← Quay lại trang sách

- VII -

Thào Khay đã xuống tới Ná Đắng.

Con ngựa chạy qua làng, chân bước trên đá lóc cóc, rộn rã cả bóng tối chập choạng. Phía trong sàn, nhà nào cũng thấy lạt sạt tiếng chân người xô ra vách nhòm. Rồi các bếp vội tắt ngấm.

Thào Khay quay lại. Ánh lửa leo lét trên vách nhà ai lúc nãy vừa trông thấy, đã biến mất. Thào Khay băn khoăn: sợ gì mà họ phải rấp bếp?

Thào Khay nhớ chuyện mẹ kể: ngày xưa, cứ tối đến, ở Phiềng Sa, cướp vào làng nhiều như người đi chợ, nhà nhà lại dụi ngay lửa, rét đến cắt ruột cũng phải trốn vào rừng. Thào Khay nhớ chuyện mẹ kể, rồi nhìn ra bốn bên chỉ thấy một bóng mờ lặng. Con ve núi kêu muộn, tiếng rền trong khe đá. Con suối đổ nước đôi hồi xa, thật xa. Những tảng đá thẫm đen nối lên giữa xóm, người lạ tưởng đây vẫn ở giữa rừng. Nhưng câu chuyện cướp vào làng mẹ kể ngày trước và cảnh Ná Đắng vắng vẻ buổi chập tối đã khiến Thào Khay nhớ tới nhiệm vụ ngày nay. Thào Khay tưởng mình đương là cả đơn vị tới giải phóng Ná Đắng. Nghĩ thế, thấy hăm hở lạ thường. Xóm này ở biên giới, luôn bị thói quen mê tín và những lời dọa nạt bao vây.

Thào Khay nhìn quanh, thấy thoáng trong vách một nhà còn sáng bếp. Tự nhiên, Thào Khay đoán đây nhà trưởng thôn Pàng.

Đúng nhà Pàng. Pàng và vợ ngồi như hai cái cột. Thấy người lên ngoài thang, không đứng dậy, chỉ buồn bã ngảnh mặt nhìn ra.

Thào Khay hỏi to:

- Đồng chí Pàng à, tôi là y sĩ Thào Khay. Con ốm đâu cho tôi xem nào…

Câu nói ấy thúc Pàng tỉnh. Câu nói to rức lên một niềm tin. Pàng cúi thổi lửa, châm đóm.

Cái đóm bùng cháy, Thào Khay trông thấy hai vợ chồng và đứa con ốm với đứa con khỏe cùng rúm lại bên bếp lửa.

Mấy hôm rồi, vợ chồng Pàng tưởng như bé chẳng còn biết thương cha mẹ nữa. Bé mà chưa bỏ đi vì đống lửa ấm này chưa tắt. Vợ chồng Pàng chỉ còn biết cặm cụi, chăm chút vào đống lửa ấm giữ người, giữ bé đừng chết vội.

Bé như cái xác ở trần, chân và tay gầy bằng nhau, còn cái đầu thì càng to ra. Cả người bé xám lẫn với bóng tối, nghe tiếng môi chóp chép. Anh của bé khỏe mạnh thì kề đầu về phía lửa, nằm ngoan ngoãn xếp tay vào đùi, ngủ ngáy ngon lành.

Thào Khay giục giã, nhộn nhịp:

- Thắp đèn lên. Không sợ, không sợ cái gì cả!

Mỗi cử chỉ và một tiếng nói của người thày thuốc mạnh dạn toang toang có sức lôi Pàng đứng dậy. Pàng thò tay móc ống cột, lấy chai dầu hỏa, lại nhấc ra cả cái phao đèn trơ trụi không có bóng. Lần này thì Pàng châm đèn. Thắp đèn lên! Thắp đèn lên! Pàng nghe Khay giục thế liền làm theo ngay. Ánh lửa dầu bấc lung lay. Dù sao thì như vậy là ánh đèn dầu hỏa đã lên đều, tỏa sáng đến tận sau lưng cái cột đằng kia.

