủ Bảo hộ lớn mạnh. Nhân quốc khánh nước Pháp tôi xin cám ơn bà Trần thị Lan, người phụ nữ An Nam đầu tiên dám mở công ty thầu khoán ở Bắc Kỳ, tạo cảm hứng kinh doanh cho nhiều nhà buôn lập công ty và đóng thuế rất lớn cho chính phủ bảo hộ. Công việc xây dựng Hà Nội, khai hóa văn minh mới đi được chặng đầu tiên nên rất cần những đồng tiền thuế của các bạn. Xin nâng cốc chúc mừng quốc khánh nước Pháp vĩ đại, chúc sức khỏe quý ông, quý bà!

Tiếng chạm cốc canh cách. Bạn bè Laglan ùa lại chúc mừng Lan. Cô dâng lên niềm tự hào. Ông Đốc lý bắt tay khiến Lan cảm động dù biết là xã giao. Đám đông nhốn nháo khi ban nhạc dạo đàn. Ca sĩ Héloise bỗng cất tiếng hát cao vút. Một vài người nhún nhảy theo âm thanh lúc trầm lúc bổng. Lan nhớ lần theo chồng đi khiêu vũ ở khách sạn Grand [4], tối đó các cô vợ An Nam bất động vì nó quá xa lạ. Tất cả ngồi nhìn chồng mình uốn éo với các bà đầm già. Chỉ có Lan mạnh dạn bước ra cùng chồng. Cô đã từng khiêu vũ tại nhà chị Ba. Cô quay người, xoay theo cánh tay của chồng, đêm về chân đau nhức vì đôi giày da cọ vào bàn chân. Sau đó đám me bạo dạn bắt chước và họ gọi cô là “Đệ nhất khiêu vũ Bắc Kỳ”.

Laglan ôm vợ nhảy điệu valse. Ông ta không thể tin nổi sao vợ ông có thể nói chuyện với ngài Paul thoải mái như vậy. Ngay đại tá của Sở chỉ huy chiến dịch Bắc Kỳ trao đổi công việc thường xuyên với ông ta nhưng lần nào cũng lúng túng như gà mắc tóc. Laglan vuốt bờ vai vợ. Cả hai xoay trong tiếng nhạc êm dịu.

Dù có tới sáu, bảy công ty ở Hà Nội do người An Nam thành lập cùng nhiều nhà thầu, nhà buôn lớn nhưng từ tổng trú sứ đến khi chức này đổi thành Toàn quyền, họ chưa bổ nhiệm ai vào Phòng Thương mại. Thương nhân Pháp và Hoa kiều chiếm hết các vị trí. Thậm chí họ còn tìm mọi cách có chân. Cái danh đó hoàn toàn không phù phiếm, chẳng để trang trí, ngược lại nó đảm bảo và tăng sự tin cậy trong các thương vụ, từ đó họ sẽ kéo về những hợp đồng béo bở. Lan bực tức vì chuyện này. Cô từng ép chồng tìm cách gặp ngài Toàn quyền nhưng Laglan chối đây đẩy. Lần gặp này chả biết có kết quả không vì Laglan bảo Paul Doumer là nhà chính trị đầy tham vọng, ông ta chỉ ra lệnh và ra lệnh, ngài không bao giờ giải quyết những chuyện như vậy và sẽ đẩy xuống gặp các ông phụ trách. Ngài chỉ ký nếu có sự đảm bảo từ cấp dưới. Lan đọc đi đọc lại dòng chữ đại tá Croibies viết về ngài Toàn quyền gửi cho cô.

