Chương 7 (tt)
Lúa vụ chiêm Bắc Kỳ năm nay mất mùa, cánh buôn thóc chỉ còn trông chờ vào vụ mùa. Trời đất thương nhà nông nên vụ mùa cũng kha khá. Giá gạo thế giới đột ngột tăng cao, các công ty tranh giành mua thóc, Bắc Kỳ không còn một hột. Lan chỉ mua được một tàu. Hợp đồng bán gạo đã có trong tay, để giữ chữ tín với bạn hàng, cô đành sai Lân đưa tàu vào Quảng Ngãi, đi xa tốn phí hơn cũng phải chấp nhận.
Dù mới theo nghề nhưng thằng Lân nhanh chóng học được những bài học giá cả và thời gian. Nó trả thêm một giá nên chưa đầy chục ngày thóc đầy ự ba tàu. Thêm một giá mà rút ngắn thời gian chờ đợi, tính kỹ lại rẻ. Lân hỉ hả cho tàu hướng ra Bắc thì bất ngờ vùng này có bão. Ông thuyền trưởng nhìn giời đoán bão sẽ đổi hướng quay ra biển, quả nhiên đúng như vậy, nào ngờ nó lại quay đầu ập vào đất liền. May tàu gần cửa biển Thuận An, thuyền trưởng lệnh ngay cho tàu ghé bờ tránh bão. Sóng dâng cao, quật xuống, ba con tàu chở nặng nghiêng ngả, tình thế vô cùng nguy hiểm. Ông thuyền trưởng nhiều năm đi biển, kinh nghiệm đầy bồ cũng chỉ còn biết than và cầu giời. Thế nhưng đám thủy thủ nữ lại cứng cỏi hơn, đầu đội mưa họ che thêm tơi lá cho thóc khỏi ướt, vừa làm vừa đùa. Thằng Lân khâm phục chị khi thuê toàn nữ, họ dai sức, chẳng uống rượu lại không mò gái khi tàu cập bến như lũ phu đàn ông.
Cơn bão chà xát đi xát lại đã tàn phá dọc ven biển miền Trung, từ Quảng Bình vào tận Tuy Hòa. Nhưng nặng nhất là Thừa Thiên, nhà sập, nước ngập trắng đồng. Trâu bò, lợn chó bị nước cuốn nổi lềnh bềnh trôi ra cửa Thuận An. Thiếu gạo, dân đói, vua Thành Thái ra chiếu cấm nhà buôn Bắc Kỳ không được mua thóc ở Trung Kỳ, ai không tuân chỉ sẽ bị tịch thu. Tin tưởng mua thóc trước khi có chỉ, Lân cho thuyền rời Thuận An. Ra đến Quảng Bình thì bị quan thuế tỉnh này giữ lại. Nó trình thưa, lạy lục nhưng quan thuế quyết giữ, nó buộc phải đánh điện cho chị. Nhận điện, Lan bàng hoàng. Ba tàu thóc đầy là một món tiền lớn, lại thêm tiền than đá đốt lò chạy hơn nghìn cây số rồi công xá bốc xếp. Mà còn chưa biết công ty nhập khẩu châu Phi phạt bao nhiêu vì sai hẹn hợp đồng. Xót của, Lan rũ người bỏ ăn mấy ngày. Cả công ty như có đám.
Thương vợ, Laglan vỗ về “cái khó ló cái khôn”, chả biết ai bày cho.
Biết lệnh triều đình đã ban ra là không rút lại, ba tàu thóc đó là mất trắng. Từ câu động viên của chồng, Lan bỗng nảy ra ý, biết dân đói nên công ty chở ba tàu thóc cứu giúp dân miền Trung. Lập tức Lan đánh điện gấp cho thằng Lân trình Tổng đốc Quảng Bình. Biết không phải vậy nhưng viên Tổng đốc thấy đây là cơ hội tâng công, cũng là dịp kiếm chác vội cho thảo bản tấu:
Tuân phụng ý chỉ của Hoàng thượng ra tay tìm cách cứu đói cho dân, thần đã khẩn tư đến các công ty của người An Nam ở các tỉnh thành và công ty của Tư Hồng ở tỉnh Hà Nội đã đồng ý chuyển ngay cho ba tàu thóc. Nước vẫn ngập, dân chẳng có gì ăn, số người chết đã lên hàng vạn, thần tấu xin hoàng thượng cho phép được phát ngay chỗ thóc đó cho dân. Thần có lời tâu bày, đợi chỉ tuân hành.
Viết xong lập tức cấp thuyền sai người vào kinh ngay. Ba ngày sau viên tổng đốc nhận được chỉ của vua Thành Thái kèm khẩn tư công ty Tư Hồng vào kinh nhận sắc phong. Nhận điện của Lân, Lan mừng quýnh, có sắc phong, việc mua thóc ở các tỉnh cũng sẽ thuận lợi hơn, đưa sắc cho đám quan huyện, ắt họ phải ép dân bán thóc cho cô. Sắc vua ban không thể ỉm đi, từ quan huyện xuống chánh tổng, lý trưởng Bình Thơ và tất cả già trẻ trong làng đều phải cung kính nghênh đón từ nhà chú Sáng, nghênh quanh tổng rồi tuyên ở đình. Tất cả sẽ phải quỳ lạy lúc quan huyện đọc chiếu. Nhà giàu nhà nghèo đều phải dâng hương dâng lễ vật ở đình, còn phải góp tiền làm cỗ. Phen nay cô cho dân làng Bình Thơ phải sợ cũng là để xóa hẳn tiếng con đĩ Cầu Nôm, rửa mặt cho cha mẹ.
Lan thu xếp lên đường ngay. Tàu hỏa mới chỉ đi đến Nam Định. Đoạn từ Nam Định vào Huế đang làm dở dang nên cô đi xe trạm. Giơ khẩn tư của vua, bọn lính trạm lấy ngựa khỏe, xe tốt lên đường ngay. Năm kia, cô đã được gặp vua Thành Thái khi ông ra Bắc Hà khánh thành cầu Paul Doumer. Ông là vị vua thương dân nhưng chẳng biết làm gì ngoài thương dân.
