- IV -
Một hôm, người đi làm nương sớm nhìn thấy từ dưới núi đi lên một đốm trăng trắng. Rồi sau mỗi lúc trông một rõ ra đấy là một người cưỡi ngựa.
Người ấy cưỡi ngựa trắng, đội mũ lưỡi trai có cái lưỡi cứng đen nhoáng, mặc quần áo dạ đen, kín cổ. Chân đi bốt lửng cao su. Lưng đeo cái túi da vuông. Người thanh niên cao lớn trắng trẻo, vành tai to. Hai má lông tơ, đi trong sương lạnh, má cứ hồng lên.
Con ngựa lững thững giữa đám cỏ tranh vàng áy.
Người trên nương không đoán được ai quen. Có lẽ bộ đội dưới châu lên. Bộ đội thật. Vì đồng chí ấy đội cái mũ lạ và có chiếc túi da đeo lưng.
Đồng chí bộ đội lên đến đầu dốc thì xuống ngựa. Các khe núi đương tuôn sương mù dày đặc, trăm nghìn dòng suối bông chảy ra lưng trời, chảy ngang người, ngang ngựa. Con đường chỉ còn mờ mờ dưới chân. Nhưng những tảng đá to rải rác ven bờ thì đồng chí bộ đội vẫn trông thấy rõ và nhớ, gọi tên ra từng tảng được.
Những tảng đá lực lượng ngồi đấy, đứng đấy. Đá đứng đá ngồi, đá cũng có việc, đá không chơi không đâu. Đồng chí bộ đội nghĩ thế. Tảng đá kia có cái tai bành ra che ô cho người làm nương và người đi chợ trú mưa. Tảng đá này có hang sau lưng. Ngày trước, mỗi khi du kích đi chiến đấu về lỡ sáng giữa đường, thì leo lên hang ngủ. Có tảng đá, mặt hũm sâu bằng giếng, chứa nước trời quanh năm. Chuyến nào đi giao thông vượt dốc đến đây, khát nước, trèo lên cúi mặt xuống hớp một hớp, ngọt hơn nước đọng ống vầu. Có những tảng đá rỗng. Cụ già về đến đấy thì mỏi rồi, liền đem cành củi cắm vào chân đá. Chân đá đầy que cắm của các cụ già mỏi gối. Cụ già cắm củi vào chân thần đá để xin thần đá phù hộ cho chân người càng đi càng khỏe ra.
Mỗi hòn đá lặng lẽ bên đường mà mang trong mình biết bao nhiêu chuyện. Con đường này, người già đi rồi, cái khổ lên rồi cái khổ qua. Con đường này đã bao lớp người đi qua. Nó chẳng ở yên đâu. Bây giờ nó sắp đến kỳ thay đổi, con đường cho lớp người trẻ đi, cho hạnh phúc, cho ngựa phóng, cho ô tô lên.
- Ta đã đi nhiều đường ô tô lên vùng núi cao khắp đất nước. Phiềng Sa rồi cũng thế. Những ngọn núi lượn vòng chân trời kia. Đất nước mình bao la không bao giờ hết.
Vui quá đồng chí bộ đội ngước nhìn sườn nương đã cày vỡ. Trong sương sớm, đã thấy những người chăm làm lố nhố đi ra. Đồng chí bộ đội buông cương cho con ngựa đứng lại. Ngựa được dịp cúi mõm, lặng lẽ quơ cỏ. Đồng chí bộ đội nhảy xuống, tựa lưng vào sườn con ngựa ấm, rút sáo thổi.
Cái sáo lưỡi đồng thả tiếng vờn theo bóng sương, đâu cũng nghe tiếng.
Đường quê người Mèo
Bao nhiêu dốc, bao nhi.êu núi
Bao nhiêu bài hát khó nhọc
Đường nào qua Tà Sùa[5].
Ai mà khéo thổi sáo đến thế? Các nương đổ cả ra đầu dốc. Lúc kháng chiến, người quê ta đi du kích, đi bộ đội cũng nhiều. Hay là lại có người trở về?
Trong một khoảng nương cách núi nàn đó, không thấy nhau, nhưng nghe tiếng sáo trả lời.
Đường quê người Mèo
Một nghìn dốc, một nghìn núi
Một nghìn bài hát khó nhọc...
Lúc ấy, đầu dốc đã phủi khỏi làn sương, nhìn xuống thấy nhô lên con ngựa trắng. Ai cũng trông thấy một người cưỡi ngựa mặc áo dạ tím, đeo túi da, đi giày và đội mũ lưỡi trai bóng nhoáng, mặt trắng hồng, tai to. Đẹp quá, không phải người quê ta. Ồ, nhưng trên túi áo ngực người cưỡi ngựa lại lấp ló cái đuôi sáo buộc sợi chỉ đỏ. Thế thì ai đây?
Người cưỡi ngựa trông lên, cất tiếng hỏi:
- Còn nhớ tôi không?
- Nhớ lắm.
- Tôi là ai?
- Đồng chí bộ đội.
- Bộ đội nào, bộ đội anh Long hay bộ đội anh Mạnh?
- Bộ đội Thào Khay đây.
Tất cả các núi cùng kêu lên:
- Thào Khay!
Ngoài nương còn sót một cụ Nhìa Páo điếc, thấy người ta chạy hết ra đầu núi, cũng đã theo nốt ra rồi.
Đàn bò vàng đeo chuông, đủng đỉnh dừng lại. Một con chó to, xù lông, hốt hoảng tưởng chuyện gì, đứng sủa vọng ra. Con ngựa đương gặm cỏ bỗng dưng cũng lơ đãng đánh rơi mấy nhánh cỏ, rồi cất mũi, hí dài vào vòm sương đương tan.
