- VI -
Đêm ấy sáng trăng.
Những đêm đầu mùa hè, mây dày từng mớ, từng lớp vàng đẫm ánh trăng ủ trên những cánh rừng tít tắt chân mây, những thung lũng làng mạc xa lạ, những cánh đồng rải rác đâu trong hóc núi không ai biết.
Tất cả im lìm dưới kia. Tưởng chỉ có Phiềng Sa này trên cao. Phiềng Sa gần trời. Tiếng sáo của người trai đi chơi khuya thấp thoáng ánh trăng. Giàn sao sáng rợn mắt cua chặp tối, dần dần mờ đi, khi trăng vằng vặc lên ngang đỉnh đầu. Tưởng có thể với tay tới mặt trăng, như trong truyện người già thường kể.
Nửa đêm, có tiếng máy bay. Đám trai gái ngồi hát và thổi sáo trước cửa, trông ra thấy cái bóng máy bay đen như con quạ to bay dưới mặt trăng.
Thỉnh thoảng, máy bay lạ vẫn qua phía biên giới.
Mọi người thường nói đùa: "Đố mày dám thòng chân xuống đây!”. Mấy cụ già thức giấc, nghe máy bay gừ gừ ngoài vách gỗ thì nghĩ lo: "Thằng đế quốc còn về được trên đầu ta", rồi các cụ nổi cơn ho, trằn trọc mãi.
Thào Khay sửa soạn đi Ná Đắng.
Ở châu Yên, phòng y tế đã giao nhiệm vụ cho Thào Khay lên Phiềng Sa, trước nhất đi khắp vùng, tìm hiểu và tuyên truyền vệ sinh phòng bệnh. Đó cũng là cách giới thiệu trạm xá đương dựng - cái trạm xá đầu tiên của toàn khu tự trị.
Vệ sinh phòng bệnh và chữa bệnh, những việc hoàn toàn mới. Nhân dân các dân tộc trên vùng cao tin yêu cách mạng, vì tin yêu mà làm, chứ lắm việc mới mẻ của cách mạng, bắt tay vào làm bây giờ mới biết thật là bỡ ngỡ.
Vệ sinh phòng bệnh và chữa bệnh ở trạm xá là những công tác mới. Những vùng núi cao đã nghìn đời khiếp sợ, chìm đắm trong tay thày cúng và ma quỷ. Mỗi năm, vào lúc ngô vàng lá cũng là đến tuần tháng chín tháng mười buồn bã vì cứ đến cữ tháng ấy thì có người ốm chết nhiều.
Bây giờ cách mạng phải làm cho khác thế. Lập trạm xá, Thào Khay sẽ đi thăm hỏi từng xóm, nói ý nghĩa trạm xá và công việc vệ sinh phòng bệnh, mở đầu trận đánh vào bệnh tật và mê tín.
Cuộc sống bộ đội và trình độ văn hóa, khoa học đã rèn cho Thào Khay một nếp sống cẩn thận, có kế hoạch, biết nghiên cứu và kết luận. Thào Khay hăng hái làm thế.
Thào Khay nhắc cái túi da treo trên cột xuống, kiểm lại hộp tiêm, cồn, ống nghe, mấy thứ cần thiết và thuốc cấp cứu xếp lại thành hàng chặt chẽ trong túi.
Bà Giàng Súa hỏi:
- Khay đi đâu?
- Ná Đắng.
Bà Giàng Súa kêu:
- Con ơi!
- Cái gì hả mẹ?
Bà Giàng Súa nói:
- Người Chính phủ lại xuống Ná Đắng theo vua à?
- Con xuống Ná Đắng chữa bệnh.
- Có người bảo con nai lông trắng đã ra Ná Đắng, vua người Xá vua người Mèo cũng từ bên Lào về Ná Đắng rồi.
Thào Khay tròn mắt, ngạc nhiên, hỏi mẹ:
- Ai nói thế?
Ai nói cho bà Giàng Súa? Bà cũng chẳng thật nhớ có ai nói thế hay không. Chuyện người chết sống lại, chuyện vua ra, chuyện ma làm người ốm, chuyện nỗi khổ ngày xưa, những cái ấy người già hay kể. Lúc đi nương, đi rừng, những chuyện vẩn vơ này thường được các cụ đem rắc, từ đầu dốc xuống cuối dốc, để đi cho đỡ nhớ nỗi gối mỏi và đường dài. Tuổi bà Giàng Súa hợp nghe chuyện ma, chuyện người chết. Tuổi của thanh niên - từ khi cách mạng, đã giác ngộ, thì những cái lôi thôi ấy khó lọt tai. Bà Giàng Súa - một đời đã khổ vì ma, lúc nào cũng cứ nửa tin nửa lo. Và mỗi lần nghe người rỉ tai những chuyện vua ra, chuyện ma làm, thì lại như bị khêu vào vết đau, bà Giàng Súa lại ngơ ngác, và lặng im.