Vào đến Huế, Lan được vời ngay vào thành. Ngài ban cho cô hàm “Ngũ phẩm nghi nhân” [1] và biển vàng “Lạc quyên nghĩa phụ” [2]. Một quan nhất phẩm ghé tai có thể giúp cô xin ngài ban cho cha cô một sắc phong vì đã có công sinh thành ra người con có hiếu. Cô hiểu quan nhất phẩm muốn gì. Hai ngày sau ông đánh dậm một chữ bẻ đôi không biết được ngài ban sắc “Hàn lâm thị độc”. Cô không ngờ trong cái rủi có cái may. Và người xưa nói đúng “có tiền mua tiên cũng được”.
Lan sướng lịm người khi nghe tú Khai cắt nghĩa. Từ con bé nhà quê váy rách áo vá, cung phu vất vả, phơi mặt bán từng đấu gạo nay trở thành người đàn bà giàu có lại được vua phong hào hoa phong nhã bậc nhất trong đàn bà con gái An Nam. Cô nhẩm đi nhẩm lại câu “Nữ trung phong nhã chi hào, hồng trần bạt tục. Thế thượng vân lôi cho hội, bạch thủ thành gia” [3] trong sắc ban Ngũ phẩm nghi nhân.
Cô xoay ngược ý định ban đầu, quyết định tổ chức tiệc mừng ở tư gia làng Hội Vũ vì đón ở quê, quan Tây, khách sang và bạn buôn bán sẽ ăn uống thế nào, ngủ ở đâu. Nhận được chiếu vua, quan huyện phải ra Hà Nội rồi, lý trưởng cũng đố dám vắng mặt, về quê hai cái loa ấy sẽ lan khắp làng. Mải nghĩ thì dì Mùng mặt đầy mồ hôi nói như sợ cướp lời.
- Chú thím cháu khóa cửa bỏ đi rồi, ông ấy từ thằng cả vì không chịu theo. Lúc nãy hai vợ chồng nó bế con thuê xe tay về bên ngoại. Dì chả rõ ngọn nguồn thế nào.
Nghe dì nói cô hiểu ngay sự tình. Chú Sáng cho đó cơ hội nghìn năm mới có, dứt khoát bắt cô làm lễ đón ở làng để tát vào mặt những kẻ chuyên ăn không nói có trong làng, cho cánh nhà Lý Tung biết “sông có khúc, người có lúc” cũng là để rửa mặt cho họ Trần. Cô giảng giải thế nào ông cũng không chịu còn quát “bố cháu nhưng là anh ruột chú”. Cô không dám nói làm ở quê khách khứa về nhìn làng nghèo xơ xác cô bẽ mặt sợ chú điên thêm. Cô buộc phải nói trắng phớ.
- Họ Trần đã từ chú và hai chị em cháu, đón sắc ở Bình Thơ có trải chiếu hoa ở đình, được ngồi mâm trên, đinh trong họ chắc chắn chẳng ai ra. Rồi anh ruột chú cũng chỉ là ông đánh dậm, mà sắc phong là “Hàn lâm độc thị”, từ tiên chỉ đến con trẻ phải quỳ lạy, sắc vua họ phải chịu, xong việc cánh đầu bò đầu bướu trong làng lại móc máy họ Trần... Chú nghe cháu...
Thế là hết nước hết cái mà chú vẫn lắc đầu bỏ về.
- Họ nội nhà cháu lúc nào cũng nhiều chuyện - Bà Mùng tức tối.
Xe tay tư, xe ngựa đỗ dọc đường gạch. Dân làng Hội Vũ chẳng biết cô me Tây này làm trò gì. Khách nườm nượp ra vào. Tây đầm thì mang hoa, khách An Nam khệ nệ bê mâm đồng phủ nhiễu đỏ. Quan Toàn quyền Beau, quan Đốc lý Hà Nội cũng đến. Lại có cả quan đốc học mặc áo the, khăn đóng. Tiếng ta, tiếng Tây lẫn lộn. Đúng như Lan tính, quan huyện Vụ Bình dẫn theo lý trưởng Bình Thơ và lý trưởng còn dẫn theo mấy lính lệ ra chạy việc.
- Thưa bà xe trạm vừa mang chiếu đến tôi lên đường ngay. Thế có phải đọc chiếu không để tôi chuẩn bị.
- Tôi tổ chức lễ đón theo kiểu Tây, ông không phải đọc. Tôi đã cho người nhà mua sẵn khung kính to lồng chiếu vua vào trong treo lên tường để mọi người cùng hưởng chiếu của ngài.
Laglan mặc áo gấm màu xanh có chữ hỉ dệt nổi, khăn đóng màu đỏ đứng bên vợ đón khách. Ông trưởng phố dẫn theo một người khách, nhanh nhảu nói với Lan:
- Cụ Tam Nguyên đang mệt, nghe tin bà được vua Thành Thái ban sắc, cụ sai người gửi tặng ông bà đôi câu đối, ông bà thật may mắn...
Lan rạng rỡ:
- Cho mang vào treo chính giữa phòng khách để mọi người cùng thưởng chữ cụ.
Trưởng phố lon ton dẫn khách vào ngay, Laglan quay sang hỏi vợ:
- Tam Nguyên là thằng nào?
- Một nhà Nho danh tiếng khắp An Nam, không phải ai cụ cũng cho chữ đâu, em phải nói khó cụ mới gật đấy.
Laglan ngờ chính cụ này nhiều lần làm thơ đả kích người Pháp mà ngài đại tá ở Sở chỉ huy chiến dịch Bắc Kỳ có lần nhắc đến.
Bữa tiệc bắt đầu. Tiếng chạm cốc liên tục như bản nhạc không vần điệu đánh bằng pha lê. Lúc đầu Lan định làm cỗ kiểu ta, thấy bát đĩa quá lích kích nên xoay sang tiệc đứng, chỉ rượu vang với thịt bò nướng, bơ, pho mát và bánh mì.
Khách Tây vừa ăn vừa nói chuyện thì khách khứa An Nam lại xúm quanh chỗ treo câu đối. Có lẽ họ không quen kiểu đứng ăn đứng uống và món ăn lại không hợp mồm. Ăn uống là hưởng thụ, phải ngồi xếp bằng đàng hoàng. Lý trưởng Bình Thơ và mấy lính lệ rúm vào một góc nhìn Tây. Không thấy ai mời nên không dám ăn. Bỗng một anh lính ghé tai lý trưởng thì thầm:
- Sao không thấy vợ chồng thằng Sáng đâu nhỉ?