Paul Doumer đỗ bằng cử nhân toán năm hai mươi tuổi, năm sau ông ta lấy bằng cử nhân luật và trở thành chuyên gia tài chính dù ông ta xuất thân trong gia đình lao động. Cha là công nhân xe lửa. Bản thân Paul phải lao động kiếm sống từ năm mười hai tuổi. Nhờ quan điểm cấp tiến, ông ta trở thành nghị sĩ và được cất nhắc làm Bộ trưởng Bộ Tài chính vì đưa ra chính sách tăng thuế thu nhập. Sang Đông Dương năm 1897, Paul là nhà cai trị độc tài theo đuổi chủ trương biến chế độ bảo hộ thành chế độ trực trị, xóa bỏ chủ quyền và thống nhất An Nam. Paul tập trung hết quyền hành vào mình, ép vua Thành Thái ký dụ bãi bỏ Nha Kinh lược ở Bắc Kỳ, giao quyền này cho Thống sứ Augustin Foures. Ông ta cho rời tỉnh lỵ Hà Nội ra Cầu Đơ, tổ chức khai thác tài nguyên, biến Đông Dương thành thị trường cho kỹ nghệ và thương mại của Pháp...

Ý chí vươn lên của ông ta càng thôi thúc cô phải khám phá về con người này.

Xe ngựa dừng lại trước tòa nhà quá lớn. Kiểu cách hoàn toàn mới lạ. Uy nghiêm và sang trọng. Lan thấy một khuôn mặt quen thuộc từ phòng ngài Toàn quyền đi ra, chợt nhận ra đó là Dumoutier, người đã can ngăn Toàn quyền Lanessan không nên phá tường thành. Cô gật đầu chào. Ông ta cười buồn bã. Chắc bị ngài Toàn quyền mắng nhiếc?

Paul đúng giờ như nhà quân sự. Ông ta mặc áo sơ mi cộc tay, áo bỏ trong quần, đầu rẽ ngôi, khuôn mặt lạnh như băng, cái bắt tay tạm bợ, hờ hững có khoảng cách vốn là kiểu của các nhà chính trị chuyên nghiệp.

- Tôi vô cùng cám ơn ngài đã bớt chút thời gian vàng ngọc mà ngài luôn dành cho nước Pháp để tiếp tôi.

- Cám ơn bà có những lời lẽ tốt đẹp. Điều đầu tiên tôi muốn nói là cám ơn bà đã đóng thuế đều đặn cho chính phủ Bảo hộ. Tôi đọc rất kỹ yêu cầu của bà và hôm nay tôi cũng muốn trao đổi để bà rõ hơn.

- Vâng thưa ngài, từ khi chính phủ Bảo hộ cho lập Phòng Thương mại Hà Nội, chưa một người An Nam nào được bổ nhiệm, tôi cũng như nhiều nhà buôn An Nam ở Hà Nội tự hỏi, phải chăng chúng tôi đóng thuế quá ít, phải chăng chúng tôi không xứng đáng có chân vì chúng tôi làm ăn còn nhỏ hay vì lý do nào khác?

- Tôi chắc là bà quen ẩm thực Pháp?

Lan khựng người, tại sao ông lại chuyển sang chủ đề ăn uống? Laglan nói rằng ông ta là nhà ngoại giao cừ khôi, luôn luôn làm chủ trong các tình huống. Lan cảnh giác.

- Dù bà có nói không thì tôi biết chắc bà đã quen với đồ ăn Pháp, đôi khi bà chẳng thích nhưng chồng bà muốn. Bà thấy đồ ăn Pháp thế nào?

- Ồ, đồ ăn Pháp rất tuyệt nhưng không phải ai cũng uống vang Pháp.

- Vâng, uống hay không tùy sở thích mỗi người miễn họ biết đó là vang Pháp, điều đó cũng giống như nhà buôn cần phải biết làm gì, làm thế nào trước khi mở công ty. Phòng Thương mại Hà Nội có tiêu chuẩn của nó và tôi tin bà đã đọc kỹ?

- Thưa ngài, vang Pháp rất ngon... và tôi nghĩ chắc không có công thức chung cho các giống nho khác nhau, có khi nông dân trồng trên đám ruộng nhỏ bé lại cho ra thứ rượu tuyệt hảo hơn cả cánh đồng nho rộng lớn vì bao đời họ ở đó...

- Cám ơn bà rất thẳng thắn, việc bà chưa thể là thành viên Phòng Thương mại Hà Nội tôi sẽ cho xem lại tiêu chuẩn nhưng dù thế nào tôi hy vọng bà vẫn tiếp tục đóng thuế cho chính phủ Bảo hộ. Xin lỗi bà tôi phải điều hành một cuộc họp để chọn nhà thiết kế cầu sông Cái, cây cầu lớn nhất châu Á. Mong bà thông cảm.

