- V -
Trong cuộc họp xã hôm ấy, các trưởng thôn làng Mèo, làng Dao, cả những trưởng thôn ở các làng người Lừ và người Xá rải rác dưới thấp, ngoài cửa suối Nậm Ma, phải đi cật sức hai ngày mới tới, cũng về.
Nghe đồng chí Nghĩa nói:
“Năm nào mưa lũ cũng lấy mất đường, không xuống châu được. Năm nay chúng ta sẽ làm kho trữ muối. Có nghẽn mưa cũng chẳng lo".
Các trưởng thôn đều trả lời:
- Sướng chưa!
Nghĩa lại nói:
- Các đồng chí trưởng thôn làng nào thì về đem người làng ấy lên làm nhà kho.
Mọi người đáp:
- Thế thì xong rồi.
Chỉ có trưởng thôn Pàng ngồi im, lúc lúc lại rít liền từng chập ba mồi thuốc rồi chống tay lên má, ủ ê nhìn ra. Vẫn không yên tâm, chốc chốc Pàng lại quay nhìn Nghĩa. Pàng có điều bối rối muốn nới. Người trưởng thôn ấy ở một xóm chưa được mười nóc nhà tận cái cửa suối xa nhất xã và cũng xa tận cuối cùng đất nước, ngày ngày có bao nhiêu khó khăn qua lại, ban nhiêu khó khăn chờ đợi.
Nghĩa đang mải nói giữa cuộc họp. Sôi nổi, hào hứng, Nghĩa không để ý nỗi băn khoăn của Pàng. Đã lâu mới lại có cán bộ về công tác, nhất là thấy Nghĩa về, ai cũng tranh nhau kể chuyện và hỏi dồn. Nghĩa phải trả lời hàng trăm thứ. Từ những tin đồn về các vùng Thái đương lên hợp tác xã đến chuyện con trâu sa hố đá. Cả chủ tịch Tỏa cũng hỏi Nghĩa luôn.
Lát sau, chừng không chịu được, Pàng bước đến trước mặt Nghĩa:
- Nó nói rằng người Xá có công với cách mạng nhưng vì người Xá nghèo ở bờ suối, nên bây giờ Chính phủ bỏ quên người Xá rồi.
- Ai nói?
- Bọn bên Lào về nói.
- Thế có đúng không?
- Tôi vẫn bảo nó nói sai, đến hôm nay trông thấy anh Nghĩa thì tôi lại biết nó sai thật rồi.
- Chuyến này chúng ta về đưa anh em lên làm kho. Bà con các làng được gặp nhau luôn thì sẽ thấy đoàn kết, thấy đông vui, càng tin tưởng, đồng chí ạ. Nhiều anh em lên nhé.
- Bọn ở Lào về cứ nói mãi Chính phủ bỏ ta rồi. Chính phủ mà bỏ ta thì ta cũng phải bỏ Chính phủ, đi ở nơi khác thôi. Chửi nó, nó vẫn nói thế. Khó lắm.
- Đồng chí làm trưởng thôn…
- Bọn nó chửi tôi rằng mày không phải người ở Ná Đắng mày cút về Huổi Ca cho người Ná Đắng chúng tao muốn đi đâu thì đi.
Nghĩa chưa hiểu và ngạc nhiên. Trưởng thôn Pàng lại khe khẽ hỏi:
- Anh Nghĩa có còn nhớ Huổi Ca?
Nghĩa vẫn chăm chú nhìn trưởng thôn làng Ná Đắng, như đang nhìn qua người ngồi đấy mà thấu ra một điều khác, một điều đau khổ mà vô cùng thiêng liêng đối với những cán bộ kháng chiến trên miền Tây. Pàng còn trẻ, nhưng vóc người võ vàng, khó rõ tuổi. Thoạt nom Pàng cũng đoán biết được dân tộc Xá còn nhiều khó khăn. Quần áo vải thô không nhuộm, đen xỉn như trát đất. Vành khăn thô lố khoanh trên đầu, cũng ảm đạm như màu áo, càng làm khuôn mặt Pàng gồ ghề, trắng nhợt.
Người Xá xưa kia vốn có hèm sợ núi cho nên hay làm nhà ở tránh xuống bờ suối. Tay không có một tấc sắt, không bới nổi cục đất. Người ta kể cổ tích: ngày xưa con hươu đến giẫm qua cái nương mới đốt, lốt chân nó lỗ chỗ bước như thế để nó dạy ta biết cầm cái que chọc lỗ tra hạt. Con hươu thương người Xá. Cho nên, biết ơn con hươu, người Xá không bao giờ ăn thịt hươu. Người Xá hiền lành, quanh năm chỉ xúc tép, bẫy cá, nhặt rau, đan vó, quấn cót, lấy song mây ghép ghế, đóng mâm đem đổi ngô làng Mèo, đổi gạo làng Thái, suốt đời lội theo con suối nhìn tăm cá, không muốn nhìn ai gặp ai, càng nghĩ càng buồn số phận làm người.
Trưởng thôn Pàng, hai con mắt nhạt nhạt, nhìn lại Nghĩa:
- Anh Nghĩa ơi! Pàng tôi ngày trước là người ở Huổi Ca...
Nghĩa nhắc lại, như nói theo:
- Huổi Ca à...
Huổi Ca à... Huổi Ca. Cái xóm Huổi Ca ngày trước có vài ba nóc nhà bên suối Nậm Cuổi. Suối Nậm Cuổi xanh rợp bóng rừng, con suối lắm cá, nguồn kiếm ăn của các làng Xá và làng Thái hai bên ven bờ.
Năm ấy, những đội Xung phong Quyết tiến đương phát triển sang biên giới phía tây, đến Huổi Ca thì gặp mùa nước lớn. Muốn qua Nậm Cuổi phải khảm thuyền. Nhưng vùng này không có cơ sở, không đầu mối liên lạc, không người đưa.
Các đồng chí võ trang, khi biết đây là một xóm nghèo, liền quả quyết vào hỏi đường.