Lúc ấy bà không trả lời được con. Bà thật chẳng nhớ ai đã nói vua bên Lào về Ná Đắng.
Thào Khay bảo mẹ:
- Anh Nghĩa vừa ở Ná Đắng về, có thấy gì đâu.
Bà Giàng Súa nói:
- Cán bộ không biết. Nó chỉ kể với nhau thôi. Nó bảo không cần dầu, muối của Chính phủ. Vua Xá vua Mèo cũng có nhiều dầu, nhiều muối, lại có ô tô, có tàu bay mười hai đầu.
Nghe mẹ kể một thôi những chuyện ma quỷ kỳ quái thật lạ tai, Thào Khay bảo mẹ, giọng quả quyết:
- Người ở dưới Ná Đắng hôm nọ đã lên mua dầu mua muối khắp mặt rồi. Mẹ không được sợ!
Thào Khay đã tưởng lầm mẹ. Không phải sợ, mà vì thương con, bà Giàng Súa kể những chuyện như thế. Kể chuyện ấy với con, ngồi trước mặt con, nhìn vẻ mặt thản nhiên của con, bà Giàng Súa không thấy sợ gì đâu. Thường thì người già có tính hay cả lo. Bà Giàng Súa đã trải nhiều gian truân, nhưng gian truân đã không dìm chết được bà và bà Giàng Súa đã gặp được cách mạng. Từ lâu, bà Giàng Súa đã tin và ơn cách mạng hơn sợ vua quan, ma quỷ. Bà Giàng Súa nói:
- Mẹ không sợ, mẹ không biết sợ đâu. Nhưng mà con đi thì mẹ lo.
Có lần nghe nói bọn phản động theo đế quốc đi giết người ở Lào về qua Ná Đắng lên tận đây. Nhiều người đã gặp. Bà Giàng Súa lo là phải.
Nhưng Thào Khay không để ý đến nỗi lo của mẹ, Thào Khay nói:
- Chính phủ đã dạy cho con biết chữa bệnh thì không được để người chết, mẹ ạ.
- Con nhà Pàng ốm à?
- Không được để người chết, mẹ ạ.
- Con đi chóng về nhé.
Từ hôm Thào Khay về, mẹ con cũng chưa trò chuyện với nhau được mấy. Tối tối, người đến chơi đông lắm. Ngày ngày, các cô con gái suốt cả mấy làng, ai đi củi, đi nương tận đâu xa cũng cứ vờ đến lượn qua ngoài cửa, ngượng nghịu, nghiêng mắt nhìn trộm vào nhà người con trai đẹp. Bà Giàng Súa sung sướng có đứa con đẹp trai, được nhiều cô gái mê.
Thào Khay nói thêm mấy câu nữa cho mẹ yên lòng, rồi mới khoác súng, cầm bộ yên ra đóng ngựa.
Thào Khay đã xuống khỏi dốc. Tiếng sáo còn vẳng lại qua vai. Bài Qua miền Tây Bắc nghe thật lạ tai. Nhưng rồi tiếng réo rắt càng xa thì bà Giàng Súa không còn biết đấy là sáo của con trai mình hay sáo ai - người trai Mèo nào ra đường cũng thổi sáo.
Bà Giàng Súa nhẩm theo sáo những lời hát.
Suối chảy trên đá
Mẹ anh ăn gì đẻ ra anh
Đẹp như mặt đồng bạc trắng...
Bà Giàng Súa động lòng, rớm nước mắt.
Bà ước có ngày Thào Nhìa trở về như Thào Khay. Trở về, "thằng Nhìa cũng được như thằng Khay", đẹp như mặt đồng bạc trắng. Con gái khắp vùng muốn xem mặt, đi nương đi củi tận đâu xa cũng về lượn qua ngoài cửa.
*
* *
Trên đầu nương líu ríu có tiếng ai nói. Nghe tiếng được tiếng chăng. Mỵ nhanh chân chạy ra.
Cả xóm đi làm cỏ ngô. Cây dền già cao ngang lưng ngô đã đỏ lá. Những dây dưa chuột xơ xác nở một chiếc hoa trái mùa vàng khè. Quả dưa cuối vụ đã đỏ phấn như quả éc lợn.
