← Quay lại trang sách

- III -

Cuối mùa xuân năm Một nghìn chín trăm năm mươi bảy - 1957.

Các vùng núi phía tây và tây bắc nước ta được giải phóng đã hơn ba năm.

Trên mảnh đất ứa máu của Tổ quốc bấy lâu bị giành giựt nhàu nát nghe đã im hẳn tiếng súng. Bình yên trở lại rồi. Những toán phỉ tràn đến đều bị bộ đội và dân quân bắt hết hoặc chúng đã phải chạy trốn trở về bên kia biên giới. Tuy nhiên, những chuyện giết người man rợ của chúng vẫn còn trong những lời thì thầm bếp lửa. Đôi khi, một xóm hẻo lánh nào đó tự dưng lại lơ láo vì một câu đe doạ tận đâu đâu đồn về. Nhưng cũng chỉ phảng phất thế, rồi nhạt dần, lại có khi phảng phất, rồi lại nhạt dần.

Thật sự ngày tháng ước mong đã tới.

Xinh xinh như lời hát của người Lô Lô.

Muốn có cánh như chim

Nhưng núi rừng cao quá

Ngờ đâu còn ngày nay

Được làm người.

Ai đến xóm người Hà Nhì cũng khen người Hà Nhì giỏi làm vườn, làm ruộng bậc thang, khen cái xóm Hà Nhì đẹp, mà chê cái nhà người Hà Nhì ở tối quá.

Thật đấy, người Hà Nhì làm nhà ở chỗ cao, chỗ sáng. Xa trông, nếp nhà xóm Hà Nhì mái tranh vươn lên, tròn gọn như cái tổ ong mật. Đường lên xóm xếp đá, bậc phẳng. Nước khe đá chảy loang loáng trong lòng chiếc máng vầu bắc dưới một làn liễu. Có cụ già Hà Nhì ngồi gốc liễu uốn dây mây đan ghế. Có những cô gái Hà Nhì lặng lẽ cúi rửa rau cải.

Thế nhưng nhà người Hà Nhì ở chỉ khoét độc có một cái cửa nhỏ, lúc nàn trong nhà cũng tối như đêm dày.

(Có gì đâu, người Hà Nhì chúng tôi cũng biết ghét ở nhà tối và biết yêu thích cái sáng sủa, thế mà suốt đời đành phải ở nhà tối. Để chống rét và chống cướp. Kẻ cướp nào cũng sợ vào nhà tối một cửa. Vào nhà người Hà Nhì thì dễ chết.

Bây giờ giải phóng rồi, đã có áo ấm và không còn phải chống cướp. Người Hà Nhì chúng tôi sẽ làm nhà nhiều cửa, ngồi trong nhà cũng xem được cả cái xóm chứa chan nước chảy trên đá qua ngoài sân nắng - vậy thì, ở nhà tối tăm không phải phong tục và không còn là thói quen người Hà Nhì nữa rồi).

Ai vào nhà người Dao cũng quý người Dao khéo tay đẽo gọt, đan lát. Thế mà cái nhà người Dao ở thì cả đời chỉ tạm bợ, cột thì chôn và kèo thì bằng đố ngoãm. Chỉ vì người Dao cũng chẳng thiết gì nhà, suốt đời phải đem cái bụng đói đi theo nương, chỉ vì vua quan đốt phá làm hại, chỉ vì có nhà tốt ở thì quân cướp đến rình khoắng của.

(Bây giờ giải phóng rồi, không còn thằng Tây, không còn vua quan, người Dao ta sẽ giúp nhau làm nhà có đá kê chân cột, có cửa gỗ đóng, trước cửa lại đào ao nuôi cá, trồng cây chanh, làm cối xay cối giã, sầm uất cả xóm).

Người Mèo cũng như người Hà Nhì, người Dao, chẳng ai muốn lúc dọn nhà đến ở núi khác chỉ đội đi theo được có một cái chảo vỡ. Bây giờ, giải phóng rồi, người Mèo học người Hà Nhì làm ruộng bậc thang, người Mèo và người Dao định cư một chỗ, ở toàn nhà vách có mái gỗ tốt.