Họ nhà nó từ không ai ra đã đành. Đón sắc của anh mà em vắng mặt chắc chú cháu hục hặc. Lý trưởng gật gù. Chỗ treo đôi câu đối của cụ Tam Nguyên ngày càng đông hơn. Nhiều người đọc nhíu mày.
Có tàn có tán có hương có án thờ vua, danh giá lẫy lừng băm sáu tỉnh
Nào biển nào cờ nào sắc phong cho cụ, chị em hồ dễ mấy lăm người
Chẳng ai nói gì, chỉ kín đáo đưa mắt nhìn nhau. Quan đốc học tỉnh Hà Nội cũng tặng đôi câu đối Nôm.
Ngũ phẩm sắc phong hàm cụ lớn
Ba thuyền tế độ của bà to
Lần này họ mím miệng cười thầm, không thâm sâu như cụ Tam Nguyên nhưng phũ phàng đến rát mặt.
Tiệc tan, Laglan phải vào thành. Lan cho soạn quà cáp. Thấy đôi câu đối của cụ Tam Nguyên, Lan gọi tú Khai bắt giải nghĩa.
- Thưa bà, cụ ca ngợi bà thôi ạ.
Lại thấy ba chữ trên tờ giấy hồng điều nét bay bướm.
- Thế còn chữ này?
- Dạ... thưa đó là ba chữ chi chi giã, thực ra nó chả có nghĩa gì cả...
Chữ của nhà Nho không bao giờ vô nghĩa, không ý này thì cũng nghĩa khác, Lan nhìn tú Khai ngờ vực:
- Không phải ai cũng được nhà Nho chửi, chửi tức là công nhận tôi, cho phép cậu nói thật.
Tú Khai ậm ừ.
- Tôi cho phép cậu rồi cơ mà! - Lan giục.
- Nếu bà cho phép, tôi mới dám nói... chi chi giã... chi chi giã... nói lái là... cha cha đĩ...
- Cái cụ này thâm thật, nhưng không phải ai cũng làm được đĩ.
Mở cuộn giấy khác lại thấy chữ, cô bắt tú Khai giảng giải. Tú Khai lừng khừng.
- Của nhà Nho nào vậy? Chắc lại chửi tôi?
- Dạ, không thấy đề tên nhưng cũng không chửi...
- Thì cậu đọc tôi nghe.
Tú Khai hắng giọng đọc:
Than ôi! Đệ nhất cảnh Thăng Long
Vượng khí nghìn năm có nữa không
Hai cửa còn trơ hai thánh miếu
Một thành sót lại một hoàng cung
Nhường ngao ngán nỗi công ông Bạch
Cũng ghê gớm cho của chị Hồng
Còn biết đâu là nền đế bá
Than ôi! Đệ nhất cảnh Thăng Long
- Cậu vừa đọc công ông Bạch là Bạch Thái Bưởi phải không?
- Dạ không, ông Bạch ở đây chỉ đền Bạch Mã thờ thần Long Đỗ, vị thần bảo trợ cho thành Thăng Long ạ.
- Tôi hiểu tâm trạng của nhà Nho này nhưng dù sao cũng có tên tôi trong đó, cậu giữ lại làm khung treo lên tường còn sắc phong, câu đối của cụ Tam Nguyên, đưa xuống nhà kho.
Tú Khai vâng dạ rồi mang đi.
Tiếng ti tỉ của vợ khiến ông Sáng bực bội.
- Có im không thì bảo!
- Ông làm tan cửa nát nhà sao tôi im được.
Rồi bà lại hờ hờ. Ông biết mình có lỗi. Trưởng họ bắn tin, họ từ ông và hai đứa cháu chứ có từ anh ông đâu. Anh ông được vua ban sắc phong, vẻ vang là ơn nhờ phúc đức tổ tiên, sao nỡ vô ơn. Họ có từ cũng phải báo để trưởng họ thắp nén hương kính cáo, ghi vào gia phả, để dân làng biết ơn đinh họ Trần đã mang lại vinh hạnh cho cái làng chiêm khê mùa thối này. Giàu có thì chú cháu nhà nó hưởng, có ai trong họ vay mượn xin xỏ gì đâu. Họ nói vậy nhưng nếu ông đến nhà mời, thế nào cũng sai cháu ra bảo đi vắng. Đúng là lưỡi không xương nhiều đường lắt léo. Lại thêm chuyện lý trưởng về oang oang khắp làng, chú cháu nó cắn nhau, việc của anh ruột mà lại bỏ về quê. Còn dân làng đã ức sẵn vì phải góp tiền sắm lễ cho lý trưởng mang ra nhà con đĩ giờ được dịp xỏ xiên. Sớm nay có con mẹ mồm chó vó ngựa qua ngõ chõ vào “Sắc vua thì phải chịu, chứ cái ngữ nợ không giả được phải treo cổ thì hàn lâm độc thị cái nỗi gì”. Giờ ông thấy cháu đúng nhưng đã muộn. Cũng đã gần chục ngày nay không được bế cháu nội, ông thấy nhớ cháu. Ở quê không xong mà quay ra Hà Nội mặt mũi nào gặp cháu. Đầu đau như có sán chui vào, ông vật mình ra chõng.
6.Hẳn phải việc hệ trọng Trúc mới gọi dây nói muốn gặp cô. Nhân thể chưa đến giờ, cô bảo thằng xe chạy một vòng quanh thủ đô của Liên bang Đông Dương. Qua gian nhà phố bờ sông, chỗ cô từng thuê. Con phố đã hoàn toàn khác, dãy cô ở giờ là gara ô-tô, cái hè đất lúc trời mưa là chỗ trú của khách đi tàu mọc lên vòi nước máy công cộng, mấy con sen đang dẩu mỏ cãi lộn. Đê được nâng cao hơn.