Sáng đèn, tiếng nói chan chứa tinh thần của Thào Khay, "hòm đạn" (cái túi da đựng thuốc, Pàng ngỡ hòm đạn) và khẩu súng trên vai Thào Khay hạ xuống, những mới lạ ấy cứ mỗi lúc lại đem thêm hơi sống ấm áp phả trên nét mặt thảm đạm của vợ chồng Pàng. Người vợ lúc nãy rũ rượi, bây giờ lặng nhìn Thào Khay với cái đèn và đứa con ốm, mặt sang sáng hy vọng.

Pàng từ từ lại gần Thào Khay, hỏi như chào:

- Đồng chí Thào Khay đến à!

Thào Khay đương chăm chú nhìn bao quát một vòng quanh sàn. Con mắt Thào Khay nhanh nhẹn như lúc mặc áo "lui” trắng trong phòng thuốc. Rồi, trước hết, Thào Khay đến bế xốc thằng bé anh đương ngủ ra nằm sau xó cột.

Ngoái lại, Thào Khay bảo Pàng:

- Cho nó nằm xa tận đây này.

Thào Khay gỡ ống nghe ra, đến cạnh bé. Từ nãy, mọi việc Pàng làm đều theo từng câu chỉ bảo của Thào Khay. Nhưng đến giờ, thấy Thào Khay đeo cái ống nghe lên tai, rờ tay vào con mình, Pàng khẽ nói:

- Đồng chí Thào Khay à…

Thào Khay đã hiểu Pàng định nói gì, Thào Khay bảo:

- Yên nhé, tôi xem bệnh cho bé đây.

Vợ Pàng sụt sịt khóc sau lưng Pàng vẫn nói, bạo dạn hơn, nhưng run rẩy như sắp khóc:

- Tôi sợ.

Thào Khay nhìn lên tờ giấy dán trên vách và nắm chân hương còn cắm gần đấy, mỉm cười:

- Ma thì bảo cúng, tôi thì chữa bệnh, bên nào làm khỏi, nhân dân sẽ cho phục vụ. Không sợ đâu.

- Tôi sợ lắm.

- Làm trưởng thôn thì không sợ thằng mê tín nào cả.

Vừa nói, Thào Khay điềm nhiên cúi xuống, lần lượt nghe ngực, lấy mạch của bé.

Pàng nói vậy, nhưng rồi Pàng cũng đứng im nhìn Thào Khay. Vợ Pàng thì dần dần cứ lặng như ngây nhìn người thày thuốc, không còn biết sợ nữa.

Con ốm ròng rã nhiều ngày, người ta đến bảo cúng. Chồng cương quyết: ta theo cách mạng thì không cúng. Nhưng cách mạng làm thế nào cho con khỏi ốm? Biết cách mạng làm thế nào? Những câu làng xóm rỉa róc "Mày làm trưởng thôn nên ma bắt con mày", lại đến cắn rứt. Thế là cúng. Cúng một lần rồi cúng hai lần. Nhưng cúng rồi mà bé vẫn rườn rượt héo ngoẹo, như cây thuốc phiện đứt rễ. Thôi, bé chẳng có lòng ở với bố mẹ, có phải chỉ tại mình làm trưởng thôn cho cách mạng không?

Bây giờ Thào Khay đến, người của cách mạng đến. Lúc nãy chưa hiểu Thào Khay đến làm gì, chỉ biết Thào Khay đến với mình, những nỗi băn khoăn của Pàng đương được cởi ra. Bây giờ lại thấy cách mạng chữa bệnh, làm thế đấy. Trong lòng chan chứa những lo, những tin. Niềm tin le lói, rồi rạng lên. Cho dù cực khổ hiểm nghèo tới đâu, không bao giờ người Xá tắt lòng tin. Các làng Xá dọc suối đầy lòng tin, đã chở đò cho cách mạng vào khắp Tây Bắc ngày trước đấy.