Đất nước của ta rồi, nhân dân được thảnh thơi như con chim, các dân tộc ta đã được làm người.

Như lời hát xinh xinh của người Lô Lô:

Ngờ đâu còn ngày nay

Được làm người.

Trên các vùng du kích xưa kia, những nơi khuất xa hầu như chưa bao giờ có ai lạ đặt chân tới, cũng đã lập được ủy ban hành chính, có người các xóm ra làm đại diện chính quyền.

Dưới châu Yên, công việc thật bộn bề. Các ủy ban xã trên vùng cao thường phải đi mấy ngày đường về tận dưới ấy bàn công tác với ủy ban, với Châu ủy.

Rồi đến cuối mùa xuân ấy, lần đầu tiên có hàng mậu dịch đem lên bán tận Phiềng Sa.

Mấy hôm trước đã nghe nói thế. Cả vùng Phiềng Sa lại biết tin cán bộ Nghĩa cũng lên cùng chuyến với muối và dầu hỏa của mậu dịch.

Muối và dầu hỏa của cửa hàng mậu dịch dưới châu Yên đem lên các núi bán phòng mùa mưa lũ, bị nghẽn đường, người vùng cao không xuống châu mua được.

Thế là Phiềng Sa bỗng đông hẳn lên.

Ai cũng nói:

- Cán bộ Nghĩa!

Giọng thân thiết như thường ngày người ta nói đến A Páo, A Lử nhà này nhà kia. Từ xóm Ná Đắng ở tận dưới cửa suối lên, ai nấy kéo đi gặp cán bộ Nghĩa.

Bà Giàng Súa và Mỵ cùng theo tới ủy ban, vui như ngày Tết mọi người đi ăn cỗ lần lượt các nhà trong xóm.

Bà Giàng Súa năm ấy hơn sáu mươi tuổi. Các cụ đến tuổi ấy còn làm việc nhà việc nương chẳng kém con dâu, con gái. Nhưng cảnh khổ đã làm bà Giàng Súa già đi nhiều. Một bên chân bà Giàng Súa đau thành tật, khập khiễng, chỉ bước được chậm chậm.

Thào Mỵ bây giờ đương tuổi tròn con gái. Vẫn mặc váy áo từ khi ở khu du kích, đã cũ, bạc trắng như mọi chị em. Nhưng ai cũng phải tấm tắc khen Mỵ đẹp nhất làng. Mặt Mỵ trắng hồng, nét tròn mềm như quả lê non. Thào Mỵ hát hay và đàn môi giỏi. Chỉ khẽ lựa hơi mà người cách mấy khoảng nương cũng bắt được tiếng đàn môi thì thào của Mỵ.

Mỵ chưa biết nghĩ lâu đến cái vui và cái buồn. Khi nào mẹ kể chuyện cũ, nhớ anh, Mỵ cũng tha thiết nhớ. Nhưng, dù sao, tuổi con gái đương lớn đương chơi, những chuyện khổ chưa nung nấu trong lòng được. Cái năm, anh Nhìa đem Mỵ đi chợ, Mỵ cũng còn mang máng. Mỵ lại nhớ lúc chạy rừng, Tây càn đến nơi. Có lần Mỵ theo anh Khay vác nỏ đi phục kích. Không gặp giặc lại cùng nhau đi bắn chuột rồi đốt lửa lên, nướng ăn. Mỵ nhớ ngày kháng chiến như chuyện hôm qua, hôm kia.

Hai mẹ con đến trụ sở ủy ban. Một gian nhà trên khoảng đất trống đầu bãi đá.

Chẳng trông thấy cán bộ Nghĩa, chỉ thấy ai cũng nghển cổ, có đông người đi ra đi vào. Tận đẩu tận đâu, người Xá đầu ngọn suối Nậm Ma cũng đến. Hôm nay đã bán muối rồi.