Hàng ngày cô vẫn phải đi qua các phố nhưng đầu óc bộn bề toan tính cô chả để ý sự thay đổi từng ngày của Hà Nội. Phố đã có đèn điện đường, ở nhiều phố trụ đèn dầu bằng gang bị nhổ bỏ thay bằng cột đèn điện bê tông hình trụ. Đường thẳng tắp. Cây xanh trên hè đã cao. Hàng Đào, Hàng Ngang có nhiều nhà xây theo lối Tây. Tàu điện leng keng từ hồ Gươm chạy ra ngoại ô. Trụ sở báo Tương lai Bắc Kỳ có kiến trúc tân kỳ sừng sững trên phố Hàng Thêu. Đó là tòa nhà đẹp nhất quanh hồ Gươm. Đường quanh hồ trải nhựa mịn màng, cây xanh đổ bóng xuống nước làm cho hồ Gươm duyên dáng như thiếu nữ. Phố Paul Bert tấp nập người ra vào các cửa hàng. Phía nam hồ Gươm hiện ra nhiều biệt thự chả thua kém công thự của chính quyền. Mùi hoa sữa trên đường Grand Bouddha [4] hăng hắc. Đường rộng rãi, vỉa hè lát gạch Đông Triều màu đỏ tươi, loại gạch nổi tiếng Bắc Kỳ. Lan sai phu chạy ra ga Hàng Cỏ, nơi từng là chợ bán cỏ ngựa hoang bẩn giờ mọc lên dãy nhà hai tầng lợp ngói đen. Phía trên gian giữa gắn chiếc đồng hồ tròn hai kim. Kẻ gồng gánh, người tay nải tất tả. Giọng hát non nớt của con bé mặc xống trâu vá víu như than chìm trong tiếng ồn ào.
Anh khóa ơi!
Kể từ ngày anh xuống tàu...
Cô mở sắc lấy tiền bỏ vào túi nó một đồng bạc, thằng xe thòm thèm như thể “biết thế con cũng đi ăn mày”. Xe quay lại phố Paul Bert. Hiệu đồng hồ, quần áo Tây, bánh ngọt, tiếng hô hố của một ông Tây vọng ra từ quán rượu. Xe dừng trước quán cà phê Tonkin, Lan vội bước vào.
- Xin lỗi thầy, lâu lắm tôi mới có thời gian dạo quanh Hà Nội, nó khác quá, cựa mình từng ngày.
- Tôi cũng vừa tới. Nhìn chị mặc đồ đầm trông trẻ và đằm thắm hơn, bớt đi phần đanh đá và kiêu sa.
Lan ngạc nhiên, trước đây có khen, Trúc rất tế nhị nhưng cô cũng thấy vui vui - Đã lâu tôi không được trò chuyện với ngài quan tư, chắc ông ta vẫn lạc quan như ngày nào?
- Ồ, đó là mẫu hình của người Pháp.
- Việc buôn bán của chị chắc càng tốt lên?
- Rất tốt, tôi đang lo hợp đồng cung cấp thực phẩm cho các nhà tù trên toàn xứ Bắc Kỳ.
- Việc ngập đầu lại thêm cơm tù thì mấy năm tôi mới được gặp chị đây?
Lan cười. Quan tư Filix quản lý các nhà giam là bạn thân của Laglan. Họ chơi với nhau từ lúc cùng ở Sở pháo binh, khi ấy Filix mới tốt nghiệp trường huấn luyện Bắc Giang. Nghe Filix phàn nàn về chất lượng thực phẩm cho tù, Laglan hứng luôn và quyết định được Filix đưa ra ngay tại bàn cà phê.
Cụ cử Hiền hối thúc Trúc thi Hương, cụ bảo thi để nối truyền thống ông nội. Cụ sợ không còn người hoằng đạo [5] Nho giáo. Trả lời không thì quá phũ phàng, mà thưa có lại trái lòng, Trúc khất cụ mấy lần. Trúc nghĩ Lan nhanh trí, sáng dạ, theo sát thời cuộc có thể giúp tìm câu trả lời.
- Cụ cũng biết từ lâu thầy ký không còn học chữ Hán cơ mà?
- Cụ không dạy nữa nhưng tôi vẫn tự học, sách bây giờ không hiếm như xưa, phố in Hàng Gai bán đầy. Cụ tinh lắm, nói chuyện với tôi cụ biết tôi vẫn đọc sách chữ Hán.
Ngài Toàn quyền muốn các nhà Nho tập trung vào thi để nhãng đi phần chống đối. Bắc Kỳ yên ổn, chính phủ Bảo hộ họ rảnh tay hơn. Nhưng sớm muộn chính phủ cũng sẽ dừng các kỳ thi Nho vì họ bắt buộc dạy tiếng Pháp tại các trường tiểu học. Cấp sách miễn phí, học không mất tiền, chẳng phải để chơi, họ tính toán rồi. Ngay chuyện họ phá thành mở đường cũng nằm trong tính toán đó. Trúc không thi sẽ chẳng còn cơ hội.
- Theo tôi thầy nên thi. Một anh cử lại thành thạo tiếng Tây cả Tây và ta đều cần.
- Chị thật am hiểu thời cuộc.
Lan cười giòn tan. Điều đó chả phải Lan nghĩ ra, cô học lỏm từ bạn của Laglan. Nhà chính trị ngồi trên ghế đối mặt với dân chúng còn nhà buôn giữ cho cái ghế khỏi đổ. Buôn bán to mà không hiểu biết thời thế sập cơ đồ có ngày.
Dù biết các nhà Nho coi khinh hạng người như cô nhưng cô vẫn trọng họ. Họ là tinh hoa trong xã hội. Vì thế cô xuống tận Đồ Sơn đưa ma ông Dumoutier. Bị Toàn quyền Paul Doumer sa thải chức thanh tra học chính, Dumoutier không về Pháp mà chọn Đồ Sơn ở ẩn. Paul hết nhiệm kỳ, Toàn quyền mới tiếp tục hành ông, cấm không được bày tỏ thái độ với các nhà Nho An Nam về cách cai trị của chính phủ Bảo hộ. Buồn vì tư tưởng cai trị bằng sự tôn trọng bị bóp chết, ông treo cổ tự vẫn. Lan rất khâm phục.
Nghe Lan nói Dumoutier chết, Trúc lạnh người. Cụ cử Hiền chắc chưa biết. Nếu biết cụ đau lắm vì Dumoutier là người Pháp duy nhất cụ tôn trọng, hai người hay bàn về chữ Hán, chữ Nôm và đạo Nho.
- Tôi sẽ đi thi.
- Đỗ hay trượt là “học tài thi phận” như thầy có lần nói với tôi. Không đỗ tôi cũng gả đứa em họ cho thầy... hai người sẵn chữ ở với nhau thì hợp lắm...