Lúc đầu, đón suối; người ra, vừa thấy hút bóng bộ đội đã chạy mất. Đêm lần vào một nhà, kể chuyện thằng Tây làm khổ dân ta thế nào, người cách mạng cùng nhân dân đánh Tây thế nào, cả nhà đều cúi mặt, giàn giụa nước mắt. Đêm sau, cả xóm lẳng lặng đến ngồi nghe đội võ trang kể chuyện đánh Tây.
Thế là đội Quyết tiến qua được Huổi Ca. Xóm Huổi Ca đưa thuyền, lại nhất định nèo mỗi đồng chí phải cầm theo một giỏ cơm, một gói cá muối.
Ít lâu sau, đội võ trang trở ra qua thì không thấy làng Huổi Ca đâu. Đế quốc đã đốt hết và giết cả làng Huổi Ca. Chỉ còn sống sót mấy em nhỏ lúc Tây vào làng thì đương đi mò cá.
Nhớ chuyện Huổi Ca, Nghĩa cảm thấy thân thuộc với Pàng như anh em, dù Nghĩa không hề biết làng Huổi Ca. Cũng như mọi cán bộ Tây Bắc, ai đã từng lăn lộn vào Tây Bắc tạm bị giặc chiếm, khi nghe những chuyện nhân dân Tây Bắc đấu tranh gian khổ và dũng cảm ngày kháng chiến, dù chuyện xảy ra ở bản ở mường xa nào, bao giờ ta cũng đều cảm thấy thấm thía như có mình cùng lúc ấy, ở đấy.
Nghĩa hỏi:
- Rồi Pàng chạy được lên Ná Đắng à?
- Lúc ấy anh em làng Thái ở dưới suối lên cứu Pàng về nuôi. Nhưng anh em tốt bấy giờ thì ở chỗ nào cũng nghèo. Mỗi mùa Pàng lại phải đi ở đổi tay đổi cửa một nhà. Pàng đi mãi, lặn lội lên đến suối này thì đã lớn, đã biết đi kiếm cái ăn một mình, thế là thành người Ná Đắng.
Trước kia, Nghĩa chưa hề gặp Pàng. Nhưng, Nghĩa cũng lại như mọi cán bộ hậu địch miền Tây, Nghĩa biết nhiều chuyện và đi công tác ở các làng Thái, làng Dao, làng Mèo, làng Lừ, Nghĩa đã kể đi kể lại không biết bao nhiêu lần những tấm gương giác ngộ và lòng trung thực của người Xá, của những làng dân tộc Xá suốt mười năm kháng chiến đã làm liên lạc, đưa đò cho cách mạng qua sông Đà, sông Mã, các suối Nậm Ma, Nậm U, Nậm Mu... Địch đánh thì chịu, nhất định không nói. Địch bắt ai thì người ấy chịu một mình, không nói thêm cho ai, không bao giờ vỡ mối. Chết cả xóm như Huổi Ca cũng không bỏ cách mạng.
Nhiều đội du kích đã tổ chức trận đánh "rửa thù cho anh em Xá ở Huổi Ca".
Ngày ấy, làm lễ truy điệu xóm Huổi Ca rồi đội Quyết Tiến đi, đem theo một em bé. Em bé gái sống sót, các đồng chí gặp nó ngồi khóc bên bờ suối. Các đồng chí đặt tên kỷ niệm là bé Huổi Ca.
Đã hơn mười năm rồi. Nghe nói về sau bộ đội cho bé Huổi Ca đi học và cũng nghe bé Huổi Ca bây giờ đã là một nữ thanh niên đương học trường Đại học ở Hà Nội.
Và bây giờ, từ ngọn suối ra đến cửa suối, trên Lai Châu hay dưới Sơn La, đâu có người Xá, đấy đều biết vô khối chuyện lạ lùng và vui sướng về "con bé Huổi Ca người Xá đương ăn học ở thủ đô Hà Nội". Trưởng thôn Pàng cũng khoe "hôm ấy Huổi Ca cùng đi mò cá với tôi, nó bằng tuổi tôi". Mỗi khi gặp cán bộ, Pàng thường xưng mình người Huổi Ca và khoe “con Huổi Ca học ở Hà Nội. Người Huổi Ca chết rồi mà nghe thế chắc cũng vui!”. Được nói với ai như vậy, Pàng sướng như gặp anh em, cái gì cũng muốn kể ngay.
- Không, anh Nghĩa ạ, người Ná Đắng đều cùng một bụng với ta. Chỉ lúc nào có đứa ở Lào về xui giục thì nó lại nghĩ vẩn vơ mà thôi. Lâu quá, chẳng có cán bộ ta đến Ná Đắng. Lời phải đã lâu chẳng ai được nghe, chỉ nghe nói nhảm. Con dím ra phá nương cũng đổ tại Chính phủ, người ốm cũng tại Chính phủ, con tôi ốm nó bảo tại tôi làm trưởng thôn.
- Ừ, đã lâu thật, không có cán bộ xuống Ná Đắng.
- Chỉ một mình Pàng thì khó lắm.
- Tôi sẽ xuống họp xóm với đồng chí. Có anh em tới thì nhân dân lại vui ngay thôi mà…
Pàng cười nhệch cả mép.
- Sướng quá.
Hình như từ nãy Pàng chỉ băn khoăn điều ấy, thì nay đã được bằng lòng rồi. Con mắt Pàng tinh nhanh hẳn lên.
Chủ tịch Tỏa tranh:
- Để tôi xuống cho.
- Ở nhà còn nhiều công tác. Bận sau ông xuống, ông chủ tịch ạ.
Chủ tịch Tỏa sốt sắng nhưng bao giờ cũng dễ dãi, lại giơ tay cười:
- Đúng rồi. Ta tiếp tục họp thôi. Đến chỗ nào rồi nhỉ?
Nhưng câu chuyện với Pàng vẫn còn khiến Nghĩa phân vân.