Mùa mưa năm ngoái, năm kia, Phiềng Sa vướng lũ không xuống châu Yên mua được muối. Năm nay muối chính phủ lên bán tận nơi. Ai cũng muốn giữ chỗ mua nhiều mua trữ. Người đeo vỏ quả bầu lọ, người cõng cái ống bương dài. Bước vào thì mặt đỏ, bước ra đã thấy tay xách, lưng vác, miệng cười phớn phở. Hẳn ai trong ấy nói đùa câu gì, làm cho tiếng cười ồn ã lại ran từ trong giữa đám cân muối ra.

Thào Mỵ bước vào, không thấy cán bộ Nghĩa. Nhưng Thào Mỵ cứ đứng nán trong ấy xem ông chủ tịch Tỏa bán muối.

Lúc ra, mẹ sốt ruột, hỏi, Mỵ luống cuống:

- Không thấy... không thấy...

Những người xách ống muối đến, nói to:

- Cán bộ Nghĩa sắp đến.

Bà Giàng Súa nhìn vàn đám người rồi bảo con:

- Ta đợi vậy.

Hai mẹ con ngồi tận ngoài gốc cây vông.

Người kéo đến vẫn đông.

Đến xế trưa, người xa đã về vợi, nắng đã nhạt trắng trên đá. Bấy giờ trông vào trụ sở vãn người mới thấy mặt chủ tịch Vừ Sóa Tỏa; chủ tịch Tỏa đương bán muối.

Lúc nãy, bà Giàng Súa không thể trông thấy ai ở trong là phải. Trụ sở ủy ban hôm nay thực sự thành cái kho muối. Cứ trắng tinh như bãi cát bờ suối, mà chủ tịch Tỏa thì đứng nhấp nhô, ngẩng lên cúi xuống, lúc vét muối cồn cột lúc lại lách cách nhấc cái cân. Cứ tăng tả, túi bụi. Mọi ngày cũng vậy, chẳng khi nào chủ tịch Tỏa ngồi trong trụ sở. Tới phiên chủ tịch Tỏa thường trực, người có việc đến đều thấy ông chủ tịch xã đương làm nương rau trước cửa - mùa nào thức ấy, rau cải, đậu Hà Lan, đậu răng ngựa, cả mạch và ngô. Nương rau, nương ngô của xã để biếu khách qua lại công tác cứ việc chén! Và từ ngày các xóm lập tổ đổi công thì chẳng buổi làm nào của tổ mà vắng chủ tịch Tỏa. Làm cho nhà ai, bao giờ cũng có chủ tịch Tỏa, chủ tịch Tỏa vác cây đeo địu, nhanh nhanh đi đầu. Ai cũng nói: "Chủ tịch Tỏa ấy thật người của ta".

Khi đó, chủ tịch Tỏa đương hét vào tai ông già nghễnh ngãng điếc cứ ngồi chống gối ngay trước đống muối:

- Lão Nhìa Páo này, lấy muối đi.

Ông già Nhìa Páo nghênh mặt lên. Miệng cười trống hốc chẳng còn một chiếc răng:

- Tao đi xem muối thôi, không mua.

Hỏi thế nào, lão vẫn trả lời một câu như thế. Chủ tịch Tỏa lại phải quay đi quay lại quát tướng vào cả hai bên tai. “Lấy muối đi! Lấy muối đi!". Nhìa Páo nghiêm mặt, rồi ớ ra, chừng như đã nghe thủng hay đoán hẳn được câu nói của chủ tịch Tỏa. Nhưng rồi Nhìa Páo lại trả lời một câu chẳng ra sao:

- Tao chưa biết ăn một hạt muối của thằng Tây đâu.

- Muối này là muối của Chính phủ.

Nhìa Páo gật:

- Được! Cả hai con ngựa nhất ngựa nhì của thằng chủ ngựa Đèo vừa mới lên đến đây ông đã làm cho chết phát điên ngay một lúc rồi.