Thào Khay gỡ một bên tai, cái ống nghe trễ xuống ngực áo:

- Không, bé không việc gì đâu. Còn kịp.

Rồi Thào Khay cắt nghĩa cho vợ chồng Pàng - thói quen mỗi khi người thày thuốc khám bệnh xong:

- Ỉa chảy lâu thành nhiễm trùng, lại hết cả nước trong người. Trẻ con nó chưa biết nói thôi, chứ môi khô mấp máy thế là khát lắm.

Thào Khay bắt đầu đặt xoong đun nước. Dao, kéo, kim tiêm, kìm gắp sáng nhoáng được bày ra bên cạnh một lọ thuốc đỏ. Cẩn thận, đã có sẵn cả mấy chiếc tăm dài quấn bông sạch sẽ, dựng ngược lên.

Bé chóp chép uống thuốc, ngoan ngoan, mệt mỏi. Lúc tiêm, Thào Khay bảo Pàng bế, giữ chân bé. Pàng ẵm con, quay mặt đi. Nhưng bé yếu đến nỗi không còn sức quẫy. Bé chỉ hơi cựa chân lúc thích mũi tiêm. Tiêm liền mấy ống nước, kim tiêm nằm thật lâu, vồng cả cái bắp đùi tý tẹo khẳng khiu. Bé vẫn thiếp trong tay bố, mắt đờ đẫn.

Thào Khay bảo Pàng ủ lót thêm cho bé.

Vợ chồng Pàng làm theo lời thày thuốc và dần dần bình tĩnh trở lại. Những việc lạ lùng này chưa bao giờ họ biết đến, nhưng trong lòng đã bốc dần nguồn tin, như Thào Khay.

Bé nằm im. Thuốc vào, cơ thể bé chưa bao giờ biết thuốc, ngấm nhanh. Bé yên yên. Tiếng thở nặng trịch lúc nãy cứ man mát, thoang thoảng nhẹ dần.

Suốt đêm, ngoài trời rào rào tiếng mưa, tiếng nước chảy. Trước những cảnh khó khăn thế này, người thày thuốc đã quen điềm tĩnh và nghĩ: ta chữa đúng mặt thuốc, cứu được em bé làm cho mọi người tin tưởng y tế, tiếng đồn tốt lành sẽ bay đi rất xa. Nghĩ thế, Thào Khay háo hức, bồng bột và khó ngủ, chốc lại đến xem em bé nằm.

Quả nhiên, bé cầm ỉa và ngủ yên. Sáng ra, làn môi bé cười mụ hơi cong lên, bớt khô trắng, tứa chút nước bọt. Bé chợt thức. Hai mắt bé thao láo, nhẹ nhõm và xinh xắn trở lại trông cũng biết sống rồi!

Thào Khay bảo vợ chồng Pàng:

- Mới chuyển thôi. Phải theo cho đến lúc chắc chắn bệnh thật lui mới được.

Đột ngột, Pàng ngó Thào Khay, hỏi xỗ:

- Ở nữa à?

Thào Khay nhìn Pàng rất nhanh, con mắt dò hỏi, rồi nói:

- Ừ.

Pàng tự nhiên bảo Thào Khay:

- Hôm nay có thày cúng đến. Hẹn hôm trước rồi. Có làm sao không?

- Ừ.

- Cán bộ có đánh nó không?

- Chỉ giải thích thôi, không đánh.

Thào Khay đặt kế hoạch: "Thày cúng đến đây a? Được. Ta sẽ giải thích cho cái lão ma ấy phải mở mắt theo khoa học". Thào Khay đã định rõ công tác khi xuống đây rồi. Có hai việc: một là chữa bệnh cho con Pàng, hai là xem tình hình nhân dân đối với y tế, kết hợp tuyên truyền vệ sinh phòng bệnh. Vậy thì nói chuyện với thày cúng, cũng là dịp tốt. Thào Khay không ghét thày cúng, Thào Khay hiếu nghĩa giản dị: thày cúng cũng như người già, thường hay buồn, thích gặp người chết và tính lẫn lộn.