Trúc ngượng, mặt đỏ như nhót chín. Cũng chẳng còn trẻ trung gì nữa, các chú giục lấy vợ nhiều rồi.
Hai ông con đi một vòng trên con đường mới mở. Không còn phu phen xe đất ồn ào, thành xưa giờ là trại lính. Con hào rộng ngoài thành giờ thành đường, còn đoạn sông Tô Lịch cũng từng là hào phía bắc chảy ra hồ Tây bị san bằng phẳng thành phố Carnot [6]. Đường mới cắt qua kho lương tiền, họ gọi là đại lộ Van Vollenhoven [7]. Đường nào cũng rộng, trên hè có hai hàng cây mới trồng. Nỗi đau dù đã lẩn vào trong nhưng nghĩ đến điện Kính Thiên chỉ còn trơ đôi rồng đá, cụ cất giọng ngâm nga:
Trái phá Tây chăm chực bắn vào
Chỉ không cho đánh biết làm sao?
Ngọn cờ tướng lính oai linh gượng
Chén rượu Đông Môn khảng khái phào
Uất khí Nùng Sơn càng muốn cựa
Thương tâm Nhị thủy sóng tranh veo
Răng hoa Võ Miếu rơi thêm mãi
Sống trộm ghê không thẹn biết bao [8]
Rồi cụ lấy vạt áo lau nước mắt.
- Thưa cụ, con được biết năm 1884, vẫn còn tượng binh. Hàng ngày quản tượng vẫn giữ lại phân voi để làm nấm cỏ rầy, loại nấm còn ngon hơn cả nấm hương, sau đó đội tượng binh ra sao?
Cử Hiền thườn thượt.
- Biết lính Pháp bỏ đồng hai xu bắt voi quỳ xuống quắp làm trò tiêu khiển, vua Đồng Khánh đề nghị Pháp trả lại đội tượng binh cho triều đình nhưng họ lờ đi. Con voi có ngà đẹp nhất bị giết, đôi ngà bây giờ để trong Phủ Thống sứ Bắc Kỳ. Họ bán hai con cho gánh xiếc thú của một người Hà Lan chuyên biểu diễn ở chợ Hàng Da, số còn lại bắt tải lương đạn cho đoàn quân bình định, chở quá sức, lại giá rét ở miền núi tượng binh chết dần... Hôm trước cụ cử Thạch nói với ta câu của Hiệp chính Nguyễn Trọng Hiệp tại lễ khánh thành cầu Sông Cái cách đây mấy năm, “Che chở một dân tộc bằng đức chính là giúp người sang sông”, đức gì mà lại dùng súng bắn người An Nam... - Cụ nghẹn ngào.
- Ta nghe nói dạo này con càng thân thiết hơn với Tư Hồng... Hà Nội là thành phố có đức thế mà vì tiền nớ nỡ... Ta không trách con...
- Thưa cụ...
- Hình như con thay đổi nhiều quá, không còn là cháu cử Khiêm bạn ta nữa...
- Thưa cụ...
- Nhưng con đồng ý thi Hương là ta mừng rồi, “Vạn sự xuất ư Nho” [9] con à!
Cũng vừa lúc ấy Lan xuất hiện. Cô lại gần lễ phép chào cử Hiền nhưng cụ khinh khỉnh bỏ đi.
Hai ngày sau, người cháu cử Hiền đến nhà Trúc báo tin cụ đã mất. Trước khi đi, cụ tắm nước mưa, thay quần áo mới, người nhà can ngăn nhưng cụ quát và đuổi ra. Chốt chặt cửa buồng, cụ nuốt bốn chục bài thơ chữ Nôm viết trên giấy dó vào bụng. Chiêu thêm hai bát nước vối rồi buông màn xô, đắp chăn, mặc người nhà kêu khóc, van xin. Mọi người áp tai sát vách nghe ngóng, không còn tiếng cụ cựa mình, người con trai út vội phá cửa xông vào thì cụ đã tắt thở, bụng trương phềnh.
Đám tang cụ đông đúc, bạn đồng niên trường Hồ Đình còn vài cụ nhưng học trò nhiều vô kể. Ai cũng mặc áo xô, đội mũ rơm, tay chống gậy. Bà con hàng phố đến đưa đám dài cả cây số. Bãi tha ma làng Vũ Thạch trước nằm gần ở gần bờ sông, khi vua Tự Đức cấp đất cho Pháp xây lãnh sự, tha ma bị di dời, Tổng đốc Hà Nội cấp cho làng rẻo đất sát thôn Giáo Phường [10] để chuyển mồ mả ra đó.
Xe tang đi vào đại lộ Van Vollenhoven, đại lộ ngay sát điện Kính Thiên, bác đánh xe hiểu ý gia đình cho ngựa đi rất chậm. Dân các phố ai biết cụ đều tự chít khăn và nhập vào đám, người đi đường cũng dừng lại bỏ nón cho đến khi xe chở quan đi qua. Nhẽ ra Trúc chít khăn vàng nhưng vì là học trò nên cậu mặc áo xô. Lan không đưa tang nhưng gửi đôi câu đối do tú Khai mang đến.
Vũ Thạch mất vẫn còn chữ đức
Mưa đá không xói được chữ tâm
Hôm sau Trúc đến tòa, Đốc lý Logerot hăm he:
- Người ta thấy cậu trong đám tang cử Hiền. Bà Tư Hồng bạn cậu cũng phúng đôi câu đối, đọc cũng nặng tình lắm.
Trúc chỉ cười rồi ngồi vào bàn lặng lẽ làm việc. Dù sao cảnh báo của ông ta giúp cậu giữ mình và kín đáo hơn. Trước khi được bổ nhiệm Đốc lý, Logerot làm ở Phủ Thống sứ Bắc Kỳ. Công việc của ông ta là giám sát các nhà Nho, ghi chép họ lập ngôn cũng như thơ văn, giúp Thống sứ có đối sách với tầng lớp dẫn dắt tinh thần phản kháng của dân chúng An Nam.
7.