Chủ tịch Tỏa không nói nữa, cứ điềm nhiên nhấc cái túi lừ vắt trên vai Nhìa Páo xuống, xúc đổ vào túi hai ống muối. Nhìa Páo cũng không nói thêm, từ từ cuốn túi lại gọn trong tay rồi đứng lên, bước ra, đi và cười một mình. Lúc ấy, chủ tịch Tỏa đã mặt đỏ phừng vì mệt, hai tay áo xắn cao. Từ đống bao tải muối ngẩng lên, ngảnh ra, thẩy mẹ con bà Giàng Súa, chủ tịch Tỏa gọi:

- Bà Giàng Súa! Đem tiền vào đây lấy muối này!

Chủ tịch Tỏa cố nói to, mà giọng đã khản khé. Mấy người còn đứng đấy đều quay cả ra chỗ mẹ con Mỵ và gọi hộ. Bà Giàng Súa vẫn lặng im, thờ ơ nhìn vào.

Chủ tịch Tỏa lại hét to:

- Bà Giàng Súa à! Ai già cũng điếc như Nhìa Páo cả à?

Rồi giơ hai cái ống vầu đong muối lên:

- Vào đây mà lấy muối.

Bà Giàng Súa đáp:

- Tôi còn đợi cán bộ Nghĩa, ông chủ tịch ạ.

Người đứng quanh đấy, cười to:

- Phải rồi, bà già còn ngồi đợi gả con gái cho cán bộ Nghĩa đấy. Có gặp tận mặt mà nói chuyện mới cẩn thận được.

Mỵ lúng liếng quay đi, má bừng đỏ, mồ hôi ra xâm xấp đầy trán.

Lúc ấy, vừa hay Nghĩa tới, người và ngựa lên dốc đường dài, đương bốc hơi. Nghĩa đã tới đây hôm trước, lại mới trở xuống châu Yên đôn đốc một chuyến muối và dầu hỏa nữa lên.

Nghĩa vắt cương ngựa qua cành vông, bước đến.

Hai anh cán bộ mậu dịch người Thái cũng vừa đưa hàng lên cùng, đương loay hoay mở nắp cái thùng dầu hỏa mới, rồi khiêng ra góc sân bên. Ngày mai bán dầu hỏa ngoài bãi đá và bán muối cho những làng ven bên kia núi.

Trong tàu ngựa, mấy con ngựa cắm cúi liếm cái bao bì muối ướt thâm sịt. Ngoài kia, nắng bừng to. Thỉnh thoảng, từ trong bóng nắng xanh rờn trên cỏ, lại nhô ra một con ngựa. Một anh chàng nào về mua muối chậm, vừa ném vội cương ngựa vào gốc vông, không kịp buộc, đã nhảy xuống. Con ngựa đực đứng trong tàu vênh mõm cất vó, hí ầm ĩ.

Bà Giàng Súa gọi:

- Cán bộ Nghĩa!

Cán bộ Nghĩa đến bắt tay bà Giàng Súa và bắt tay cô Mỵ:

- Bà Giàng Súa! Cả cô Mỵ cũng về mua muối kìa!

Bà Giàng Súa hỏi ngay:

- Cán bộ đi xa lâu thế có gặp thằng Khay không?

Bà lão tưởng ai đi đâu cũng đều gặp Thào Khay. Nghĩa nói:

- Khay đi học rồi.

- Đi học à?

- Học xa đấy.

- Học xa thì ban giờ được về?

Nghĩa cười:

- Bà Giàng Súa đừng lo. Khay học giỏi lắm, sắp về rồi.

Bà Giàng Súa cũng cười. Cái cười nhợt nhạt kéo rúm nét mặt lại, nhưng con mắt trìu mến thì ánh lên, ngước nhìn Nghĩa.

- Khay đi học với Chính phủ bao giờ về cũng được, tôi không lo đâu.

Nói thế rồi bà Giàng Súa bỗng sa nước mắt. Nghĩa không hiểu sao, nhìn Mỵ. Nghĩa không thấy Mỵ buồn mà lại thấy Mỵ mỉm cười và quay đi. Lấy làm lạ, Nghĩa hỏi:

- Mẹ Mỵ khóc gì vậy.