Ba năm về công tác dưới châu Yên, chính đến cả Nghĩa cũng dường như đôi khi mờ nhạt tình cảm đối với vùng cao, nơi mình đã làm công tác của cách mạng và chia sẻ cái sống cái chết với nhân dân trong cuộc kháng chiến. Cũng không muốn hiểu vì sao mà lạnh lùng thế. Có lẽ, dù thế nào thì công tác ở vùng thấp cũng thuận lợi và dễ chịu hơn. Những dễ chịu ấy đã chớm thành thói quen. Hôm vừa rồi lên Phiềng Sa, người ngựa vượt dốc, thở ngùn ngụt như bốc khói. Đã lâu mới ngồi ngựa, đêm nằm đau ê ẩm suốt đêm. Cũng ngại. Nhưng đến lúc nghĩ so với ngày trước trèo núi cả tháng, cả năm, cả đêm thì lại thấy tinh thần trách nhiệm thấm thía trong người và tưởng như bấy lâu mình vẫn ở vùng cao.
Chuyện với Pàng làm cho Nghĩa nhớ lại những làng xóm hẻo lánh, thưa thớt, tít tắp trên núi. Trước kia, bao giờ cũng vậy, nhân dân gặp cán bộ thì tin yêu, nhận làm người họ, nhận làm anh em. Cán bộ đến thì nhớ đời, không đến thì tủi, giận, lo lắng, nghi ngờ. Những ý nghĩ ấy giục Nghĩa xuống với nhân dân Ná Đắng. Nghĩa tin mọi người đương mong chờ cán bộ, như lúc kháng chiến.
Bấy giờ mùa xuân đã qua. Trời Phiềng Sa mù vữa ra rồi buông mưa xuống, cơn nọ rả rích gối cơn kia. Trông sang cửa núi bên kia, suốt ngày thấy bụi nước mịt mờ trùm qua đầu người đi.
Nghĩa theo suối quanh xuống hết triền núi, thì đã xế chiều. Bốn phía đều tận cùng hoang vắng. Ngẩng mặt lên, chỉ còn gặp đồi tranh và một tầng không xám ngắt. Bất chợt, rẽ ngọn tranh ra thấy ở chân rừng thưa đằng trước có một túp nhà, như cái nấm mọc trơ trọi trên thân cây mục.
Không đến kịp Ná Đắng, Nghĩa nghỉ lại đấy.
Cái nhà sàn thấp ọp ẹp, dáng như nhà nương. Ông cụ chủ nhà cởi trần, khăn quấn quanh búi tóc cao, ngồi đầu sàn, cặm cụi tước đay đan lưới. Mỗi lần con dao miết nghiêng lên, lại kéo theo một sợi đay trắng bóng. Lần lần, từng sợi đay treo lên cọc như bức mành rủ.
Nghĩa cất tiếng chào:
- Cụ làm gì đấy?
Ông cụ ngước cặp lông mày bạc trắng, trông như có sợi đay vừa vướng lên trán. Tay ông cụ vẫn giơ con dao tước đay. Nghĩa thấy thoắt một cái, lưỡi dao bập mạnh vào thân đay, như giận dữ, một cách lạ thường. Cây đay tẽ đôi ra. Nghĩa hơi giật mình, thoáng nghĩ có cái gì khang khác. Ông cụ lẳng lặng đứng dậy, vào nhà. Trong xó nhà, phía vách giường thờ, vẳng ra những tiếng sừng trâu gieo lóc cóc. À ông lão già này yếu bóng vía, còn nặng mê tín. Có người lạ đến thì lo, phải vào "hỏi ma" xem việc xấu hay tốt đến. Rồi lại thấy ông cụ ra ngồi tước đay. Chắc con ma bảo "tốt" nên ông lão không nói gì. Thỉnh thoảng, đến các làng, Nghĩa vẫn gặp những người già hiền lành và mê tín như thế. Biết vậy, Nghĩa yên trí hơn.
Tối sập xuống từ nãy mà ông cụ người Xá vẫn ngồi làm. Nghĩa cũng yên lặng, Nghĩa đi cắt cỏ rồi ra lùa con ngựa vào đứng gầm sàn.
Đến khi tối hẳn, ông cụ mới lom khom đứng dậy. Lúc nãy Nghĩa cũng ngợ hay là ông cụ mắc bệnh hủi. Làng thường có thói quen cũ hay bắt người hủi, người ho nhiều phải vào rừng ở một mình. Nhưng bây giờ trông lại dáng hai bắp chân ông cụ đứng choãng, vững như dé chân sắp quăng chài, thì biết không phải là người bệnh. Thôi rồi, có thể ông cụ bị làng ngờ ma chài. Cái độc ác của xã hội cũ đầy đọa bà Giàng Súa, Nghĩa đã biết và đã cứu được người ra. Tục lệ dã man trói buộc đầu óc và giết người. Ở những chỗ khuất nẻo này có thể vẫn còn những tệ hại ấy.
"Ông lão bị người ta ngờ có ma nên gặp người không dám nói. Tội nghiệp!". Nghĩa tự cho mình đoán đúng.
*
* *
Nghĩa không đoán đúng.
Không như Nghĩa đoán, ông cụ này không phải người ở vùng Phiềng Sa từ lâu. Cũng không bị hủi hay có ma chài, ông cụ ấy bình thường như mọi người già cả. Người Xá nghèo, lại già mà nghèo thì đi đâu, lang bạt đâu cũng vậy thôi, chẳng mấy ai chú ý.
Ông cụ đến đây từ bao giờ, không rõ. Chỉ biết đã mấy năm nay, mỗi lần nhà nào ở Ná Đắng có người ốm, lại ra gọi ông cụ về cúng. Những người già đều biết cúng. Và người ta ưa mời người lạ đến cúng hơn.
Từ bao giờ, ông cụ tới đây, cũng không rõ. Cả ông cụ cũng chỉ mang máng nhớ mình từ khi lớn lên cho đến lúc biết bắt cá và đan ghế, đã ở qua ba con suối, rồi vào đến con suối Nậm ma đây thì gần hết đời người.