Ngô năm nay kém. Nương ngô tháng hai mới nhỉnh, phải gió to, đạt gãy chưa lại hơi, là còn nghẹn, lại bị phủ luôn mấy trận mưa. Thế là cỏ tranh cứ ngùn ngụt lên lút đầu ngô. Nhà nào cũng trông chừng phải cào cỏ, làm thêm đất, trồng gối vụ đậu tương, đậu nành. Nhưng ngô kém thì khoai riềng đã tốt um. Lại tấp nập sửa soạn trồng đậu. Người Mèo khéo làm, biết lo xa, chẳng bao giờ để nương rỗi, bị mất vụ đến đói người.
Một lát, Mỵ vào nương bảo mẹ biết một chuyện lạ: làng dưới đêm qua bắt được một thằng biệt kích, bây giờ đương dẫn nó lên ủy ban xã.
Bà Giàng Súa hỏi con gái:
- Thằng biệt kích là thằng gì?
Mỵ nói:
- Thằng biệt kích là thằng nhảy dù.
- Phải rồi, đêm qua đấy. Ăn cướp à?
- Đế quốc Mỹ sai thằng biệt kích đi phá hoại.
- Bây giờ vẫn còn thằng ăn cướp, thằng phá hoại ư? Thế thì ta phải giết nó thôi.
Nương này truyền nương khác tin ấy, mọi người đùng đùng nổi cơn giận. Những con ngựa vội vã trở về làng, phóng dạt cả đàn bò xô xuống vực. Bọn trẻ con lại xuống vực đá đánh bò lên, thúc bò đuổi theo ngựa. Chuông cổ bò reo vang, lạc cả tiếng, loạn xạ trên các sườn nương.
Trụ sở ủy ban xã là nơi bán muối hôm trước. Hai gian trong kê một chiếc bàn gỗ đẽo gồ ghề và hai ghế dài. Gian bên che kín một cái giát nứa cho ông thường trực và cán bộ về công tác mà phải ngủ đêm. Trên giữa vách treo quyển lịch. Miếng bìa bẻ uốn thành cái hộp đựng thư, công văn. Đằng kia, dán kín góc phên một tờ tranh in to của Sở văn hóa Khu mới gửi lên, vẽ cô gái chít khăn áo Mèo trắng lại mặc váy Mèo đỏ xòe rộng, gấu viền hoa. Ai xem cũng bảo cô này không giống con gái vùng ta.
Người đứng từ trụ sở lô nhô ra đầy cả quanh dốc. Người đến sau, chưa biết trong kia thế nào, cứ nháo nhác chen vào. Bỗng một anh tái mét mặt chui ra. Gặp bà Giàng Súa, anh ta hét lên:
- Bà Giàng Súa à, nó bảo nó họ Thào!
- Ai?
- Nó.
Mỵ hỏi:
- Thằng nhảy dù à?
Anh ta vẫn hét:
- Nó bảo nó họ Thào! Nó bảo nó là người họ Thào!
Rồi anh ta chạy thẳng đi.
Mỵ phải dìu mẹ ngồi ngay xuống giữa dốc.
"Nó là..”. Nó đâu? Nó là ai? Nó có phải thằng Thào Nhìa chết hóa hổ đã được người Xá cứu cho sống lại ở suối Nậm Ngù? Nhưng sao nó lại biến thành ra thằng đế quốc nhảy dù. Không phải. Nó chết lần nữa rồi ư? Không biết nghĩ thế nào... Nhưng không phải.
Bà Giàng Súa lần đến trước cửa ủy ban. Mọi người trông thấy bà thì kêu lên: "Bà Giàng Súa đây rồi!", và rẽ cả ra. Bà Giàng Súa nhìn trên ghế có chủ tịch Tỏa và cán bộ Nghĩa. Hai người ngồi nghiêm nghị khác mọi ngày, như quan xử kiện.
Mỵ dìu mẹ vào. Nghĩa thoáng trông ra, không tươi cười như thường khi. Nghĩa chỉ lừ mắt, im lặng. Thấy vẻ lạnh lẽo nghiêm khắc, không biết tại sao, bà Giàng Súa đau quặn trong lòng, lại cảm như cái khổ ghê gớm ngày trước đương trở về.
Một người ngồi xệp dưới đất. Thoạt trông nó chẳng khác bọn lính dù trước kia đã có lần lên đóng đồn Tây ở đây. Quần áo tay chân nó cũng loang lổ như con trăn đang lột. Đầu nó không mũ, tóc nó xoắn trôn ốc, xoáy từng đám quanh gáy.
Cạnh nó, để mấy chiếc hòm con, một cái túi vải xám, một đống dù lùng nhùng trắng toát.
Cái người ngồi phệt dưới đất ấy nghe xôn xao sau lưng thì quay mặt lại. Thấy bà Giàng Súa, nó gọi:
- Mẹ tôi kia! Mẹ ơi!