Các cụ già nhớ ngày xưa các cụ có câu khấn người chết phù hộ "người sống ở lại trên đời sinh đẻ con cái cho đông dòng họ, lội suối không bao giờ ngã chết đuối, con gà con lợn con ngựa nuôi đều to béo, khỏe mạnh”. Lúc ấy, các cụ già nghĩ: "Những người hy sinh lúc kháng chiến đã phù hộ cho Thào Khay được trở về, béo tốt, mặc quần áo đẹp, trong người có súng, có chữ". Thào Khay đã trở về, đúng như ước mong của mọi người.
Ở nhà bà Giàng Súa và con gái đương sắp cơm đi nương. Mỵ còn cời trong đống than ra mấy quả ớt nướng. Bà Giàng Súa lắng nghe tiếng chân ngựa rầm rập ngoài phên. Lại thoáng sợ rợn người. Cái giật mình suốt đời của bà Giàng Súa.
Thào Khay bước vào, nói to:
- Lạy mẹ!
Bà Giàng Súa ngớ ra. Rồi bà Giàng Súa chạy lại:
- Thằng Khay!
Mẹ nắm cả hai bàn tay, dõi mắt vào mặt con. Bấy lâu lòng mẹ có ngần nào thương nhớ, dồn vào đấy, không buông mắt buông tay con ra được nữa.
Người làng đã vào đông đầy, nhìn thấy thế, đều đứng im. Không ai cười, cũng không ai khóc. Cả vùng này xưa kia tối tăm, cả vùng này ngày nay giải phóng, có giải phóng mới sinh ra được một người bộ đội đẹp như thế cưỡi ngựa về, đứng một chỗ mà thơm khắp nhà.
Mọi người lẳng lặng đi quanh, ngắm nghía hai mẹ con. Đến lúc Mỵ khe khẽ nói:
- Mẹ bảo anh Khay ăn cơm!
thì mẹ mới buông tay con trai, rối rít ra dọn cơm. Dọn thế nào mà mấy lần lấy chậu đựng ngô lại lấy lẫn bát canh cải bát muối ớt giã. Thào Khay ngồi ăn, thong thả, ăn một miếng lại cất tiếng mời mẹ, mời họ hàng - vẫn nhớ phong tục tốt đẹp quê mình: ai ăn - uống thì luôn luôn mời người xung quanh cùng ăn. Tay nó cầm thìa múc bột ngô đưa lên miệng vẫn khéo lắm. Thấy thế, mọi người đều mừng rỡ sung sướng lạ lùng, chạy về đem cơm ngô sang cùng ăn. Họ cười khoái như xưa nay chưa trông thấy ai ăn cơm ngô ngon lành thế.
Bà Giàng Súa hỏi:
- Con về với bộ đội nào?
- Con ở trường về, mẹ ạ.
Thào Khay nhấc chiếc bao da trên vai, mở nắp túi. Cái hộp tiêm ánh ra màu kền sáng. Cái ống nghe thòi hai chiếc vòi cao su như hai cái hoa dáy đỏ rơi xuống. Bà Giàng Súa không biết những gì đấy. Thào Khay cắt nghĩa:
- Con học trường y tế, con biết chữa bệnh, mẹ ạ.
Bà Giàng Súa tròn mắt nhìn:
- Con làm thày cúng của Chính phủ a?
Thào Khay cười:
- Con là đồng chí y sĩ của Chính phủ.
Mỵ cũng cười:
- Em biết rồi. Đồng chí y tá dưới châu Yên cũng có những cái này!
Thào Khay nói:
- Đúng đấy.
Rồi Thào Khay lại múc ngô, múc canh, cười đùa, kể chuyện cưỡi ngựa thổi sáo. Người làng càng thấy nó thật là thằng Thào Khay.
Chủ tịch Tỏa, rồi Nghĩa tới. Trong nhà đông ngộn người. Cái điếu cày truyền khắp nhà, truyền đến tận người ngồi trong các xó. Vui quá, ai cũng vê mồi thuốc lá đưa mời nhau. Trẻ con leo thang lên sàn bếp, ngồi vắt vẻo thò đầu nhòm xuống. Chủ tịch Tỏa hỏi:
- Về công tác hay về chơi đấy?
- Về công tác.
Nghĩa nói:
- Khay về làm y tế, tôi về làm mậu dịch, đồng chí chủ tịch kiêm tổ trưởng đổi công, đồng chí chủ tịch sướng chưa?
Chủ tịch Tỏa nói:
- Tốt quá, tốt quá, có thêm người về, không vắng vẻ như năm ngoái nữa, bây giờ chúng ta đông đặc rồi.
Thào Khay nói:
- Giấy giới thiệu của tôi đây. Cả Đảng, cả chính quyền giới thiệu đấy.
Có người hỏi lại:
- Mày đã được về công tác đây a?
- Được rồi.
Chủ tịch Tỏa châm đóm hút thuốc. Cái đóm dúi vào lửa bếp đã cháy lại tắt mấy lần mà chủ tịch Tỏa vẫn chưa rít xong điếu thuốc, chủ tịch Tỏa vẫn lẩm bẩm chưa ngớt nói: “Tốt quá. Tốt...".
Một người khác nói to:
- Ông chủ tịch ơi, ông gả con gái ông cho thằng Khay thì nó được ở quê mãi thôi.
Tiếng cười ầm cả nhà.