Vẻ mặt Pàng vui hơn. Có lẽ vì Thào Khay vừa nói Thào Khay sẽ không đánh thày cúng. Pàng liền bảo: để đấy, Pàng đi cắt cỏ cho ngựa, Thào Khay có đi đâu cứ đi, chốc nữa về ăn cơm.

Vợ Pàng và bé lớn đeo giỏ ra suối.

Dòng suối đục lờ, mưa rừng gần mới tràn ra đêm qua, cuồn cuộn ôm theo cả rác rưởi và những cây gỗ mục. Nước lũ mới thì loãng cá. Nhưng mùa lũ hay mùa kiệt, chẳng lúc nào người Xá có thể rời được con suối nuôi mình.

Thào Khay vào xóm, định thăm tình cờ mấy nhà. Nhưng không nhà nào có người. Những câu đồn xấu còn bao phủ khắp xóm, ngay từ hôm Nghĩa mới đi. Nghe Pàng hô hào lên Phiềng Sa mua muối và dầu hỏa, đến khi mua được rồi, lại sợ trong muối và dầu hỏa có ma chài. Lại nghe Nghĩa bảo sắp đi dân công làm kho. Những đứa ở đâu đến phao tin Phiềng Sa loạn rồi. Không ai muốn tựa lưng trông cậy vào đứa nói nhảm. Nhưng hàng ngày, lời đồn thổi rình mò đến, như nước chảy bào mòn lòng tin... Thành thử người ta cứ, lúc thiết tha, lúc ngờ vực, rồi không biết làm thế nào, vẫn phải một mình lội suối, vẫn một mình nghĩ vẩn vơ. Lại không muốn gặp, tránh gặp người.

Thào Khay ra suối. Suốt buổi cũng không gặp người. Thế mà thấy cái vó rách vừa mới kéo dưới suối lên, vắt trên thân cây xổ võng mình ngang suối, còn rỏ nước giữa dòng. Cái bẫy chắn, cái giỏ gác dưới gốc cây vối, nghe trong có tiếng cá quẫy óc ách, vẫn chưa có người đến cất. Cái điếu cày ai dựng bên tảng đá, đầu ống điếu còn màng khói. Có người vừa mới ở đây lẩn ra rừng.

Họ tránh người lạ. Họ đương cầu cúng - Thào Khay đoán, như mẹ đã kể hôm trước, họ sợ gặp người lạ thì cúng mất thiêng. Thôi, ta về hỏi Pàng.

Đến đầu xóm, Thào Khay nghe tiếng nhạc lên xuống réo rắt. Người Xá và người Mèo đều có tục rung nhạc cúng, đổ rượu uống cho đến thật say rồi nhảy, kêu rít lên đến mỏi chân mỏi miệng. "Chán quá! Chán quá!".

Thào Khay nghĩ thế.

Thào Khay lớn lên trong lúc kháng chiến. Ở khu du kích, lớp tuổi trạc Thào Khay được giác ngộ, được đi công tác, làm liên lạc rồi vào bộ đội, không hề biết việc cúng bái, và tự nhiên cho cúng bái là nhảm nhí và trò cười. Vả chăng, ở khu du kích, đánh giặc và làm nương gian khố, nhiều việc to hơn, quan trọng hơn, không ai còn có lúc nào nghĩ đến rung nhạc và uống rượu cúng. Cả lúc Thào Khay còn ở rừng với mẹ, mẹ cũng không cúng. Người đàn bà bị quàng tiếng ma đâm ra thù ghét cúng bái, chỉ vì bà không muốn nhắc nữa những chuyện đã làm mình đau đớn.