Ôi thật cái tiếng nói nghe ra tiếng người Mèo trắng ở Phiềng Sa!
Bấy giờ bà Giàng Súa mới trông rõ trên trán nó hằn lên, vẫn còn một cái sẹo ngày xưa bị gấu tát. Thằng Nhìa đây rồi.
Nhưng sao lạ quá. Không phải nó chỉ lạ vì bộ quần áo ma quỷ đế quốc kia. Con mắt người mẹ và đứa con nhìn nhau bây giờ thật khác, nhìn nhau mà không thấy nhau. Trong lúc kháng chiến và bây giờ nữa, ngày nào, lần nào thằng Khay đi lâu trở về, bà Giàng Súa nhìn con, trong lòng thấm thía yêu thương tình đứa trẻ mình sinh ra nó. Đằng này không, nó khác làm sao, khác đến nỗi trông thấy nó mà bà Giàng Súa dửng dưng, bà không bước lại, miệng bà không cất nổi một tiếng gọi. Đúng là cái khi thằng Nhìa hóa hổ chết ở Nậm Ngù thì hồn người khác đã nhập tranh vào xác nó rồi.
Bà Giàng Súa cứ đứng nguyên giữa đám đông, bà nghĩ thế và khóc. Bà bỗng xót xa thằng Nhìa, thằng Nhìa ra đi mười mấy năm chưa về, bà xót xa cái thằng Nhìa khác kia. Cái đêm năm trước, đêm dõng nhà thống lý dong đuốc đến bắt nó đi tải hàng cho ông khách Sìn, thằng Nhìa ấy, thằng Nhìa, thằng Nhìa…
Mỵ chỉ đứng lặng, Mỵ thì quên hẳn mặt anh Nhìa. Mỵ chỉ trông thấy thằng biệt kích nhảy dù bị dân quân bắt đem đến ngồi đây, mà không hề nhìn ra tình ruột thịt mình. Những chiếc hòm vuông mầu da con tắc kè xanh xám. Bộ quần áo dù sạm ngoét. Cái đầu tóc xoắn và khuôn mặt béo phì của một người thật lạ lờ chỉ gợi cho Mỵ một chuyện gì độc ác, như con hổ, con rắn, như thằng Tây, mà ta phải đứng lên như đánh Tây lúc kháng chiến. Có súng, có lựu đạn, có bẫy đá bố trí thì mới đối phó được với nó. Thằng biệt kích lại cất tiếng gọi: "Mẹ ơi!” giữa lúc bà Giàng Súa khóc.
- Mẹ ơi! Mẹ còn nhớ cái ngày nhà ta ở rừng, con đi tải đồ cho ông khách Sìn. Con Mỵ kia, mày không nhận ra anh hay sao? Tao vẫn nhớ hôm tao đem mày trốn đi chơi chợ. Thằng Khay, thằng Thào Khay đâu, nó chết rồi à?
Thằng biệt kích - trước nhất, bà Giàng Súa chỉ trông thấy cái hình thù gớm ghiếc thế kia của thằng biệt kích, nó cứ nói vanh vách những chuyện anh em máu mủ, bà Giàng Súa lại càng khóc to. Bà chợt nhớ cái hèm kiêng: gặp người mà khóc không hỏi trước thì độc. Nhưng bà cũng chẳng thể giữ nổi nước mắt.
Chủ tịch Tỏa bảo:
- Mày khai nốt; bắt đầu cái chuyến mày đi theo khách Sìn.
Thào Nhìa kể:
- Mẹ tôi, em tôi kia. Đúng rồi. Ngày ấy, ông khách Sìn mang tôi đi, xuống hết dốc này thì hàng ông Sìn bị cướp đánh. Đây là chủ ngựa Tòng với chủ ngựa Đèo thù nhau giả cướp để giết nhau thôi, chứ ông khách Sìn không can gì, ông khách Sìn còn biết trước cả việc chủ ngựa Tòng đón đường chẹn cổ chủ ngựa Đèo nữa. Rồi sau tôi đi với ông Sìn sang nước Lào, sang nước Miến Điện. Ở đâu thì quanh năm cũng vẫn có một việc đuổi ngựa lên buôn các núi có người Mèo ta ở bên Lào, bên Miến Điện. Cũng có năm ông khách Sìn tính chuyện muốn trở lại Phiềng Sa, nhưng nghe bên nước Nam có loạn thì khách Sìn không về nữa. Còn tôi, tôi đi xa quá, một mình không còn biết đâu đường về tôi đành theo ông khách Sìn. Một năm kia, ở nước Miến Điện, đoàn ngựa ông khách Sìn lên buôn trên núi bị cướp đánh, lần này cướp bắn chết ông khách Sìn.