Một đời người đi kiếm ăn phải thay ba bốn con suối, mà vẫn giữ nguyên cái khổ cực và một câu hát buồn. Ông cụ hát hay lắm, buồn lắm. Những khi lội suối bắt cá, ông cất tiếng than "đời đi ở" thì người nghe muốn tránh xa, muốn bỏ đi mà không bỏ đi được, muốn khóc, muốn bắt ông đừng hát rồi lại van ông cứ hát, cứ hát mãi nỗi khổ của chúng ta cho chúng ta nghe nữa đi.
Cách mạng vào Tây Bắc. Các làng Xá dọc sông dọc suối đều đứng lên. Thằng đế quốc chẳng lạ gan người Xá. Nó giết cả làng như ở Huổi Ca, mà cụ già một mình này vẫn chở đò cho cách mạng.
Tây đi càn, bắt được ông, đem về đồn.
Tây đồn bảo thông ngôn quát:
- Thằng ăn thịt hươu mất giống Xá kia? Quan bảo mày hát cho quan nghe.
Cụ già cất tiếng than, tiếng đắng cay, tiếng giận dữ:
Nhà ông bắt làm bằng gỗ đẽo
Ông mổ chó con canh với hoa chuối cho ăn
Gắp hai ba đũa không nên miếng thịt
Chỉ toàn bã gừng vụn
Ăn môn nhiều quá, ngứa cổ đau bụng
Kiếp làm tớ ông pọng Mường Muối nặng nề thay
Trốn đi Mường Hoa sợ xa cô
Chạy đi Mường Quài lo xa chú
Ước gì nước lũ ngập ngọn cây cớm
Ngập ngọn cây dâu da
Chết cả Xá lẫn Thái
Chết cả ngựa dưới gầm đã thắng yên
Chết cả ông quan ngồi hàng uống rượu[6].
Nghe thông ngôn nói lại, Tây đồn đập bàn, cười to: “Không phải thế! Không phải thế!".
Nhưng nó không đánh ông già, cũng không bắt đi vác nước như mọi tù khác, mà sớm tối cho ăn xong rồi đi ngủ.
Một hôm, lính đến bịt mắt ông già lại, dắt tay đem đi. Đi đâu, lâu lắm, mới được mở mắt ra. Thấy mình đương đứng giữa ánh sáng đèn, chân bước lên tòa nhà thềm cao, bên trong ngồi giữa một ông mặt bôi vôi trắng phốp đội mũ mặc áo thêu rồng, lại có hai ông áo tướng mặt nhọ đen, cầm gươm đứng hai bên.
Ông vua nói tiếng Xá rằng: Trời thương người Xá nên sai tao về làm vua đứng đầu giống người. Người Xá và người Mèo trước kia đều có người đầu họ, có vua, có chữ, sau vì người Kinh độc ác mới làm cho người Xá, người Mèo mất cả vua, cả chữ. Bây giờ Trời cho quan Tây về với vua cùng nhau đánh chết hết bọn Kinh, bọn Thái, cho người Xá và người Mèo lại được vua, được chữ. Chữ đã về đến đỉnh núi kia. Chỉ còn giết nốt mấy cán bộ Kinh là xong. Từ nay nó có đến bảo chở đò thì ta giết nó đi. Về gặp anh em thì nói lại như vậy.
Vua dặn thêm: ai theo vua thì làm thế.
Ông già quỳ xuống, cúi rạp đầu. Bỗng nhìn thấy cái ống quần ông vua rách gấu lỏa tỏa và thấy ông vua cũng đi chân đất đen như thui, như chân mình.
Hôm sau, ông già được thả.
Trở về, ông già cứ mê mê mẩn mẩn chẳng biết lúc ấy mình tỉnh hay mê. Khi tưởng mê, khi ngỡ thật rõ có gặp vua. Lại nghĩ nếu không giết cán bộ, vua sẽ không cho theo.
Nhưng rồi thấy cán bộ đến, cán bộ ở với ta, lúc no lúc đói cũng đều bàn những điều phải. Mấy lần muốn cầm dao giết mấy lần có ý định lúc khảm thuyền qua suối thì cầm sào đánh vào gáy. Nhưng hễ trông thấy cán bộ, hễ cầm đến con dao, cái gậy, lại nghẹn ngào, không giơ lên được.
Về sau, nghĩ khổ quá, cán bộ đến thì ông già tránh mặt.
Nhưng cũng không yên, cứ u uất một mình chẳng dám nói với ai, hỏi ai. Cả đêm ròng rã không chợp mắt. Nghĩ quá không biết làm thế nào, đành phải đi. ông cụ thình lình bỏ đi. Người suối ấy cũng không rõ tại sao và ông bỏ đi đâu.
Ông cụ lần đến ở hẻo lánh bên suối gần Ná Đắng đã mấy năm. Giải phóng lâu rồi, mấy lần nghe nói đất nước cả châu Yên đã được giải phóng. Bỗng chốc, ông già lại tha thiết nhớ những anh cán bộ ngày trước, nhưng rồi, vẫn một mình, ông cụ lại âm thầm ngẩn ngơ mang máng như không biết, không nhớ.
*
* *
Nghĩa để một phần cơm nếp vào chạn biếu ông cụ, rồi mới ăn gói cơm.
Lát sau, Nghĩa ngồi hút thuốc lá lập lòe bên lửa, lòng bình thản. Cảnh bình thường, quen thuộc này thường thấy mỗi buổi tối đi công tác rẽ vào ngủ nhờ trong xóm. Chủ nhà quen hay lạ, ít nói, không nói, có khi người ta ngại, có khi chẳng vì cớ gì. Không nói nhưng ai nấy vốn tốt bụng cho nên mọi việc cư xử cứ êm đềm và tự nhiên. Nghĩa đã quen thế rồi.
Nghĩa trầm ngâm hút thuốc, nghĩ lơ mơ gần xa. Phú Thọ.