Mỵ nói:

- Mẹ muốn hỏi đường về suối Nậm Ngù, anh Nghĩa ạ.

Bà Giàng Súa nức nở.

Mỵ lại nói.

- Anh Nghĩa có biết suối Nậm Ngù ở đâu thì bảo mẹ.

Bà Giàng Súa nói:

- Cán bộ Nghĩa đã đi khắp đất nước rồi, có biết suối Nậm Ngù ở đâu?

Nghĩa nhớ ra câu chuyện vừa đáng cười vừa đáng thương về thằng Nhìa hóa hổ rồi được người Xá cứu cho sống lại - bà Giàng Súa đã kể nhiều lần, từ khi Nghĩa còn ở khu du kích. Có lẽ từ ngày đầu tiên, cán bộ Nghĩa đến tìm bà Giàng Súa trong hốc đá, bà Giàng Súa đã kể chuyện ấy.

Nhớ thế, Nghĩa nhớ luôn câu trả lời đã quen, Nghĩa bèn thong thả lắc đầu:

- Tôi chưa lần nào được đến Nậm Ngù.

- Bao giờ cán bộ Nghĩa đến suối Nậm Ngù có người Xá thì bảo cho tôi biết với.

- Suối Nậm Ngù chảy qua làng người Xá.

- Ừ, suối Nậm Ngừ chảy qua làng người Xá, năm ấy...

Ông chủ tịch Tỏa ở trong trụ sở đã đong sẵn rồi đem ra đưa cho bà Giàng Súa hai ống muối, đủ một cân. Chủ tịch Tỏa nói:

- Muối đây.

Lại toan rút cái túi trên vai bà, như rút túi của lão Nhìa Páo, nhưng bà Giàng Súa đã cầm cân muối gói chặt trong chiếc lá dong bắt chéo, đem đặt vào chiếc địu dựng cạnh chân. Rồi bà cúi đầu, nhắm mắt, ngồi yên.

Không phải bà còn tưởng đến con suối Nậm Ngù xa xôi mà bà đương nghĩ về cân muối cầm trong tay. Cân muối, cân muối trắng bông. Bao nhiêu năm chưa được nhìn thấy có lúc có cả một cân muối nhiều như thế.

Lúc xúc động là lặng im. Người ta nhắm mắt lại mà chiêm bao thì ngẫm ra nhiều điều. Cán bộ Nghĩa vừa nói: "Thằng Khay học giỏi lắm". Cái ngày cán bộ Nghĩa đến túp lều nhà bà ở hốc đá trong rừng, từ ngày ấy, bà Giàng Súa nhẹ như cất được quả núi trên lưng. Cán bộ đến, nhạt ma rồi thằng quan thằng lính chết rồi, Khay đi bộ đội rồi bây giờ đương học giỏi ở xa. Khay sẽ về, Khay sắp về. Những hạt muối trắng hơn bọt nước suối. Hàng đời người mới trông thấy cả gói một cân muối. Ngày trước, bà Giàng Súa hay nghĩ đời con người như mớ củi đốt lên đến tàn. Không, bây giờ bà Giàng Súa thấy đời người như bếp vừa lên lửa, mỗi lúc một sáng, mỗi ngày một sáng hơn. Rồi cũng có khi bà Giàng Súa hỏi thăm được đường đến suối Nậm Ngù. Đời người ta quả nhiên là mỗi ngày một sáng hơn rồi.

Chủ tịch Tỏa nói:

- Chốc nữa anh Nghĩa về ăn cơm với tôi nhé.

- Bây giờ đồng chí đi đâu?

- Đi vào rừng kiếm thịt ăn.

Rồi chủ tịch Tỏa khoác súng, phóc lên lưng một cơn ngựa không có yên. Con ngựa cung cúc chạy.

Còn một mình Nghĩa đứng đấy, Mỵ hỏi:

- Đã lâu sao anh Nghĩa không lên Phiềng Sa?

- Công tác bận lắm.

- Có người nói giải phóng rồi, cán bộ về làm quan dưới ruộng, chẳng lên núi như lúc kháng chiến nữa. Đấy là người xấu nói. Em không tin, anh Nghĩa nhỉ?