(Đúng như Nhìa kể, khách Sìn bị một bọn nửa buôn nửa cướp khác giết chết. Vẫn những chuyện tranh ăn cướp mồi và cướp của của các chủ ngựa và chủ hàng.
Thào Nhìa phải sang tay đi đuổi ngựa cho chủ mới. Nhưng từ hồi thay chủ, Thào Nhìa lại có thêm việc, khi theo ngựa thồ, nhiều khi thì đi làm kẻ cướp. Chủ nó vừa đi buôn vừa ăn cướp, giết người. Mấy năm ấy, đi khắp rừng núi nước Miến Điện sang tận miền bắc nước Xiêm. Đến Xiêm, bọn cướp này bị một cánh cướp khác đánh tan.
Nhưng Thào Nhìa vẫn sống. Nó lại thuộc về chủ mới. Bọn chủ mới đây chuyên nghề buôn người, bán nhân công cho các đồn điền và nơi khẩn hoang. Vì thế, Thào Nhìa thành phu đồn điền cao su.
Ít lâu sau, Thào Nhìa theo ông chủ đồn điền người Ănglê xuống thị trấn Cò Rạt. Ở Cò Rạt bấy giờ, nước Hoa Kỳ đương xây sân bay to.
Người các nơi kéo đến làm ăn đông kiếm tiền dễ lắm. Chủ đồn điền người Ănglê xuống Cò Rạt mở khách sạn. Thào Nhìa thành phu quay máy kem ở cửa hàng cao lâu của khách sạn.
Thào Nhìa nói tiếp.)
- Tôi nhớ nhà quá, đi đến đâu cũng chỉ tìm đường về. Ở Lào, thỉnh thoảng nghe có nơi tên là Phiềng Sa. Tìm đến thấy cũng là người Mèo ở, nhưng chưa lần nào đúng Phiềng Sa nhà mình.
(Biết đâu Thào Nhìa nói thật hay giả? Nhưng bà Giàng Súa nghĩ:
- Khổ thân nó, đúng là nó đã bị cướp bắn chết cùng với ông Sìn, rồi xác nó trôi ra suối Nậm Ngù. Nhớ nhà thì tưởng đã về tới Phiềng Sa, chứ vẫn chỉ trôi quanh suối Nậm Ngù đây thôi).
- Đến năm ngoái, tôi gặp ông thống lý Mùa Sống Cổ.
(Bà Giàng Súa sửng sốt:
- Ôi chao, bây giờ mà mày còn gọi quân ác bằng tên người trời!
Nhiều tiếng nhao nhao:
- Con dê thối! Con dê thối! Gọi thằng Sống Cổ là con dê thối mới đúng tên nó.
Thào Nhìa nói cho ngắn chuyện lại, chứ từ thị trấn Cò Rạt mà đi, Thào Nhìa còn trải bao nhiêu những cái lạ, cái khổ khác nữa. Chuyện thật còn như sau:
Một hôm, ông chủ người Ănglê gọi Thào Nhìa ra, bảo:
- Tao cho mày thôi việc.
Lại nói:
- Tao cho mày đi theo ông này.
Ông ấy mặc áo đen dài, cũng trắng da, xanh mắt, có nhiều râu như ông chủ người Ănglê và ông Tây đồn ngày trước.
Ông ấy hỏi Thào Nhìa bằng tiếng Mèo rất sõi:
- Quê mày ở Lai Châu?
- Tôi ở Phiềng Sa.
- Được.
Tại sao ông này biết quê mình? Hay đây cũng là ông Tây đồn cho nên mới biết Lai Châu và nói được tiếng Mèo? Mình lại sắp bị buộc tội có ma chài ư? Thào Nhìa sợ quá.
Chủ mới đem Thào Nhìa đến Uđon gần nước Lào. Từ đây Thào Nhìa thôi dắt ngựa, không quay máy kem, cũng không đi ăn cướp lần nào nữa. Thào Nhìa vào học trường Thần học. Dần dần, biết chủ mới là một người cố đạo.
Thỉnh thoảng, Thào Nhìa được theo ông cố đạo mặc quần áo ka ki nhà binh Hoa Kỳ, qua sông chơi với vua Bun Ù ở Sambatxăc. Cố đạo và vua nằm hút thuốc phiện với nhau cả tháng.
Và Thào Nhìa biết được thêm điều bí mật là ông cố đạo và ông vua buôn thuốc phiện nhiều gấp bao nhiêu lần ông khách Sìn. Thuốc phiện của vua Bun Ù giao, ông cố đạo đóng vào va li, chở máy bay đi.