Lần đầu tiên Lan biết xơ Antoine khi thằng Lân mới ra Hà Nội. Nó bị bệnh, người hầm hập như lò than hoa, dì Mùng dấp nước đặt miếng vải lên trán cũng không bớt nóng. Cụ lang Cứu Thái đến tận nhà bắt mạch, cụ bốc cho chục thang uống hết nhưng tính mạng Lân vẫn nguy kịch. Lan hoang mang chưa biết làm thế nào thì tú Khai mách đưa đến phòng khám Tây của xơ ở Phủ Doãn. Có bệnh vái tứ phương, lập tức Lan cho võng Lân đi ngay. Ông bác sĩ già sờ nắn, lấy ống nghe đặt vào ngực, rồi nói với xơ giữ lại điều trị vì bệnh lao rất nặng. Những ngày lưu lại phòng khám, xơ cho uống thuốc, tận tình chăm sóc, lại động viên Lan thằng Lân sẽ khỏi. Và nó khỏi sau hai tháng vừa tiêm vừa uống thuốc. Từ đó Lan mang ơn xơ.
Xơ là y tá phục vụ trong quân đội Pháp ở Hà Nội từ năm 1883. Thấy dân An Nam ốm đau chỉ cậy nhờ vào các bài thuốc không mấy hiệu quả của các thầy lang, xơ Antoine cùng hai bác sĩ nhờ đất của quan Phủ Doãn mở phòng khám và phát thuốc miễn phí cho họ [11]. Khi chính phủ Bảo hộ sung công đất này để xây bệnh viện, xơ xin Đốc lý miếng đất di chỉ của huyện Thọ Xương [12] lập nhà tế bần.
Đã lâu không gặp xơ nên hôm nay Lan muốn đến thăm. Laglan đòi theo nhưng cô không cho. Trong lúc xơ đang chầu lễ ở nhà thờ nhỏ, Lan đi vòng quanh và mắt cô ngấn ướt khi nhìn người An Nam tàn tật quẩn quanh trong gian nhà lá. Rồi mục sở thị mấy bà Tây già bị chồng bỏ bễ cặm cụi đan len, Lan định bụng bỏ tiền xây nhà gạch.
Dù đã chuẩn bị tâm thế cho ngày rời khỏi quân đội từ lâu nhưng mặt Laglan vẫn thất khí khi ngài đại tá trao quyết định nghỉ hưu.
- Tôi rất buồn phải nói lời chia tay với ngài quan tư, một người lính dũng cảm, một sĩ quan xuất sắc đã dành trọn đời phục vụ quân đội và cống hiến cho nước Pháp. Nước Pháp sẽ mãi mãi biết ơn công lao của ngài. - Viên đại tá nói bằng chất giọng như đọc điếu văn.
Những lời lẽ kiểu này Laglan đã nghe nhiều lần nhưng cũng làm ông ta bật khóc vì cảm động. Chiếc áo dolman chỉ còn được treo trên mắc. Bữa tiệc diễn ra tại đơn vị, bị các sĩ quan cấp dưới vốn không ưa tính nghiêm cẩn của ông lờ đi, chạm cốc xong Laglan bỏ về.
Laglan vẫn chưa bỏ được thói quen dậy sớm dù nghỉ hưu khá lâu. Thẫn thờ đi lại trong biệt thự trong lúc vợ vội vàng đến văn phòng. Và khi mặt trời lặn khuất, đèn đường ở ngõ Hội Vũ bừng sáng, Lan mới vác mặt về. Câu chuyện trên bàn ăn cũng nhạt hơn và kết thúc bữa tối, cô ta chui tọt vào phòng đóng cửa. Cô ta sống đúng kiểu Pháp. Mấy người bạn tâm giao thì kẻ đã về Pháp, người thuyên chuyển sang Viên Chăn hay Phnom Pênh, chẳng còn ai chia sẻ vui buồn. Rồi chiến tranh thế giới lan rộng khắp châu Âu, Laglan lo cho mạng sống của Morel, có lúc ân hận vì từ ngày cha mẹ mất, ông chưa về Pháp đặt cành hoa lên mộ hai người.
Về nhà nhưng Lan không ăn tối, cô vào phòng ngồi thừ trên giường. Lúc chiều, một thanh niên tóc cắt ngắn, mặc đồ Âu vào văn phòng tự xưng là con trai cả bố Hồng. Lan bàng hoàng vì cậu ta là bản sao chuẩn, từ cái trán, đôi mắt một mí và đặc biệt hai cái tai vểnh như tai chuột. Cậu ta giở tấm ảnh hai cha con chụp chung ở Hương Cảng để chứng minh cho điều vừa nói.
- Sáng nay tôi vào thăm cha, ông ấy gửi cho cô một lá thư.
Lan vội mở ngay.
Gửi cô Tư Hồng!
Sau mấy lần gặp cô vì công việc, lần nào tôi cũng day dứt chuyện đứa con của chúng ta. Trước lúc cha tôi qua đời, tôi gặng hỏi có phải ông đã bày ra trò đánh ghen cô, qua bà cụ già nào đó cho cô uống thuốc vô sinh nhưng ông lắc đầu. Tôi không biết ông trả lời thật hay nói dối nhưng dù sao tôi rất ân hận về chuyện đó.
Cuộc sống xô đẩy tôi phải làm nhiều công việc luôn liên quan đến An Nam. Cách đây gần hai tháng, tôi bị cảnh sát Pháp bắt vì tội vào An Nam trái phép. Những người quen cũng giúp đỡ nhưng họ chẳng thể đưa tôi ra khỏi Hỏa Lò. Tôi biết cô quen biết luật sư giỏi và cô từng cứu nhiều người vô tội thoát khỏi vòng lao lý. Tôi không vịn vào chuyện cũ của hai ta để cô động lòng nhưng mong là cô sẽ giúp tôi. Cô ra vào nhà tù thường xuyên, cô biết tù nhân bị cai ngục đối xử thế nào. Mong cô hiểu cho tôi, một tù nhân cao tuổi. Hãy tha thứ cho tôi về chuyện đã qua. Cám ơn cô!
Đọc xong thư, uấn ức chất chứa trong cô tan biến, chỉ còn lại nỗi xót thương ông ta. Dù sao cũng một thời chăn gối. Thường phạm cũng như chính trị phạm, ăn uống đều kham khổ. Nửa đêm đang ngủ cai dựng cổ dậy hỏi cung. Trò bắt tù đánh giày bằng lưỡi của gã Tây lùn ở Hỏa Lò làm tù khiếp sợ. Đánh xong đôi giày cổ đau muốn gẫy còn lưỡi rớm máu đau rát. Lại thêm ngón thúc giày đinh vào bọng đái nên nhiều phạm chính trị không chịu nổi phải khai. Không giúp mang tiếng bạc tình mà giúp cũng chẳng dễ, Hoa thương ra tay còn không cứu nổi chắc gì mình đã làm được...