- Phải, người xấu nói thế thôi. Bây giờ tôi lên lập kho muối đấy. Tôi chuyển sang làm cán bộ kinh tế, cô Mỵ ạ.

- Cán bộ muối à?

- Thế đấy. Việc gì của Chính phủ cũng là việc cách mạng, cô Mỵ ạ. Tôi sẽ lập cửa hàng mậu dịch.

- Ở đây à?

- Ở đây.

Mỵ cười:

- Thế thì anh nghĩa là người dân tộc Mèo rồi.

- Tôi vẫn là người Mèo, cô Mỵ chưa biết ư?

- Biết rồi.

Lại cười.

Nghĩa cũng cười, nhớ lại một chuyện của mình năm trước. Năm ấy, đội võ trang tuyên truyền phát triển sang tới biên giới, các tổ cán bộ vào Tây Bắc củng cố cơ sở, tổ chức các đoàn thể kháng chiến. Nghĩa từ Phú Thọ theo đường châu sông Mã vào một lần với các đồng chí Bắc Dũng và đồng chí Trần Quốc Mạnh. Nghĩa lên phụ trách “trạm" giao thông đường dây qua Phiềng Sa. Nghĩa đến một mình, nhưng nhân dân thấy cán bộ đến giúp đánh Tây liền tin cậy ngay.

Người Mèo vốn đã từng trải nhiều lần đánh giặc Pháp. Ngày xưa, ngót trăm năm trước, khi giặc Pháp đến chiếm nước ta, Phiềng Sa đã nổi lên. Suốt dọc biên giới dài sang Xiêng Khoảng, vào sâu Hà Giang, đâu đâu người Mèo cũng đánh Pháp. Nhưng rồi không có người đi đầu tài giỏi nên không lấy lại được đất nước. Ở Phiềng Sa, giặc Pháp giết mấy chục người. Còn bao nhiêu, đem đi bỏ tù dưới đường xuôi, không ai sống về được quê. Nghĩa lên đây đã nghe nói về tinh thần quật khởi và truyền thống dũng cảm ấy của Phiềng Sa.

Thế rồi, nhiều lúc trò chuyện, Nghĩa thường kể cho mọi người nghe câu chuyện của mình tưởng tượng ra sau đây:

Bố Nghĩa làm ruộng quê dưới xuôi. Ngày trước bố Nghĩa cũng làm cách mạng đánh Pháp, bị bắt đi tù. Ở tù, gặp một người Mèo, hai ông kết nghĩa anh em. Bố cho Nghĩa thăm hỏi, làm đầu con nuôi ông bạn người Mèo phải đi tù xa quê. Đến lúc ốm sắp chết, ông bố nuôi dặn lại Nghĩa: “Con ơi! Cha mẹ ngày trước sinh ra ta, cho ta được nhìn trời ở Phiềng Sa. Sau này, con nhớ mà tìm đường về, nhìn cho thấy trời Phiềng Sa". Vì vậy Nghĩa đã nhớ, đã biết quê Phiềng Sa từ thuở bé. Lớn lên, đi làm cách mạng, được Chính phủ phái vào Tây Bắc, lên công tác Phiềng Sa, Nghĩa mừng như được Chính phủ chỉ đường về quê, Nghĩa lên ngay.

Chuyện có ông bố nuôi người Mèo là chuyện Nghĩa tưởng tượng ra. Nghĩa nghĩ: đặt ra câu chuyện ấy làm cho cán bộ với nhân dân càng đoàn kết thân thiết. Và thật thì Nghĩa đương làm theo lý tưởng tốt đẹp của câu chuyện ấy. Những cán bộ người các dân tộc anh em đến với nhân dân Tây Bắc đương làm theo lý tưởng ấy. Mỗi lần kể chuyện làm con nuôi người Mèo, Nghĩa đều cảm động, như thấy lại những ngày cũ thật như thế.