Có những lần Thào Nhìa đi với ông cố đạo lên Xiêng Khoảng. Thào Nhìa đã được trông thấy quan năm Vàng Páo người Mèo làm quan với nước Hoa Kỳ cũng về Xiêng Khoảng bán thuốc phiện cho ông cố đạo.
Chính Thào Nhìa đã gặp lại thông lý Mùa Sống Cổ ở một vùng núi trên Xiêng Khoảng, tại nhà quan năm Vàng Páo. Chuyện còn thêm như thê đấy!
Thào Nhìa vẫn đều giọng kể.)
- Ông thống lý sang bên Lào được người Hoa Kỳ cho làm vua to. Ngày nào ông thống lý cũng ăn thịt, có đèn điện thắp, có ô tô đi, lại ở nhà mát nhiều tầng, cao lắm.
(Những tiếng xì xào chen nhau từ ngoài cửa nói chõ vào: Ngày trước, thằng phong kiến, thằng Tây đồn ở đây cũng ăn thịt, hút thuốc phiện nhiều lắm, cũng ác nhiều lắm, mày biết đấy.
- Tao phải nộp của cho nó ăn!
- Có ai được ăn gì đâu! Nó ăn hết của người ta!
Thào Nhìa lại nói.)
- Ông thống lý bảo tôi mà theo ông thì chỉ có việc ngồi mà ăn uống cho sướng. Ông bảo tôi về rủ người sang Lào cùng đi sung sướng với ông.
(Một bà già hỏi:
- Cái lúc còn đời thằng phong kiến ở đây, mẹ con nhà mày thế nào? Sướng lắm a?
Chủ tịch Tỏa quát:
- Tao đã theo thằng Sống Cổ, tao phải bỏ nó, từ Lào về đây. Tao không lạ nó đâu, mày chưa biết à?)
Thào Nhìa chợt nhìn lên chủ tịch Tỏa, định nói gì, rồi lại luống cuống, ấp úng:
- Tôi… tôi…
(Chủ tịch Tỏa quát chẹn:
- Kể nốt vào tội mày đi.
Thào Nhìa kể.)
- Người Hoa Kỳ lái máy bay đem tôi về đây.
(Nhưng câu chuyện cũng không ngắn như Thào Nhìa kể thế. Thào Nhìa cố ý nói gọn lại đấy thôi.
Tối ấy, ở một sân bay của đế quốc Mỹ mới lát xong đường băng, gần Viên Chăn. Tám biệt kích bí mật ngồi đợi bay một chuyến nhiệm vụ đặc biệt. Trong cái nhà kho chứa hàng, cả tám biệt kích đều mặc quần áo dù vằn vèo. Có người đã đeo sẵn lên cổ những cái vòng bạc to, quàng trễ đến nửa vai.
Ông cố đạo ở Uđon cũng có ở đấy. Ông nhắc từng người:
- Các con muốn gì nữa không?
Không ai nói.
Rồi cố đạo lại ôm từng người, cử chỉ thân thiết mà lạnh, nom như ông ta đương áp lại, sờ nắn khám xét người sắp đi.
Trong bóng trăng mờ mờ, họ lặng lẽ ra. Chiếc máy bay đakôta màu xám không số hiệu đậu kín đáo ngay đấy. Có ba người bước theo tiễn tám tên biệt kích: ông cố đạo, thống lý Mùa Sống Cổ và một người Mỹ.
Thế là chiếc máy bay lạ qua Thượng Lào, vào biên giới Việt Nam, đêm sáng trăng ấy.
Thào Nhìa cứ nhớ, đến tận lúc chui vào tàu bay, thống lý Mùa Sống Cổ còn nhắn thêm:
- Bảo thằng Tỏa rằng tao vẫn nhớ nó!
Cơ chừng Thào Nhìa lại vừa nhớ ra câu ấy. Nhưng sự thực là chủ tịch Tỏa đương ngồi oai vệ trước mặt đã làm nó lúng túng, ấp úng.
Một du kích nói:
- Mày ngồi tàu bay Mỹ về đây, thế thì mày cũng là giặc bằng thằng đế quốc Mỹ rồi.
Bà Giàng Súa lại khóc.
Thào Nhìa nói.)
- Tôi đem theo có máy điện, khẩu súng, bộ quần áo Mèo, các quan Hoa Kỳ dạy tôi cách nhảy dù xuống rừng, dạy tôi thay áo dù mặc quần áo Mèo rồi ra làng, gặp ai thì bảo đi với ông thống lý, ai không đi thì dọa bắn chết. Lúc nào tôi muốn về Lào hay muốn nói gì với các quan Hoa Kỳ, tôi cứ mở đài, nói vào đấy, các quan ngồi bên kia tôi nói câu gì các quan cũng nghe được ngay. Ông thống lý ở bên ấy muốn nhắn tôi, tôi lắp cái này vào tai là tôi nghe tiếng, tôi còn gọi được cả tàu bay mười hai đầu đến đón đi.