Khi còn bé, ở rừng với mẹ, mỗi lần nghe văng vẳng xa xa trong làng có tiếng nhạc, tiếng hú, tiếng chân nhảy nện đất thình thịch, thì Thào Khay ngỡ đấy là người nhà quan đương đuổi bò, Thào Nhìa bảo không phải. Anh em cứ đố nhau thế. Bởi vì, hồi ấy, buổi sáng buổi chiều anh em Thào Khay ngồi trong rừng trông ra chỉ thấy những con bò đi ngoài núi, cái chuông cổ bò lúc lắc kêu vang. Thế thì đấy là bò chạy hay là người ta cúng? Nhưng dù là cúng thì Thào Khay cũng coi làm thường, coi như mấy con bò chạy, bằng nhau thôi.

Thào Khay xồng xộc lên thang.

Cái nhà của Pàng xiêu vẹo, chân cột sàn ngã líu cả vào nhau, muốn đổ. Lúc ấy trên nhà đã đông nghịt người. Người ta đi đường nào, ở làng hay trong suối ra, đến đây làm gì mà lắm thế, sao lúc nãy Thào Khay tịnh không gặp một ai?

Đám cúng đương to.

Thào Khay không biết đấy là người ta đến xem cúng và cũng tò mò xem Thào Khay, xem người ở Phiềng Sa mà xuống đây được. (Nghe nói trên ấy loạn rồi). Không ai đến hỏi, không ai nhòm vách nhà Pàng đêm qua, thế mà cả làng đã rõ hết mọi việc thày thuốc Thào Khay làm.

Bây giờ, những người ngồi ngoài quay mặt ra, sợ sệt nhìn Thào Khay đương lên thang rồi họ nhích lê chân, dãn chỗ cho Thào Khay đi.

Thào Khay nói to:

- Chào đồng bào!

Không ai đứng dậy. Cũng không ai nói. Người ta nhìn nhau, như hỏi nhau nên thế nào. Rồi lặng im.

Ông thày cúng ngồi trong vẫn khoanh chân, nghiêm nghị. Con mắt hiu hiu, cái tay rung nhạc. Thật ra thì, ông đã hé mắt trông người lạ, rồi ông mới lại lim dim nhắm. Tay ông cố đánh cái nhạc lắc rắc, xủng xoảng to hơn trước.

Thào Khay cũng không nói thêm, chỉ len ra sau lưng mọi người, đến chỗ bé ốm nằm. Thào Khay nhìn đồng hồ tay. Rồi, lại như tối qua, lúc bế bé anh vào ngủ trong xó cột. Thào Khay ngước mắt, con mắt bao quát của người thày thuốc bắt đầu kiểm soát xung quanh, sửa soạn công việc.

Thào Khay lặng lẽ nhấc túi trên vai xuống, khoan thai lấy ống nghe.

Những con mắt đương xem cúng đều bối rối và tò mò nhìn xúm lại, vây chặt từng cử chỉ và nét mặt người thày thuốc.

Ông lão vẫn ngồi cúng. Nhưng khi không ai để ý nữa thì tiếng nhạc nhảy nhót dường như đã rời rạc, bơ vơ rồi. Cái tay ông lão giơ lạc cả điệu quen. Bởi vì cả đến ông thày cúng cũng như mọi người, còn đương dòm ngó xem Thào Khay làm gì. Có điều là ông thày cúng thì giữ kẽ hơn: con mắt nhìn khép hờ dưới đôi mày bạc trắng.

Thào Khay biết mọi người đương chú ý mình. Thào Khay cố tự nhiên và thận trọng. Thào Khay lấy mạch cho bé xong, buông ống nghe, quay ra, nói to cho mọi người cùng nghe:

- Tốt nhiều, tốt rồi, đồng chí Pàng ạ.

Thào Khay lấy xuống, lọ thuốc đỏ, chiếc hộp tiêm sáng bóng đem bày cả trên mảnh bạt, vừa mới trải cẩn thận ra. Thào Khay đun nước, xem lại các thứ, cái que thuốc đỏ, ống tiêm... Thào Khay định tiêm xong cho bé rồi nói chuyện với bà con ngồi đấy. Ai cũng đương chăm chú công việc của mình, thế thì mình phải nhân cơ hội tốt này giải thích cho nhân dân hiểu về y tế.