Ông ta chấm dứt cuộc gặp với lý do không có lý do nào chính đáng hơn. Lan ấm ức, thế là cô khó có cơ hội bước chân vào chỗ chỉ có thương nhân Pháp và Hoa.

4.

Ngôi biệt thự hai tầng được vây quanh bằng các màu hoa và cây cảnh quý càng tôn thêm sự sang trọng. Lan bắt chước đám nhà giàu Pháp trồng bốn cây hoàng lan bốn góc nhà. Những chiếc lá xanh thẫm nhũn nhặn trên cành cây to khỏe đang vươn cao hứa hẹn một mùa hoa lãng mạn. Mặt tiền có hồ nước nhỏ, thầy phong thủy vào nhà khen Tây thiết kế sao am hiểu văn hóa An Nam. Thầy giải thích “khí gặp thủy thì ngưng, gặp phong thì tán”, có hồ nước vừa tạo nên cảnh quan thơ mộng lại vừa tạo thành “minh đường tụ thủy”, khiến khí lực nhà cửa dồi dào. Auguste không dùng gạch lát sàn, ông dùng gỗ lim Thanh Hóa để tránh trơn trượt trong ngày nồm tháng Ba. Phòng ngủ, phòng khách đều có lò sưởi. Còn cầu thang uốn lượn hình rồng cách điệu mềm mại, bên trong bằng gỗ ngoài bọc đồng lá làm tăng tính vĩnh cửu ngôi nhà. Hoa văn ở ban công tầng hai, Auguste dùng sắt uốn mô phỏng đồng tiền trinh có lỗ vuông để khoe sự phú quý của gia chủ mà không hề bị cưỡng ép. Giám đốc nhà máy rượu Fontaine đến chơi phải ghen tỵ dù biệt thự của ông ta ở đối diện dốc Cây Thị được các kiến trúc sư hết lời khen ngợi.

Có tiếng chuông điện thoại, Lan cầm máy ờ ờ rồi văng một tràng tiếng Pháp. Chưa đầy nửa giờ ký Bưởi xuất hiện. Chắc phải có việc cần kíp cậu ta mới mò đến sớm như vậy. Mặc Bưởi ngồi chờ ở phòng khách, cô tắm xong, trang điểm nhẹ mới ra.

- Tôi chưa ăn sáng, chưa cà phê mà cậu đã quấy quả tôi sớm vậy? - Lan nửa đùa nửa thật.

- Cơn sung sướng của chị sao cứ dài mãi thế... Tôi đang bí chỉ có chị mới có thể giúp được.

- Trúng thầu lờ tôi đi, giờ khó khăn lại cầu tôi, nào có việc gì, anh chàng đẹp trai của tôi.

- Thuế khai thác gỗ pơmu tôi đóng đầy đủ và chính phủ đã cấp giấy phép. Theo cách mộ phu của chị, tôi tính toán tiền trả công khai thác quá lớn nên lãi lờ chả đáng là bao. Chị có kế gì bày cho tôi?

Sở Hỏa xa Đông Dương ký hợp đồng cung cấp gỗ với nhà thầu ACG của Pháp. Hãng này chuyên xây dựng các công trình lớn ở những nơi hẻo lánh nên chính phủ muốn tiết kiệm tiền đã bắt các nhà tù cung cấp phu cho họ. Quen dùng phu chỉ trả công bằng bữa ăn, giám đốc ACG xin chính phủ cho tù làm lập tức bị bác ngay vì dự án đường sắt không dùng tiền ngân khố. ACG đành thuê phu nhưng quen thói ra lệnh và ép làm thêm thời gian nên họ trốn sạch. Sợ bị phạt, ACG chấp nhận lỗ sang nhượng cho Công ty Cung ứng vật liệu Quảng Đông. Công ty này mua lại vì tin tưởng xin được giấy phép đưa phu từ Trung Quốc sang giống như nhà thầu đang xây cầu sông Cái. Nhưng chính phủ không chấp thuận vì khai thác gỗ khác làm cầu. Thuê phu An Nam lại sợ đi vào vết xe đổ của ACG, đang loay hoay tìm kế thì ký Bưởi biết chuyện đứng ra thầu lại.