Nói rồi Thào Nhìa đứng dậy, rút hai ống nghe trong cái hòm điện đài, đặt lên tai, làm hiệu nghe ngóng như thật. Rồi buông ống xuống, lấy trong đống hòm ra một hộp nhỏ, Thào Nhìa bấm cái "tăngdito", tìm luồng điện. Tiếng hát eo éo trong cái hộp đột ngột nảy ra.
Thào Nhìa cười, khoái, quên cả mình đương là tù, nói to, khoe:
- Đấy! Đấy!
Chủ tịch Tỏa nhảy phắt ra. Chủ tịch Tỏa cũng chưa thấy cái máy này bao giờ. Nhưng chủ tịch Tỏa chỉ biết đây toàn là các thứ lôi thôi vớ vẩn của đế quốc Mỹ, thế đủ cho ông chủ tịch thù nó lắm rồi, nóng máu lên rồi, không thể nào chịu được.
Chủ tịch Tỏa hét:
- Đập chết nó đi!
Thào Nhìa vẫn nói tự nhiên, Thào Nhìa cũng quên không phân biệt được lúc nào mình nói thật, lúc nào nói những điều "các quan" bên Lào dặn nói.
- Mùa Tỏa à, bên ấy ông thống lý bây giờ không làm cày bán nữa đâu.
Chủ tịch Tỏa trừng mắt, tức quá:
- Thằng hổ vồ này muốn chết rồi, họ Vừ nhà tao không thèm đội nhờ đầu họ Mùa nhà Sống Cổ, tao ném họ Mùa xuống suối từ lâu rồi.
- Vâng, thưa ông Tỏa...
- Mày về rủ tao lại theo đi đúc lưỡi cày cho thằng Sống Cổ à?
Thào Nhìa nói:
- Bây giờ ông làm quan rồi...
Chủ tịch Tỏa nghiến răng, với tay lấy khẩu súng:
- Không, tao bây giờ làm chủ tịch. Này, mày không bảo cái máy im đi thì tao cho nó một phát chết ngay.
Thào Nhìa vội tắt đài.
Chủ tịch Tỏa đặt ngang khẩu súng xuống mặt bàn, bảo:
- Mày nói nốt tội mày đi. Thằng Sống Cổ sai mày về Phiềng Sa làm giặc, thế nào?
Thào Nhìa trân trân dán mắt vào chủ tịch Tỏa. Không biết nó đương ngơ ngẩn vì sợ cái tay chủ tịch Tỏa vừa vơ khẩu súng hay nó còn mải nghĩ gì.
Chủ tịch Tỏa ra lệnh:
- Nói!
Thào Nhìa sực tỉnh. Nó đã nhớ ra, nó đương phải bắt làm tù. Thào Nhìa vội quỳ buông gối xuống, cúi đầu, run run, mặt càng tái bệch, lắp bắp:
- Lạy quan, tôi xin hàng, tôi xin hàng Chính phủ rồi. Từ ngày ra đi, tôi lạc đi xa mãi, bây giờ tôi mới được về.
(Bà Giàng Súa xót xa:
- Khổ thằng Nhìa!
Thào Nhìa nói.)
- Lúc các quan Hoa Kỳ sai tôi về Phiềng Sa gọi người đi theo ông thống lý, tôi sướng quá, tôi nghĩ rằng tao chẳng rủ, chẳng gọi, tao không bắn ai, không bao giờ tao trở lại với chúng mày nữa đâu.
(Bà Giàng Súa thở dài - Thào Nhìa vẫn nói.)
- Con dê gặp con hổ, thế mà con dê dám xông vào tát con hổ, thằng Hoa Kỳ mày còn dại hơn con dê thối. Mày cho máy bay đưa tao về với mẹ tao rồi đấy.
(Mọi người cười ồ.
Nước mắt chảy lóa cả hai tròng mắt bà Giàng Súa:
- Lúc nào thằng Nhìa cũng nhớ mẹ, khổ thân nó!)
- Máy bay Hoa Kỳ thả tôi xuống rừng đêm hôm qua, tôi chỉ ngồi đợi sáng, tôi không thay quần áo Mèo như các quan Hoa Kỳ bảo, tôi cứ thế này đi ra nương tìm người. Người làm nương thấy tôi thì chạy. Đến lúc có du kích vào hỏi, tôi mới kể chuyện thằng Hoa Kỳ muốn cho tôi về làm những việc như thế. Tôi đưa du kích đến chỗ lấy hòm điện máy, lấy súng. Mười mấy năm nay tôi mới lại được trở về... Tôi bảo du kích cho tôi về hàng... tôi ra hàng quan... Chính phủ...