Cố nén sự bực tức, Laglan nhẹ nhàng mở cửa rón rén ngồi bên cạnh.
- Hôm nay em đến nhà tế bần của xơ Antoine, cả người Pháp, người An Nam sống trong gian nhà lá ẩm thấp quá... Em đã nói với xơ sẽ xây cho một cái nhà tử tế...
Kiếm được đồng tiền chẳng hề dễ dàng, đôi khi còn phải đánh đổi cả lòng tự trọng bao nhiêu năm ra sức gìn giữ. Lại vắt óc toan tính, sức khỏe hao mòn, đành là giúp nhưng cô ta nói chữ “cho” sao mà nhẹ bẫng. Không có ông sao cô ta có được tiền của như ngày hôm nay. Lại còn coi ông như kẻ ở trong nhà. Laglan lặng im ra ngoài lấy chai vang, mở nút tu ừng ực như đấu với lần uống trước. Và bây giờ ông mới nhận ra khe nứt giữa hai người luôn được cô ta che đậy bằng mệt mỏi vì công việc. Đầu ông dâng lên ý nghĩ về Pháp.
Chiều nay Laglan uống nhiều hơn mọi lần. Vỏ chai lỏng chỏng dưới sàn nhà. Phần bực vợ, phần thấy đau, mới cởi bỏ áo lính thành dân họ đã phủi nhanh quá, cư xử tệ bạc. Sáng nay thằng trung úy đáng tuổi con bắt ông ngồi trên chiếc ghế sắt, chiếc ghế chuyên dành cho kẻ có tội, còn nó ngồi trên ghế xoay bọc da quay ông như quay phạm. Nó bóng gió ông là kẻ bị cắm sừng vì vợ ông dám vác mặt xin tha tội cho người tình cũ. Một kẻ từng bị trục xuất do liên quan đến đường dây buôn lậu thuốc phiện và bây giờ vào An Nam bằng giấy tờ giả. Laglan không đặt nặng chuyện đó, giúp đỡ người tình cũ có gì mà ghen tuông, cô ta xin công khai, không lén lút. Nhưng nhục nhã là phòng nhì nghi ngờ ông cũng tham gia hội kín, có ý phá rối hệ thống luật pháp của nước Pháp. Hơn cả nhục, trong gian phòng hôi hám sặc mùi dọa dẫm, thằng trung úy đó công khai nghi ngờ lòng trung thành của ông với nước Pháp. Chưa bao giờ ông từ chối hay chống mệnh lệnh được giao dù biết có thể chết. Chưa bao giờ nhiệm vụ được giao mà ông không hoàn thành. Rời nước Pháp sang xứ thuộc địa, giáp mặt với tử thần khi nó còn chưa ra đời mà giờ đây nó dạy bảo ông về lòng ái quốc.
Laglan tu đến giọt cuối cùng rồi vung tay ném cái vỏ qua cửa sổ, chẳng ngờ lại đập vào khuôn cửa. Mảnh thủy tinh tóe ra phòng khách. Tiếng loảng xoảng làm Lan tỉnh giấc. Cả chiều nay cô bàn bạc với luật sư tìm kẽ hở luật pháp cứu Hồng, mệt mỏi đến mức về nhà cô vừa thả mình xuống giường đã thiếp ngay. Cô ra phòng khách ngồi đối diện với Laglan. Ông ta nói như ra lệnh:
- Tôi yêu cầu cô chấm dứt ngay việc xin xỏ cho tù nhân.
- Em đâu có làm gì sai với luật pháp?
- Chiều nay phòng nhì gọi tôi lên tra khảo như thằng tù chính trị.
Lan bất ngờ, ông ta là quân nhân về hưu không dính dáng vào việc cô, làm sao bọn họ dám tra khảo. Đầu giờ chiều nay họ cũng gọi cô lên nhưng chẳng đưa ra chứng cứ nào cô liên quan đến hội kín.
- Họ đã làm nhục tôi, tôi cấm cô từ nay không xin xỏ gì hết.
Lan nổi cáu:
- Em không làm anh xấu hổ.
- Nhưng tôi cấm cô. - Laglan ra lệnh.
- Anh không có quyền can dự vào riêng tư của em.
Laglan vung tay tát vào má Lan, cái tát quá mạnh khiến Lan ngã vật ra. Máu trong miếng ứa ra mép rỏ xuống sàn. Ông ta lao vào đỡ vợ nhưng Lan co chân đạp mạnh làm ông bắn ra. Cô ôm miệng lảo đảo chạy về phòng đóng sập cửa lại. Mặt Laglan tái mét. Chắn chắn ông phải tát rất mạnh mới chảy máu. Ông nhìn bàn tay mình. Nó vừa to vừa dày, ngón tay đúng như củ mành tinh gặp đất tốt. Cả đời chưa bao giờ đánh ai dù đó là kẻ thù và lần đầu tiên đánh người thì người bị đánh là đàn bà mà đúng người đàn bà ông yêu. Biết có vật nài Lan cũng không mở cửa, ông chạy vội xuống tầng một gọi hầu gái. Con bé nhanh chóng theo ông chủ lên nhà, vừa mở mồm nói bà ơi cháu mang nước lên cho bà xúc miệng, lập tức có tiếng giày ném vào cánh cửa. Hầu gái vội lùi ra. Laglan khựng người ra hiệu cho nó đi. Ông ngồi phệt trước cửa phòng dựa vào tường như kẻ vô gia cư ở Bờ Hồ.
Người thằng Lân chỉ còn da bọc xương. Hai mắt sâu như lỗ đáo, hơi thở gấp và đuối. Cả ngày nó chỉ ăn được mấy thìa sữa bò. Ông bác sĩ Tây nói vòng vo khiến bà Mùng càng rõ bệnh lao của cháu vô phương cứu chữa, cái chết đang đến rất gần. Lúc bà về nó nắm chặt tay cứ như nắm tay dì lần cuối. Bà co hai chân lên bộ xa lông khóc tu tu, than giời không thương bắt nó đi quá sớm. Lại gào thét chửi bới Lý Tung dã man đầy cháu bà đến bệnh tật..