- Tôi hiến kế cho cậu, tôi phải hưởng ba mươi phần trăm lợi nhuận, đồng ý tôi mới giúp?

Ký Bưởi lè lưỡi:

- Chị bóc lột sức tôi giờ lại bóc lột cả tiền bạc.

Lan cười giòn.

- Chính cậu cũng mong tôi bóc lột mà.

Lần Lan trúng thầu cung cấp nguyên liệu xây dựng doanh trại cho hơn trăm lính ở Lào Cai, cô cũng đưa phu từ xuôi lên. Ngày đầu họ hăng hái nhưng sức đuối dần vì không quen ở rừng. Lại bị ngã nước hành hạ, sốt triền miên, da xanh bủng, không trả công cũng phải cho họ tiền xe cộ về quê. Nhìn nhà người Mèo ở đây toàn gỗ pơmu Lan hiểu họ biết cách khai thác loại gỗ này và biết cách chuyển nó về. Tìm gặp già bản giúp đỡ, ông ta nhận lời ngay. Hỏi tiền công, ông nhe cái răng bịt vàng bảo “Tao lấy cái tiền của mày làm gì, có tiền lại mất công đi mua, mày cứ trả bọn nó bằng thuốc phiện”. Lan mừng quýnh nhưng khốn nỗi thuốc phiện ty [5] quá đắt, thuốc sống rẻ hơn nhiều lần mà chả tìm được chỗ mua. Cuối cùng Laglan nhờ cậy viên sĩ quan chỉ huy ở Lạng Sơn, ông ta giúp ngay vì Lạng Sơn là nơi tuồn thuốc phiện sống từ Trung Hoa vào An Nam. Mọi việc thế là xong.

- Đùa cậu thôi, tôi sẽ giúp, chỉ có điều sau vụ này đừng bắt tôi phải bóc lột cậu - Lan cười vang nhà.

Ký Bưởi đi ra khỏi nhà, Laglan cằn nhằn:

- Tại sao lại giúp không?

Lan xoa đầu chồng rồi ấn vào ngực. Laglan rê rê cái mồm như trẻ con tìm vú mẹ. Ông ta nhay nhay đầu ti khiến Lan không chịu nổi ưỡn người lên. Laglan nhấc bổng vợ bế vào phòng. Nhưng hôm nay ông thấy khang khác, mệt hơn mọi lần, chả biết vợ khỏe hơn hay ông yếu đi.

Đang ở Lào Cai, Laglan nhận được tin báo của người bạn, em gái đã đến Hải Phòng. Ông ta giục viên trung úy đồn trưởng kết thúc chuyến đi săn vô bổ để trở về Hà Nội.

Khi Laglan lên tàu sang An Nam, hơn một năm sau Morel mới ra đời. Dù đã xem ảnh nhưng Laglan không thể hình dung nổi em gái mình, cô sinh viên khoa chính trị Đại học Paris đang nuôi ý định trở thành nhà chính trị. Chuyến đi này giúp nó hoàn thành tiểu luận về người Pháp ở ngoài châu Âu. Laglan cũng gửi cho em tấm ảnh chân dung trong bộ dolman [6] chụp cạnh cầu Thê Húc. Laglan bồn chồn vì chưa từng gặp em và rất lâu cũng chẳng biết cha mẹ thế nào. Có lẽ tiểu luận cũng chỉ là lý do. Nó có máu phiêu lưu hoặc cũng tò mò muốn biết anh mình sống ra sao nên sang tận nơi, cái xứ sở mà anh nó đã ở đó liên tục hơn hai mươi năm.

Laglan ôm em gái, cảm giác ruột thịt truyền khắp cơ thể. Đôi mắt rực sáng là của ông nội nhưng khuôn mặt nó lại giống mẹ. Một bà mẹ Pháp luôn che chở cho ông từ bé thơ đến lúc trốn trang trại ra thị trấn. Và mẹ bị cha dội hết tức tối lên đầu hàng tháng trời.