Mọi người lại cười ầm vì những tiếng nói ngớ ngẩn, và lạ tai. Không giận dữ, người ta cười vì nó to đầu thế, nó là người lớn mà lại nói sai cả. Đến người lẫn tính cũng không ai nói "quan Chính phủ” như vậy.
Người xem bảo nhau:
- Nó còn mê ngủ cho nên nó nói lẫn cả!
Không hiểu thế, Thào Nhìa cứ phân trần và lại càng nói hỗn, lẫn lộn, lung tung hơn:
- Tôi đã ra hàng các quan rồi. Thằng du kích này lúc vào rừng nó chưa trông thấy tôi, tôi đã gọi nó trước. Chúng mày làm chứng cho tao. Tao ra hàng các quan chứ chúng
mày không phải bắt tao, có phải thế không?
Chủ tịch Tỏa tính nóng như lửa, nhưng lúc ấy lại không mắng, tỏ vẻ thông cảm mà dịu dàng nói:
- Nó đi làm đứa ở nợ với đế quốc lâu rồi cho nên nó láo quen, nó nhầm cả thằng quan đồn với thằng du kích, nhân dân ta đừng bắt tội nó. Nó đã biết nghĩ về hàng Chính phủ, ta đừng giết nó. Này thằng biệt kích, mày là thằng biệt kích chứ mày chưa được là thằng Thào Nhìa, bây giờ mày cũng như thằng tù binh năm trước bị bộ đội đánh đồn bắt được, rồi du kích sẽ giải mày xuống châu Yên xem mày có tội không.
Thào Nhìa ngơ ngác:
- Tôi không được ở nhà à?
- Mày phải xuống cho ủy ban châu hỏi.
- Tôi ra hàng các quan rồi mà?
Bà Giàng Súa cũng vội hỏi to:
- Nó lại đi đâu bây giờ?
Có người nói:
- Người bụng tốt thì đi đâu cũng không phải tù. Chính phủ hỏi xong rồi mày cũng được về thôi.
- Còn đem uốn cho cái bụng mày thẳng lại đã.
Rồi đùa:
- Ai mượn nó bộ quần áo vằn này mặc để đi săn thì con hổ tưởng là họ hàng, cứ đến đứng trước mặt cho mà dắt về.
- Cái đầu nó toàn ốc sên bám, khiếp thật thôi!
Lát sau, một con ngựa thồ cồng kềnh những cái hòm điện đài, cái máy thu thanh, bộ quần áo Mèo mới, khẩu súng lục và nhiều thứ nữa, cả lưỡi câu có mồi đỏ giả, cả túi gạo với cái dù trắng phủ lên trên.
Những người giải thằng biệt kích ra hàng đi chen qua giữa tiếng đùa cợt, tiếng cười. Cả đám vui bỗng ồn lên, không trang nghiêm hay im lặng căm thù như lúc nãy nữa.
Bước chân Thào Nhìa đi lặng lẽ mà trong đầu thì xôn xao bóng mẹ già và đất quê. Nhưng cái miệng nó lại nói ra toàn lời thằng biệt kích đã được người ta dạy cho nói thế. Vừa đi vừa băn khoăn, phân vân, Thào Nhìa xuống châu Yên.
Bà Giàng Súa, đến lúc này chỉ còn một tấm lòng mẹ thương con. Người mẹ thương đứa con xa đàn bấy lâu mà vẫn còn nhớ mình gốc là người Mèo, cho nên nó mới khôn thế, nó biết bỏ đường đế quốc mà nhớ ra được đường về với mẹ. Nó vừa sống lại trong một cái chớp mắt cho bà trông thấy, giờ nó lại phải đi đâu?
Mỵ đứng lặng im. Những ngày ở rừng trước chỉ còn mờ mờ trong đầu cô gái mới lớn. Bộ quần áo dù kỳ quái và những câu nói khác lạ của thằng biệt kích chẳng có cái gì giống nhân dân ta, làm cho Mỵ không thấy được chỗ nào nó là anh em với mình.
Bà Giàng Súa ngước theo:
- Thế là thằng Khay chưa được nhìn mặt anh.
Mỵ thản nhiên:
- Nó còn là biệt kích, ông chủ tịch Tỏa đã bảo thế mẹ ạ.
- Đời nó khổ hơn chúng mày nhiều. Thằng Nhìa!