Đột ngột, ông thày cúng buông phắt mảnh tre gõ nhạc xuống. Phờ phạc, lảo đảo, ông đến trước mặt Thào Khay:

- Cán bộ! Cán bộ! Cán bộ là con nhà Giàng Súa có ma chài, cán bộ cũng làm ma được thì tao thôi.

Lâu lắm Thào Khay mới lại nghe nhắc chuyện cũ "nhà Giàng Súa có ma" mà Thào Khay cũng chỉ phảng phất biết. Thào Khay cười to, nói:

- Ma! Ma à? Cái ma của lão thì đem mà vứt xuống suối!

Thế là ông thày cúng quay lại nhặt hai cái nhạc, nhét vào cạp quần rồi lò dò lẳng lặng xuống thang, đi trong mưa. Trận mưa lớn đương ập xuống, ướt hết cả khăn và búi tó ông lão. Hai cái vai áo bạc đã rách sã một bên, nhô vành xương vai bóng nhoáng. Ông thày cúng đã ra khuất ngoài ghềnh đá. Làn mưa trắng mù mịt xóa hết.

Mọi người trong này nhốn nháo đứng dậy. Thày cúng bỏ đám là điềm gở lắm. Những em bé bám váy mẹ, ngơ ngác, rồi khóc.

Thào Khay, giọng đĩnh đạc, ấm áp, nói:

- Các em nín đi. Các em và các chị ngồi xuống đây. Người Mèo và người Xá, chúng ta đoàn kết, bà con ạ. Tôi là cán bộ Chính phủ đi tuyên truyền vệ sinh và chữa bệnh cho nhân dân.

Các chị và mấy bà lão, ai nấy ngồi yên. Có người lại ném khoai vào bếp nướng cho trẻ ăn, như lúc nãy. Từ hôm có đứa nói sắp loạn đến cả vùng Phiềng Sa, nhiều người trong xóm chạy đi làm lán bí mật trên rừng chưa trở lại. Chỉ có đàn bà và người già về dò la. Cái lúc lão thày cúng bỏ đi giữa trời mưa, các cụ già sợ nhất. Nhưng rồi thấy Thào Khay vẫn cười nói dịu dàng, đến khi biết thật cán bộ này cũng là người vùng quê mình và trước đã ở khu du kích thì không ai nhấp nhổm muốn chạy theo lão thày cúng. Thế ra chúng ta đều là người quen cũ.

Pàng nói:

- Con tôi được thuốc của Chính phủ cho, đã hết bệnh rồi.

Quả là bé đương tươi dần, vẻ kháu khỉnh lên. Làn môi yêu yếu cong tớn của bé cứ cười mụ vu vơ. Các chị nuôi con đã biết hiệu thế ấy là con ốm đương ngoan rồi. Các chị cũng đều hớn hở như nét mặt vợ chồng Pàng.

Thào Khay không muốn nói thêm một câu nào nữa, cứ lặng yên nghe ngắm cái kết quả cụ thể của thuốc chữa khỏi bệnh em bé đương ngấm rất công hiệu vào đám người ngồi đấy. Như bé em vừa được tiêm thuốc, làn da và ánh mắt ai cũng sang sáng ra.

Lát sau, Thào Khay mới hỏi:

- Trên Phiềng Sa đương cất trạm xá để chữa bệnh. Sao hôm trước không ai lên làm trạm xá?

Một bà lão thờ thẫn, sắp khóc:

- Thấy nói trên ấy loạn rồi sao?

Một bà lão khác hỏi:

- Vua ta đã về trên ấy, phải không cán bộ?

Một chị, ý hiểu biết, cãi:

- Thằng quan Tây ngày trước cũng không về làm đồn được huống chi thằng vua?