Những khi rỗi và vắng, thường thả mình rong ruổi về đất quê. Nghĩa lên công tác Tây Bắc từ lâu. Cha mẹ đã khuất núi, anh em thì mỗi người một phận rồi. Cho nên, tuy nhớ, nhớ miên man nhiều mà chẳng rõ nhớ ai. Đồi cọ, lá già xanh biếc, lá non nõn như lụa; đồi chẩu vào hè hoa trắng; mùa dứa mùi dứa thơm đến ngọt cả nắng; vui nhất là những vụ hái chè đầu xuân; nước giếng chân đồi Phú Thọ trong mát đã có tiếng; sông Thao "nước đục người đen"; nhớ sao nhớ thế, cứ đếm lại từng đứa bạn trai gái cùng lứa tuổi.
Ông cụ cầm chiếc que đóm dài châm vào bếp. Ông cụ sắp đi đâu? Ánh lửa hẩng lên, soi rõ mặt người cán bộ và cụ già lặng lẽ.
Đêm hôm thế này, ông cụ đi đâu? Đột nhiên, Nghĩa lại ngại một sự gì bất trắc. Hay là đi báo bọn xấu, bọn cướp đến giết người lấy súng rồi nổi phỉ? Không có lẽ. Nghĩa đã thuộc cả Phiềng Sa, từ lâu, vốn thuần những người tốt. Bọn tay sai thống lý Mùa Sống Cổ cũng trốn sang Lào đã mấy năm nay rồi. Thế thì ông cụ đi đâu bây giờ? Có bọn phản động bên kia biên giới thường lẻn về - trưởng thôn Pàng mới nói thế. Mà ở giữa rừng đêm nay chỉ độc một ta với lão.
Nghĩa hỏi. Phải hỏi xem ông cụ định đi đâu.
Ông cụ chợt ngẩng nhìn Nghĩa. Thế rồi ông cụ lại điềm nhiên dụi tắt bó đóm đã bùng lửa, ngồi vào hóc cột, lại đan lưới.
Như lúc nãy, chỉ còn có đống lửa bếp leo lét với hai người.
Nghĩa ngủ phấp phỏng. Cũng một phần vì cẩn thận, mà cũng tại nhiều bọ chó quá, suốt đêm bọ chó sục sạo khắp người. Dưới châu Yên bây giờ thật dễ chịu, thuốc ĐĐT phun mỗi năm hai lần, trắng cả làng xóm, không đâu còn sót một mống bọ chó, rệp, ruồi vàng.
Ông cụ đan lưới bên ổ lá, không ngủ.
Đêm đầu hè trên núi, khuya, hiu hiu lạnh như đêm tháng mười. Tiếng nõ điếu sòng sọc rít vừa dứt, con ngựa đứng dưới gầm sàn bỗng rùng mình, hắt hơi loạn một chập, rồi im. Cái vắng càng trùm lên, thăm thẳm hơn trước.
Người không ngủ được, ngồi dậy, cời lửa, nghe con hươu rời rạc kêu theo bóng khuya, từng tiếng đi dần từ núi ngoài vào núi trong, nghe thế cũng đoán biết được đêm đã sang canh mấy.
Ông cụ rít hơi thuốc nữa xong, cất tiếng hỏi:
- Cán bộ này...
Nghĩa thú vị, nghĩ thầm: "Đấy, ông lão bắt đầu quen với mình, cứ tự nhiên thế thôi mà". Nghĩa sốt sắng:
- Cái gì, hả cụ?
Ông cụ hỏi:
- Tại sao người đi đường nghe hươu kêu lại gặp điềm xấu, ai thấy con chim bay qua phải bỏ cả cái nương đương phát. Trời ghét gì người Xá mà chỉ cho ta cái sợ, cái khổ thôi!
- Không phải, thằng Tây làm ta khổ.
Ông cụ lặng im một lúc, rồi nói tiếp, nói những gì ở đâu đâu:
- Ai đi đường, tay cầm điếu thuốc, gặp con hổ thì đừng chạy, đưa điếu cho hổ hút bốn mồi thuốc ngon thì hổ nói. Hổ sẽ nói: bao giờ người Kinh theo vua Kinh, người Xá theo vua Xá, thì mới hết khổ, phải không?
- Không phải đâu. Đứa nào nói thế, a cụ?
Những câu ông cụ nói như nói một mình giữa đêm, cứ từng tiếng rời rạc, ú ớ, như gọi hồn, như khóc. Người nghe tưởng ra trong bóng tối có con hổ đến cầm cái điếu cày hút thuốc, có người chết đương ngồi dậy. Nghĩa nhìn xoáy mắt vào ông cụ. Mặt ông cụ lồi lõm như tảng đá, vẫn thản nhiên.
Nghĩa hơi xẵng:
- Đứa nào nói thế thì cho nó xuống tù dưới châu Yên. Nói nhảm!
Ông cụ cúi mặt, ngó quanh, sợ sệt. Nghĩa dịu lời, hỏi lại:
- Đứa phản động nào nói thế, cụ già ơi?
Ông già cúi đầu, lại lặng im. Sau Nghĩa hỏi gợi ngọt nhạt thế nào ông già cũng không nói nữa.
Nghĩa biết có nhiều cụ già Mèo, cụ già Xá hay cụ già Thái "đầu óc mê tín", lúc nào cũng như đương sống lẫn với người chết. Các cụ hay băn khoăn chuyện người chết sống lại, cho là có thật. Ông cụ này chắc cũng có tính lẩn thẩn ấy. Nhưng Nghĩa còn cảm thấy ông cụ hình như không phải chỉ lẩn thẩn hay bị ma ám. Ông cụ có những nghĩ ngợi khó hiểu. Nghĩa ngờ ngợ.
Con từ quy khắc khoải gọi bạn suốt đêm trong rừng sâu bây giờ đã bay ra tới đầu nhà: trời sáng. Nắng sớm cuồn cuộn lồng lên từng tảng sương xanh thẫm, xanh nhợt rồi tan xanh lơ. Mép núi lóng lánh sáng. Những triền đá, những cánh đồi tranh xám mờ chiều qua đi ngủ bây giờ lại miên man rướn lên một làn sóng chàm biếc vượt xa quá tầm mắt.