Ngày hôm sau, Morel nhờ anh đưa đi thăm thắng cảnh Hà Nội. Nó từng xem các tấm ảnh chùa Khổ Hình của bác sĩ Hocquard chụp đăng trên tạp chí Thuộc địa nhưng giờ chùa không còn [7]. Thành cổ gần như mất hết. Nó lắc đầu, người Pháp cố gắng đè cái mới lên cái cũ, đó là trò chơi dao. Nó không thể hiểu nổi tại sao anh nó lại bị xứ sở này mê hoặc. Đồ ăn Tàu luôn cho đường quá tay còn đồ ăn An Nam thì nhạt thếch. Rau gì cũng đem luộc, sao họ không hầm củ cải với thịt bò? Lại ăn thứ nước mặn như muối, có lẽ vì thế mà vóc dáng họ nhỏ thó chăng? Nó đưa cho anh một cái hộp nhỏ. Laglan mở ngay. Đó là nhẫn cưới cha ông đã đeo vào tay mẹ và bây giờ bà trao lại cho con trai. Laglan thẫn thờ. Cánh đồng hiện ra, một người đàn bà quàng khăn trùm đầu xách thùng gỗ đầy nho đi sau một người đàn ông có bộ mặt vênh váo...

- Nghỉ hưu anh sẽ về Pháp hay ở lại An Nam?

Câu hỏi quá bất ngờ và nó không hợp lúc đi chơi. Laglan lúng túng, ông cũng có lần nghĩ tới nhưng chưa quyết định, Hà Nội đã quá thân thuộc với ông.

- Theo em, anh nên về hay ở lại?

- Vợ anh còn trẻ, chị ta phây phây, chắc anh chả muốn về... Chị ta lại không thể theo anh vì về Pháp sẽ phải hái nho... Giai đoạn chính phủ Pháp cần đám liều lĩnh, cái đầu lạnh như cò súng đã qua, giờ họ cần người có đầu óc mà anh thì biết bóp cò.

Laglan im lặng. Hóa ra nó sang An Nam lấy tài liệu làm tiểu luận là cái cớ. Việc chính là chuyển thông điệp, nếu ông không về dòng họ François ở Bordeaux chỉ còn trong những cuốn sổ ghi chép, loại rượu có chữ F nổi tiếng cũng chẳng còn. Nó đúng, cha ông đã già. Nhưng ông không thể trả lời ngay, cần phải có thời gian.

Gần đến ngày về Pháp, Morel đưa cho anh trai lá thư của cha. Laglan bóc xoàng xoạc, như sợ chữ biến mất.

Bordeaux ngày...

Con trai của cha! Con chắc đã thỏa lòng khám phá xứ sở mà chỉ có người giàu mới có tiền đến được. Cha khâm phục nghị lực và ý chí của con dành cho nước Pháp. Chỉ có điều con không biết cha đã đóng thuế để con có chuyến đi ấy. Giờ con là ngài quan tư, có vẻ mẹ con tự hào nhưng dù sao cha cũng chúc mừng con. Bạn con nói, con cùng cô vợ An Nam có một công ty thầu khoán và nhận được những gói thầu lớn, như thế con hơn cha vì cả đời cha chỉ có xưởng rượu bé nhỏ. Khi viết cho con những dòng chữ này thì cha đang nằm trên giường bệnh, có thể cha chết mà không nhìn thấy ngài quan tư nhưng Napoléon cũng chỉ là thằng con trai của dòng họ mà thôi. Chúc con thành công ở xứ thuộc địa xa xôi.