Đã biết bao nhiêu cán bộ lặn lội vào Tây Bắc ngày kháng chiến. Những con đường vào Tây Bắc, con đường chỉ độc một vết chân người tìm ra, con đường quanh co tránh đồn, tránh địch đưa người cán bộ vào tới nhân dân. Nhưng trên những gian khổ, nhiều đồng chí đã nằm lại. Đoàn cán bộ xung phong vào Tây Bắc của Nghĩa có lần qua dốc Lùng Cúng, leo trên sườn đá sương mù, dưới rừng đọng nước như thạch. Có đồng chí rét quá, không chịu được, ngã xuống, chỉ đưa đẩy con mắt được mấy lần rồi thôi.

Nghĩa vào tới Phiềng Sa, gặp lại tinh thần kháng chiến, như ở địa phương mình. Đâu cũng kháng chiến. Nghĩa tưởng mình là người Mèo, có câu chuyện con nuôi thật. Không đùa cợt, Nghĩa nói "tôi là người Mèo", chân thật và bình thường.

Ngẫm nghĩ một lát rồi Mỵ trả lời Nghĩa:

- Không phải, anh Nghĩa là người quê xuôi thôi.

- Cán bộ công tác đâu thì lấy đấy làm quê mình, cô Mỵ ạ.

- Còn người ở quê nào thì về lấy vợ quê ấy, không lấy vợ ở quê công tác.

- Cô Mỵ có là chim bay đâu mà biết.

- Em biết.

Nghĩa không nói thêm. Nghĩa cẩn thận, giữ ý trước tình cảm sôi nổi tự nhiên của những cô gái vùng cao.

Bà Giàng Súa đứng dậy, chào Nghĩa và dặn: "Hôm nào xong công tác, nhớ đến nhà chơi". Mỵ theo mẹ bước ra.

Ánh chiều xanh dịu lướt thướt qua bãi cỏ trước cửa. Người đi tận đằng này cũng nhìn thấy bóng dài xuống đến chân nương.

Nghĩa lơ đãng trông ra, tình cờ thấy trong nắng, bóng bà Giàng Súa đi chậm chậm. Tò mò, Nghĩa đợi nhìn bóng Mỵ theo sau. Nhưng lạ, sao không thấy. Rõ ràng, vừa đây ra, Mỵ bước đi sau mẹ.

Nghĩa ra hẳn cửa, nhìn theo. Thì thấy Mỵ đeo địu trên lưng, vẫn tần ngần đứng bên cửa.

Đôi mắt lư đừ. Nghĩa thoáng nhìn thấy thế, rồi cúi nhanh xuống không dám nhìn thêm. Cảm tưởng đôi mắt ấy vẫn nhìn anh.

Nghĩa hỏi:

- Cô Mỵ đứng đấy làm gì?

Mỵ nói:

- Em đứng đây đợi chào anh. Chào anh Nghĩa.

Rồi Mỵ chạy theo mẹ, không quay đầu lại.

Trong kháng chiến, thường qua nhà bà Giàng Súa, Nghĩa xem Mỵ như em. Ba năm không lên Phiềng Sa, hôm nay trở lại, cô bé năm trước đã có cặp mắt đương thì biêng biếc, làm xao động lòng người.

Mỵ có lòng yêu Nghĩa. Người con gái e lệ, nhưng lại thật thà hồng bột tin yêu. Nếu bây giờ Nghĩa chỉ nói một câu yêu Mỵ, lát sau, cả vùng đều biết Nghĩa nói Nghĩa yêu Mỵ, cả vùng biết Nghĩa cho Mỵ chiếc khăn hay Nghĩa đã giữ cái gương của Mỵ rồi.

Mơ màng thế, Nghĩa bồi hồi. Nỗi bồi hồi của người trai được yêu. Nhưng Nghĩa lại buồn ủ ê. Nghĩa chưa có vợ. Nghĩa chẳng có ai ở đâu chờ đợi, nhưng Nghĩa không muốn yêu người ở đây. Nghĩa không muốn. Thế là Nghĩa lại vẩn vơ nghĩ.

Quê Nghĩa dưới Phú Thọ.