Trời quang quẻ nắng, những u uất và bí mật khó hiểu cũng rũ xuống đâu mất.
Nghĩa xuống thang sàn, nói to, vui vẻ:
- Cụ ơi! Hôm nào cụ cho tôi ăn cá với. Chào cụ!
Nghĩa nhanh nhẹn đi. Ông cụ lẩm nhẩm chào lại hay khấn khứa gì không biết, rồi đứng dậy, rút nhanh con dao tước đay trên hóc cột, ra đầu tháng, nhìn theo Nghĩa đương lúng túng dắt con ngựa đau móng, con ngựa cứ nhót chân nhảy chụm, trượt trên gờ đá.
Ông cụ lại vào nhà, lấy cặp sừng trâu ra gieo quẻ. Lát sau, ông cụ tần ngần ngồi xuống, lại tước đay như cũ.
Một lúc lâu, ông cụ nhìn lên, thấy nắm cơm nếp cán bộ biếu, để trên gác bếp từ tối qua. Ông cụ buông thõng tay dao, thừ mặt, nghĩ, rồi thở dài.
Nghĩa đi quá nửa buổi thì xuống đến Ná Đắng.
Xóm Ná Đắng thấp thoáng bên những ngọn nước kè trắng từ trên núi buông xuống ngay đầu nhà.
Cả xóm đi nương vắng. Đương vụ mà chưa kịp làm cỏ, ngô và cỏ tranh đua nhau lên, rậm lút đầu. Nương rẫy lúc giáp hạt, chưa trông thấy gì ăn được, chỉ tràn lan một màu xanh khó nhọc, rợn mắt.
Những đám khói ủ lửa đầu bờ còn âm ỉ. Tiếng chó chạy sủa tang tang trong rừng ẩm ướt. Nhưng không thấy người. Chắc trong rừng có người đi tìm đào củ mài.
Người vợ trưởng thôn Pàng vừa về tới nhà.
Chị địu một giỏ khoai nước, chất cao hơn đầu. Sợi dây quai "giỏ" chằng lên trán, phải níu tay vít xuống cho dày căng khỏi vướng đầu đứa con ngồi địu sau lưng. Bé đương ốm. Bé úp ngoẹo mặt vào lưng mẹ, hai chân sạm đen, thòng xuống như hai cái dải khoai. Bé anh theo sau, cũng cõng cái giỏ khoai to. Về tới trước cửa, vừa ngồi thụp, cả bé anh và cái giỏ nặng đều lăn ình ra.
Nghĩa hỏi:
- Đồng chí Pàng đi đâu?
Người đàn bà đáp khẽ:
- Không biết.
Nghĩa đợi một lúc thì Pàng về. Pàng cởi trần, mình nhợt nhạt như ngâm dưới suối lên. Một giỏ nặng củ mài và rau lợn buông trên lưng xuống. Buổi chiều, mỗi người đều đi kiếm bữa ăn về nhà. Cái lưới vẫn vướng lòng thòng trên nửa vai. Thấy Nghĩa, Pàng luống cuống quên gỡ.
Pành nói như reo:
- Anh Nghĩa vừa xuống à!
Buổi tối ấy Nghĩa ăn cháo củ mài nấu nõn chuối ở nhà trưởng thôn Pàng. Cái đóm Pàng cầm soi vào mâm ăn cứ bị tắt luôn. Nhưng cũng chẳng cần đến chút lửa chập chờn. Có gì phải gắp đâu. Nghĩa hỏi:
- Hôm nọ Pàng có lên mua dầu hỏa không?
- Có.
- Sao không thắp đèn?
Pàng đứng dậy, lấy trong hóc cột ra cái ống nứa đựng dầu hỏa bọc lá chuối khô, như ống mật. Pàng đưa ống cho Nghĩa ngửi biết mùi dầu hỏa như để khoe Nghĩa biết Pàng có dầu hỏa, chứ Pàng cũng không thắp. Nghĩa nói:
- Chưa có bóng à?
Hỏi xong Nghĩa mới nhớ dưới châu Yên cũng hết bóng đèn. Và Nghĩa càng thấy Phiềng Sa cần có một cửa hàng tổng hợp bách hóa cố định rôm rả vài trăm mặt hàng.
Nghĩa đoán Pàng không thắp đèn có thể còn vì một lẽ ở đây người ta quý dầu hỏa. Dầu hỏa hiếm, lâu lắm mới lại được thấy dầu hỏa. Nhưng Nghĩa không biết làng không thắp đèn vì có đứa xấu đương nói dầu hỏa của Chính phủ có ma chài, Pàng cũng ngại thắp. Con Pàng đương ốm.
Nghĩa hỏi thêm:
Bà con lên mua muối mua dầu hỏa đủ cả chứ?
Pàng nói:
- Đủ.
Bé em nằm đằng góc sàn ỉ ê khóc. Vợ chồng Pàng xúm đến. Nghĩa xuống gầm sàn vác củi lên, cời bếp cho to lửa. Bé anh vừa buông bát cháo, đã ngủ khì ngay bên bếp ấm và sáng.
Lúc bé em dịu khóc, Nghĩa lại hỏi Pàng:
- Nhân dân đương bận lắm a?
- Ai cũng đi ở nương làm cỏ, đồng chí ạ.
- Ta họp xóm được không?
- Phải gọi về mới họp được.
- Thế thì mai họp, đồng chí Pàng à.
Nghĩa bàn cách cho Pàng họp xóm. Những điều thiết tha thường nghĩ, Nghĩa đã sắp đặt thành kế hoạch từ lúc đi đường. Nghĩa nói theo công việc và lòng mình đương sôi nổi.