Thào Khay xua tay, nói:

- Bà con ạ, không phải thằng vua, không phải thằng Tây đồn, cũng không phải loạn đâu!

Thào Khay nói, người ta chăm chú nhìn lại. Rồi một chị chợt kêu to, như vừa nhận ra một điều mới nhất:

- Cán bộ về đây. Thế thì không phải loạn?

Thào Khay cười:

- Tôi vừa từ Phiềng Sa xuống đây. Đừng nghe nhảm!

- Chỉ có bọn nó ở bên Lào về nói nhảm thôi.

- Đồng chí Pàng nói cũng như cách mạng nói, Chính phủ nói, chúng ta nghe đồng chí Pàng nói.

Các bà các chị mỗi người thêm một câu, hỏi thêm một câu, cứ nhao nhao:

- Đúng rồi.

- Cắt lưỡi! Cắt lưỡi đứa nói nhảm!

- Cán bộ ạ, nó bảo: từ giờ cách mạng không đến đây nữa, cách mạng bỏ người Xá nghèo khổ một mình.

- Không phải.

Bà lão lúc nãy sợ loạn trên Phiềng Sa bây giờ mếu máo:

- Tao nghe ra thế thì nó nói sai cả rồi.

- Cắt lưỡi nó đi!

Thào Khay nói:

- Từ giờ ta chỉ nên nghe người nói thật, như chủ tịch Tỏa hay đồng chí trưởng thôn Pàng. Đi làm kho muối kho hàng nhà mậu dịch, để giữ của cho mình, ta nhớ đi, vui lắm.

- Chúng tôi đi ngay bây giờ đây.

Pàng nói:

Mai họp xóm đã.

- Được thôi!

Cả làng nên nghe Pàng nói, Thào Khay dặn thế. Còn Pàng thì trông Thào Khay lúc ấy khỏe mạnh như Chính phủ đã đến đứng trước mặt. Lúc nãy, Pàng còn băn khoăn mình có lỗi cúng ma. Nhưng bây giờ, bao nhiêu bối rối đã qua. Pàng thấy chỉ có Thào Khay, trong đời từ nay đã có Thào Khay biết bảo cho ta đường sống đường chết. Trước đây đôi khi Pàng muốn kể nỗi lo của mình với chủ tịch Tỏa, với cán bộ Nghĩa nhưng rồi vẫn rụt rè, không muốn nói, không biết nói thế nào. Trước mặt Thào Khay thì khác hẳn. Ngồi trước mặt Thào Khay, Pàng thấy sức mạnh mình đầy lên và tiếng nói Thào Khay quấn lấy mình.

Pàng gọi:

- Đồng chí Thào Khay ơi!

Những tiếng thật tình nghĩa tin yêu đương sôi nổi lòng Pàng.

Cơn mưa vừa ngớt, nắng bừng lên, nắng lóng lánh vuốt dài trên đuôi chiếc lá ngô.

Đàn vẹt xanh biếc gặp lúc vui tạnh ráo, bay ra giữa trời, chíu chít đùa giỡn nhau, rồi cùng buông mình tay đôi sa xuống tận trước những cái cửa xiêu vẹo mốc rêu còn cài kín đầu thang.

Thào Khay trở về. Một quãng, khoái chí, Thào Khay nhấc súng, bắn chơi một phát qua vòm cây.

Tiếng nổ giòn tan, vút lên vách đá. Thào Khay thấy hăm hở như ngày ở bộ đội, trên đường hành quân. Ồ bây giờ thì cũng là mình lại hành quân, chứ khác gì.

Trong xóm Ná Đắng đương họp.

Tiếng súng vang dài trở lại lòng suối. Mọi người sửng sốt nhìn ra.

- Súng nào đấy?

- Thằng Ngù đi đâu mấy hôm nay rồi? Hay là nó dắt bọn kẻ cướp bên Lào về đấy?

Pàng điềm tĩnh, chắc chắn, nói:

- Súng của ta, của đồng chí Thào Khay.

Ai nấy đều tin ngay