Laglan đứng ngoài cửa định gõ rồi lại rụt tay. Giá như còn cô Ba, nhờ cô ta thuyết phục chắc Lan sẽ nghe ra, tiếc là vợ chồng cô đã về Pháp. Laglan biết ở An Nam, cha chết thì chú cũng như cha, ông Sáng sẽ lấy quyền huynh thế phụ khuyên bảo cháu nhưng ông tiếc là ông đã lẫn mấy năm nay. Cũng đã mấy lần Laglan năn nỉ xin lỗi mà cô ta cứ lạnh lùng. Cô ta đưa đơn ly hôn, Laglan không ký. Tòa gọi ông ra thẩm vấn vì tội đánh phụ nữ. Nếu Lan không rút đơn tòa sẽ xử theo yêu cầu của Lan. Xưa nay tòa án Pháp luôn bênh vực phụ nữ. Một bà già ăn mày xán lại chìa tay. Định bước đi chả hiểu trời xui đất khiến, Laglan quay lại gõ cửa, còn nước còn tát.
Bà Mùng lau nước mắt ra mở cửa, bà ngạc nhiên đó là Laglan. Ông ta có bao giờ đến nhà bà đâu, chắc chắn phải có chuyện rất to và dính đến con Lan. Mặt ông ta rầu rĩ. Bà Mùng chẳng biết nói gì. Laglan im lặng hồi lâu rồi nhỏ nhẹ kể hết mọi chuyện. Lâu nay bà cũng không hỏi tình cảm của vợ chồng cháu vì nó đâu còn non dại như hồi ở Lương Xá, nếu ở quê, nó đã phải ra đình làm lễ lên bà từ lâu. Bà Mùng hiểu, chuyện vợ chồng xô xát một phần có lỗi của Lan và ông ta muốn nhờ bà khuyên bảo cháu rút đơn ly hôn. Đàn ông biết điều với vợ là đàn ông khôn.
Laglan đi, bà gọi xe tay sang ngay nhà cháu. Đến nhà thấy Lan đang ngồi uống cà phê ở phòng khách, mặt lạnh tanh. Không kìm được bà hỏi:
- Cháu có giận dì cũng nói... Dì không hiểu tại sao cháu cứ thuê luật sư cứu hết người này người khác để làm gì... Cửa nhà đang yên ổn giờ vỡ ra...
Ông ta chưa bao giờ làm phiền họ hàng nhà vợ mà phải nhờ đến dì chứng tỏ ông ta vẫn rất yêu mình, không muốn chia tay. Laglan nghĩ cô đưa đơn ra tòa vì ông tát cô lại là sai lầm tiếp theo. Trong cuộc sống vợ chồng, những khiếm khuyết của chồng liên tục được vợ bỏ qua thì họ lại nghĩ mình có quyền được như vậy và từ sai họ luôn nghĩ mình đúng. Cái tát chỉ là giọt nước làm tràn bát, Lan làm đơn vì nhiều năm nay, hai người đồng sàng dị mộng. Việc Lan cứu người vô tội ra khỏi nhà tù vì luật nước Pháp quy định đưa ai vào tù phải có chứng cứ. Có chống là chống kẻ làm sai luật, không chống nước Pháp. Cô cũng giải thích người khác không làm mà chỉ có cô vì tính cô như vậy. Ông ta chẳng chịu nghe, lại có ý cho rằng cô bao biện cho hành vi chống đối.
- Cháu làm đơn ly hôn không phải vì chuyện đó. Dì không hiểu được.
- Ở đời hết tình thì còn nghĩa cháu à!
- Cháu vì nghĩa nhiều năm nay rồi.
- Nhưng sống phải có đức đời con cháu mới có phúc... cháu ơi nghĩ lại đi, ông ta là người tốt đấy...
Từ bé cô đã nghe quá nhiều những lời dạy bảo sống để phúc cho con cháu. Cô có làm gì vô phúc đâu. Chuyện gì đến thì nó phải đến. Lan lặng lặng đi vào trong nhà. Bất lực, bà đùng đùng ra về, đi bộ đến ngã ba ngõ Hội Vũ và phố Hàng Bông gọi xe thì bất ngờ gặp Laglan. Hóa ra ông ta chờ bà để hỏi kết quả cuộc nói chuyện...
Chú thích:
[1] Chức ban cho vợ quan ngũ phẩm.
[2] Người đàn bà làm việc nghĩa tự ý quyên góp của cải.
[3] Hào hoa phong nhã bậc nhất chị em, đàn bà khác thường gặp thời mây tuôn sấm dậy, tay trắng nên nhà.
[4] Phố Quán Thánh ngày nay.
[5] Làm rộng cái đạo lý.
[6] Nay là phố Phan Đình Phùng, quận Ba Đình. Sadi Carnot (1837-1894), kỹ sư và chính trị gia, Tổng thống Pháp, bị ám sát năm 1894.
[7] Nay là phố Chu văn An, quận Ba Đình. Van Vollenhoven, Phó toàn quyền Đông Dương giai đoạn 1913-1915.
[8] Thơ khuyết danh.
[9] Mọi sự đều ở nhà Nho mà ra cả.
[10] Nay tương ứng với phần cuối phố Huế, ngõ Huế, một phần phố Thái Phiên và một phần phố Tô Hiến Thành.
[11] Năm 1469, nhà Lê đã đổi phủ Trung Đô, trung tâm hành chính của khu vực Kẻ Chợ, thành phủ Phụng Thiên, gồm hai huyện Quảng Đức và Vĩnh Xương, mỗi huyện có 18 phường. Câu nói Hà Nội 36 phố phường căn cứ vào quyết định này. Đứng đầu phủ Phụng Thiên là quan Đại Doãn vì thế dân gian gọi tắt là phủ Doãn. Khi nhà Nguyễn cai trị, chuyển kinh đô vào Huế đã đổi phủ Phụng Thiên thành phủ Hoài Đức. Khu vực này nay tương ứng với bệnh viện Việt Đức, quận Hoàn Kiếm.
[12] Tỉnh Hà Nội thời Nguyễn gồm hai huyện là Thọ Xương và Vĩnh Thuận, khi Hà Nội trở thành thành phố nhượng địa năm 1888, chính phủ Bảo hộ đã xóa bỏ huyện này, nay tương ứng với quận Hoàn Kiếm và Hai Bà Trưng bây giờ.