Cha của ngài quan tư

Mắt Laglan chớp chớp, lần đầu tiên trong đời ông cảm thấy cha bớt nghiệt ngã hơn dù lời lẽ vẫn đầy kiêu hãnh. Rồi Laglan khóc. Không có gì mặn hơn muối nhưng nước mắt của Laglan chắc sẽ mặn hơn vì bao nhiêu năm ông chưa cay mắt, ngay cả khi những cảnh tượng làm người khác có thể khóc hàng giờ. Ông nhận ra lâu nay mình đã sống nhờ lý tưởng, suy nghĩ của người khác. Da trắng hay da vàng cũng là con người, cũng chỉ một tim với chức phận như nhau. Mỗi người một số phận, một cuộc đời, cả cuộc đời cha ông quần quật trong nắng gió Đại Tây Dương, chưa bao giờ bỏ tiền để khám phá chính đất nước mình. Uống mãi thứ rượu do chính mình tự làm mà không chán. Về Pháp là đặt dấu chấm cho cuộc đời, chẳng còn gì để làm mà cũng không thể làm thêm được gì, An Nam ám ảnh đến chết. Ở lại có nuốt nước bọt nhìn vợ cũng còn được gần cái mà đàn ông cần. Như thế cô ấy thêm khổ. Laglan bị phân thân.

Ngoái sang nhìn vợ mặc váy ngủ hớ hênh. Gần đây, vài lần ông tỏ ý muốn Lan về Pháp ở hẳn. Chắc lời rủ rê không đúng lúc nên Lan lắc đầu:

- Sao anh không nói lúc em còn trẻ... lúc em định chết ở hồ Gươm...

- Người An Nam có câu “thuyền theo lái, gái theo chồng” mà...

- Chính anh đã làm em gần giống như anh...

Có lẽ Lan đúng. Cô ấy đã ở tuổi trung niên, về Pháp phải làm lại mọi chuyện. Khi tuổi cao lên thì tính phiêu lưu cũng già đi. Cô ta đổi khác do chính ông. Có lẽ không thể tiếp tục quay lưng lại số phận. Laglan mở cửa sổ, gió lạnh ùa vào, như mùa đông ở Pháp. Laglan lấy giấy viết thư cho cha.

Hà Nội ngày...

Thưa cha!

Sau gần ba mươi lá thư con gửi tính từ ngày sang An Nam, cha không hồi âm, có thể cha giận hay cánh đồng nho và thứ nước màu tím sẫm chiếm hết tâm trí cha. Con quá bất ngờ vì cha đã viết thư cho con dù chỉ vài dòng ngắn ngủi. Dù sao đó cũng là sự thừa nhận rằng cha có thằng con trai. Con đi vì không chịu nổi cuộc sống quá đơn điệu, lặp đi lặp lại, con có lỗi với cha nhưng không có lỗi với chính mình. Trong một lần giỗ mẹ vợ (người An Nam có tục lệ giỗ người chết vào đúng ngày mất, họ không làm tiệc vào sinh nhật như người Pháp) con xúc động khi nhìn thấy chai rượu do chính cha làm. Tự nhiên con lại yêu quả nho còn bám lớp phấn trắng xốp. Con hy vọng có ngày trở về, được thấy bóng cha đang cặm cụi trong xưởng rượu đang ngửi mùi nho lên men thơm nồng. Tuy nhiên con không dám chắc ngày nào con về. Chúc cha và mẹ sức khỏe

Con của cha.

Gấp lá thư bỏ vào phong bì. Trời xầm xì, gió vẫn ù ù. Làng Hội Vũ chìm sâu trong đêm đông.

Chú thích:

[1] Cờ Pháp, vì có ba màu nên dân gian gọi cờ tam tài.

[2] Cha mẹ của dân.

[3] Một câu trong quốc ca Pháp: Đi lên, những con người của Tổ quốc.

[4] Nay là dãy nhà của công ty Intimex trông ra hồ Gươm ở phố Lê Thái Tổ, quận Hoàn Kiếm.

[5] Thuốc đã chế biến do nhà nước quản lý.

[6] Áo có hàng khuy đồng từ cổ xuống dành cho sĩ quan.

[7] Lính Pháp gọi là chùa Khổ Hình vì thấy có nhiều tượng trơ xương sườn. Người Hà Nội gọi là chùa Báo Ân, chùa được xây dựng năm 1843, có diện tích rất lớn. Chùa bị phá năm 1886 để xây bưu điện Bờ Hồ.