Pàng ngồi nghe, nhưng trong bụng còn vướng bao nỗi lo khác. Chốc Pàng lại bước ra sàn bên, ôm đứa con vẫn lả trên cánh tay. Pàng lo quá. Nghĩa thì chăm chăm những việc mình đương nói. Ngay từ lúc mới đến Ná Đắng, Nghĩa đã thấy mọi khó khăn của mọi người và của Pàng đúng như Pàng nói hôm trước. Nghĩa nghĩ: "Xã hội chủ nghĩa thì việc gì cũng tốt, trước sau giải quyết cả thôi. Ngày mai, Thào Khay sẽ xuống chữa bệnh cho con Pàng. Năm nay, Ná Đắng vào tổ đổi công và cuối năm, cả Phiềng Sa có cửa hàng mậu dịch, rồi tổ đổi công lên hợp tác xã, lần lượt thế đấy" Nghĩa tin những việc tốt ấy, việc của cách mạng và hạnh phúc, nhất định ai cũng đều thích. Và thế là Nghĩa chẳng để ý đến nỗi niềm riêng của Pàng nữa.
Không phải Pàng chỉ lo con ốm. Nghĩa bàn điều gì, Pàng đều hiểu, muốn làm theo. Và Pàng đã hiếu từ khi nhớn lên, biết nghĩ biết mình người Huổi Ca là người đi theo cách mạng rồi. Khi giải phóng ít lâu, chủ tịch Vừ Sóa Tỏa xuống bảo "ta đã có đất nước rồi", cả xóm còn phân vân. Nghe nói Tây vẫn giết người ở Mường Lay, lại còn nghe kể chuyện thằng Tây đồn chạy qua biên giới dọa lại: “Ít lâu nữa quan về, đứa nào theo Việt minh thì quan về chọc tiết cả họ". Pàng đã không ngần ngại, Pàng không sợ, Pàng đứng ra làm trưởng thôn cho cách mạng.
Lâu nay, Pàng nghe có người thở dài nói với nhau: ở với Chính phủ mấy năm rồi mà chẳng thấy Chính phủ đâu.
Lại hỏi nhau:
- Chẳng may mà thằng Tây về nữa thì ai che chở cho ta?
Những lo âu ấy Pàng không trả lời được. Người ta lại nói:
- Đến chết hết mất!
Pàng chửi đứa nói nhảm và những đứa hay buồn rầu.
Thế rồi có người đến bảo Pàng:
- Mày làm trưởng thôn cho nên con mày ốm.
Pàng lại chửi đứa rủa Pàng.
Nhưng bé em ỉa chảy đã nhiều ngày.
Pàng còn lo nhiều nữa, nhiều nữa, nhiều lúc chính mình cũng bối rối. Bọn xấu ở đường Lào lén lút về thì thào, làm cho nhân dân cứ đương vui lại buồn. Muối và dầu hỏa đem về xóm hớn hở được vài hôm. Rồi lại cứ im im. Có tiếng đồn ma chài trong dầu hỏa. Lại như có ai còn dọa dẫm điều gì nữa. Quả thế thật. Có tiếng than thở: "Chẳng may nếu đế quốc Mỹ nó đến mà thấy dầu hỏa này, muối này thì có Chính phủ đâu để che chở cho ta?!”.
Pàng quát to trước mặt những người hay ngơ ngác: "Chính phủ là tao, Chính phủ là mày!". Nói thế, nhưng cũng không biết cắt nghĩa sao cho rõ ra, và cũng lại muốn được hỏi ai, muốn hỏi: Bảo cho ta thế nào, ta làm thế nào bây giờ? Lo lắm.
Cuộc họp đủ mặt người cửa suối Ná Đắng. Ai về họp, thoạt thấy Nghĩa, đều chạy xô đến - dù người xưa nay chưa gặp Nghĩa bao giờ, cũng cứ nắm chặt cả hai tay Nghĩa. Mấy hôm nay nghĩ vơ vẩn bây giờ mới lại thấy vui.
- Đồng chí Nghĩa về công tác à?
- Lại thấy cán bộ về rồi!
- Cán bộ Nghĩa ở Ná Đắng với chúng tôi!
- Có đứa nói bây giờ các anh về dưới ruộng làm quan châu quan tỉnh, chẳng còn ai lên vùng cao nữa.
Nghĩa cười:
- Đứa xấu mới nói thế. Thưa bà con...
Nghĩa bắt đầu nói chuyện. Chuyện miền Bắc xây dựng chủ nghĩa xã hội, vùng cao vào đổi công, làm hợp tác, lên chủ nghĩa xã hội, còn miền Nam thì đấu tranh thống nhất. Chúng ta theo Chính phủ. Chúng ta làm gì bây giờ?
Trước mặt Nghĩa vẻn vẹn có gần hai chục người - tất cả các nhà ở xóm Ná Đắng. Họ ngồi im, chăm chú. Trong khi nói, Nghĩa thật xúc động nhớ bữa ăn cháo củ mài nấu nõn chuối buổi tối hôm qua ở nhà Pàng. Một tay Pàng cầm đóm giơ lên soi chỗ ngồi ăn, một tay Pàng lấy chiếc thìa gỗ múc cháo.
Lúc kháng chiến, cán bộ bảo "ta hãy cùng nhau cố gắng để đi lấy lại đất nước”, mọi người đều nghe và làm việc, đánh giặc để lấy lại đất nước. Bây giờ được đất nước rồi, nhân dân chờ đợi và hỏi "Ta lại cùng nhau làm gì nữa? Ta cùng nhau làm gì nữa?”.
Những điều cao xa và thiêng liêng mà trước kia chúng ta đã sôi nổi chiến đấu để thực hiện, ngày nay đã thành toàn những sự thật xem thấy được. Vì thế, bây giờ cách mạng yêu cầu Nghĩa phải trở nên người cán bộ cụ thể. Sống và chiến đấu trong nhân dân, Nghĩa hiểu sâu sắc như vậy, Nghĩa bằng lòng được cấp trên phân công về làm thương nghiệp và lại lên vùng cao. Sôi nổi, những công việc sắp tới! Nghĩa hiểu làm người cán bộ kinh tế của chủ nghĩa xã hội không phải là nhà buôn, đổi chác tính lãi, chỉ biết ních tiền chặt túi như bọn đế quốc và tư bản. Việc Nghĩa sẽ làm, trước nhất là cùng giúp nhau làm đổi công xóa những khó khăn nghìn đời lúc giáp hạt như bữa cháo củ mài nõn chuối ở nhà Pàng, rồi đem cày cuốc tốt lên đây, rồi làm hợp tác có ruộng định cư, nhân dân xây dựng đời sống và giúp đỡ cách mạng giải phóng miền Nam. Làm gì ư? Thưa bà con, Đảng bảo chúng ta làm thế đấy...
Nghĩa say những quang cảnh Phiềng Sa sắp tới mà Nghĩa đã nói và vẽ ra với bà con xóm Ná Đắng. Hôm sau trở về, Pàng theo tiễn Nghĩa một quãng.
- Cuộc họp kết quả, đồng chí Pàng nhỉ? Hôm này Pàng cố đưa cả anh em lên Phiềng Sa làm kho cho vui.
- Tôi xem ai cũng thích, chỉ còn có một người không thích thôi.
- Ai?
- Nó ngồi im, không nói gì.
- À…
- Thằng ấy hay gặp bọn ở Lào về...
Rồi Pàng sẽ nói cho nó biết phải trái.
Pàng đương còn muốn hỏi Nghĩa nhiều, bao nhiêu nữa. Bây giờ anh Nghĩa ở đây, chốc nữa anh Nghĩa đã đi rồi. Nhiều người sẽ còn đến than thở và lo nhiều điều về đôi công, về hợp tác, về bọn xấu bên Lào. Nhưng Pàng lúng túng không biết hỏi anh Nghĩa những gì cho rõ hơn. Đến cửa suối, Pàng và Nghĩa đứng lại.
Pàng mới hỏi:
- Anh Nghĩa ơi! Chính phủ có ở gần ta không?
Nghĩa hiểu câu hỏi của Pàng theo những ý phấn khởi mà Nghĩa đương nghĩ, và Nghĩa cười to, vỗ vai Pàng:
- Ủy ban là Chính phủ, trưởng thôn là Chính phủ, là đồng chí Pàng.
Ồ, lúc tức quá gay quá, Pàng vẫn sừng sộ bảo người ta: "Chính phủ là tao, Chính phủ là mày". Bây giờ anh Nghĩa cũng nói thế. Pàng thật thích, nhưng Pàng cũng còn băn khoăn.
Nghĩa đương khoái về câu trả lời đầy ý nghĩa của mình. Nghĩa vẫn cười, rồi chợt nhớ, mới hỏi Pàng về cụ già hôm trước gặp ở túp nhà nương giữa rừng.
Pàng nói:
- Ông lão thày cúng.
Nghĩa bảo:
- Thảo nào! Toàn nói chuyện ma.
Nghe nhắc đến thầy cúng và ma, nỗi lo con ốm của Pàng lại dội lên, chồng chất trong lòng.
Nhưng Nghĩa đi rồi.
Nghĩa ra tới giữa sườn núi, ngoảnh lại, còn thấy Pàng đứng.
Nghĩa cảm về những đức tính trung thực lặng lẽ của người Xá. Dân tộc Xá, dân tộc Mèo xưa nay thật trung thực, nhưng những công việc định làm mới chỉ là những câu nói, thế mà Nghĩa tưởng mọi việc ở Ná Đắng đã được giải quyết Lúc ra đi Nghĩa chỉ thấy bồi hồi quyến luyến, như trong kháng chiến, những lần rời cơ sở quần chúng.
Về Phiềng Sa, Nghĩa đến gặp Thào Khay:
- Con nhà trưởng thôn Pàng ỉa chảy nặng lắm.
Thào Khay nói:
- Để Khay xuống xem.
Trên các đầu núi, mây nước ám như khói, chập chờn đưa từng cơn mưa rào tới.
Muối trữ cho Phiềng Sa ăn trong mùa mưa lũ đã dỡ ra kho dưới châu Yên, chỉ còn đợi ngựa đưa lên những chuyến đầu. Mọi việc gấp gấp, cố xong trước khi có những trận mưa to liên miên.
Chủ tịch Tỏa hỏi Nghĩa:
- Có gặp trưởng thôn Pàng dưới ấy không?
Nghĩa kể chuyện Ná Đắng. Chủ tịch Tỏa nói:
- Cái thằng hay chứa bọn xấu ở Lào về, tôi đã đuổi một lần mà nó lại về à? Lại phải xuống cho nó một trận mới được. Còn lão thày cúng thì hiền lành thôi. Năm nào lão cũng đi tìm diêm tiêu qua đây, tôi vẫn gặp.
Nghĩa nói:
- Tốt cả rồi, đồng chí chủ tịch chẳng cần phải xuống. Nhân dân sẽ đến làm kho, chúng mình gần gũi trò chuyện nữa, tinh thần lên thôi.
Cả hai, không ai băn khoản gì nữa.
Mấy hôm sau, người các làng kéo về làm kho và trạm xá Phiềng Sa nhộn nhịp hẳn lên.
Nhưng chưa thấy các xóm Mèo, xóm Xá phía Ná Đắng tới.
Cả mấy xóm ở Ná Đắng đương sắp sửa đi. Nhiều nhà đã đóng ngựa.
Bỗng dưng có một bọn ở đâu về qua, buông lời:
- Mày chưa biết ư, vua ta đã về làm loạn đến Phiềng Sa rồi. Mày đi Phiềng Sa bây giờ để vợ mày lên khiêng cái xác thịt thối của mày về a?
Thế là cơn hăng hái của mọi người xèo đi, như nòm lửa ra gặp mưa. Nhà nào cũng chẳng lại. Hơi một tí cũng lo sợ mà không hỏi ai được tin tức gì hơn, người ta đâm nghĩ quẩn, lại lủi đi ở nương hết. Pàng gọi, Pàng gọi. Cái xóm vùi dưới những làn mây nước, cứ ắng lặng như không.