← Quay lại trang sách

- IX -

Từng đoàn người các làng lên làm kho, làm trạm xá và cửa hàng mậu dịch.

Buổi sáng về muộn trên núi cao. Người ríu rít đi, như ngày mùa, cả nhà cả làng ra nương. Nhộn nhịp khác hẳn các năm trước.

Năm trước, xuống làm đường dưới châu Yên. Nghe tiếng đục choòng “pinh pinh", tiếng mìn nổ phá đá cũng sợ. Bọn xấu phao tin nhảm, không ai dám đi. Sau có người liều xuống, thì thấy đi làm rất tốt, có tiền trả, có mậu dịch mang hàng đến tận công trường. Trở về, làng kéo đến hỏi thăm, người ấy mua được gì, đem ra cho xem “triển lãm" hết. Cuộn chỉ, cái bát to, chiếc thìa. Ai cũng trông thấy tận mắt những thứ ấy. Từ đấy, đứa nào nói xấu đi dân công, không tin. Ai cũng lại muốn xuống chơi châu Yên một lần.

Những người xuống châu Yên, khi về, kể chuyện châu Yên bây giờ vui lắm. Suối Nậm Yên đã có máy thủy điện 24 kilôoát. Đèn điện sáng lên tận làng Mèo ở Thàn Pả. Trong sương mù cũng nghe máy cày nông trường xình xịch chạy. Ô tô chở khách dưới khu lên, cứ tới đầu dốc châu lỵ thì bóp còi. Tiếng ô tô làm nhộn nhịp cả phố, cả chợ.

Các cửa hàng mậu dịch đứng giữa chợ, quầy nào cũng phấp phới khách ra vào, suốt ngày như mở cờ. Đuôi thắt lưng người Mèo đỏ, cổ áo và cánh tay khoang xanh đen người Mèo trắng. Chiếc khăn chàm tròng trành kín đáo, đôi hàng mép áo vàng, cái gấu váy đỏ của cô gái Thái dịu dàng. Nhất vào dịp đầu năm, người các nơi về rực rỡ từng phiên chợ.

Rồi từng đoàn cán bộ đến thăm dò đất khai hoang, chuẩn bị cho công việc phát triển kinh tế miền núi. Châu Yên càng đông, lúc nào cũng đông. Chẳng còn nhận ra cái châu Yên trước kia, "ruồi vàng bọ chó gió châu Yên" ù ù thổi xám ngày xám đêm. Ngày đêm không thấy người đâu, chỉ có quan ba, quan bang với đoàn thồ của các chủ Tòng, chủ Đèo, lúc nào phu và ngựa cũng lật đật, lử lả, mồ hôi bốc khói.

Châu Yên ngày nay khác xưa.

Cũng như châu Yên, Phiềng Sa đương khác xưa.

Các làng tấp nập về làm kho. Không muốn đi dân công theo trưởng thôn gọi tên người, ai cũng thích cả nhà cùng đi.

Một ngựa, hai ngựa, ba bốn ngựa lọc cọc, leng keng theo nhau đi thành đàn. Ngựa thồ túi bột ngô, cái nồi, dao và búa, những ống vầu đựng nước. Trên cùng, cồng kềnh một bu gà, con gà trống tía cũng được đem đi để nó gáy nhắc nhủ giờ giấc cho người ta. Con gà trống tía chân đen, mặt đỏ xọc bộ mã xù xòe, lòe loẹt, chốc chốc cất tiếng gáy vang xuống vực núi.

Một ngựa đủng đỉnh bước, lưng không gạc thồ. Một anh chàng ngồi vắt vẻo, hai chân dũi vào bờm ngựa, đầu lắc lư cúi tay mê mải, nghiêng ngả, bấm khèn.

Trên triền núi, những đám mù xuống ngủ đêm, bây giờ tỉnh dậy, trôi ngang qua chân ngựa.

Một chị đi trước, mùi lanh, mùi lá xuyên khung thơm hắc quấn lấy váy áo, như người vừa ở ruộng lanh lên. Cô bé loắt choắt đi sau gấu váy mẹ, cũng chỉnh tề bộ xà cạp quấn kín bắp chân, cái cổ áo viền đỏ và đôi bên tóc mai mới cạo, với cái giỏ đeo lưng Cao Bằng đầu. Nét mặt thì nghiêm trang như chị lớn.

Trên lưng một chị, ngất ngưởng cái địu. Trong địu xếp từng gói ngô, mấy quả đào, một quả dưa bở và những quả mận chín muộn ngần phấn trắng. Giữa những búi sợi lanh bù xù, vùi một quả bầu lọ đựng rượu.

Trong một địu khác trên lưng chị đi đằng sau, một em bé ngồi trong địu to hó thò đầu ra. Có lúc bé thao láo nhìn, có lúc bé nhắm mắt gật gưỡng ngủ theo nhịp bước chân mẹ.

Những con chó lông xồm, mắt lồi như mắt chó giấy, cứ chạy nhặng, quẩn chân người sang chân ngựa.

Các chị đùa với trẻ con, cùng nhau líu ríu, chen vào nắm đuôi ngựa để leo dốc đỡ nhọc. Những con chó chẳng hiểu. đầu cuối cứ sủa gắt toáng lên, làm như muốn cãi nhau, tranh chỗ hộ cậu bé ngồi trên địu lưng mẹ đương đòi xuống bíu đuôi ngựa.

Từ các xóm đỉnh núi, từng đoàn người bước ra. Tiếng cười nói, tiếng sáo tỉ tê, vi vút. Chó sủa tang tang bốn phía. Con gà trống trắng trong cái lồng đặt trên lưng ngựa nghe tiếng bạn gọi báo giờ trên kia, cũng đột ngột cất giọng ồ ồ, khiến mọi người nhớ đương đi giữa trời trưa. Trông suốt tận cùng thung lũng, chỉ thấy vòng ruộng định cư bậc thang như những chiếc gương nước lóng lánh nối nhau leo lên.

Đứng trên trụ sở ủy ban, Thào Khay trông thấy mẹ và em đã tới đầu dốc.

Thào Khay kêu: "Vui quá, vui quá kìa", rồi toan chạy xuống. Nhưng chủ tịch Tỏa nói:

- Hãy khoan, nghe tao kể nốt. Người đi nhiều thế kia cũng bằng ngày trước người đi "phá bãi hoang". Pàng nhớ không, Phiềng Sa chúng mình ngày trước có phong tục phá bãi hoang, người Xá và người Mèo cùng đi phá bãi hoang. Thào Khay à, người già hay nhớ chuyện cũ…

Người quê vùng Mèo vừa sinh ra, đã phải khó nhọc trèo núi. Từ thuở nào, không ai biết.

Con cháu sinh sôi ngày một nhiều, một đông, chật chội khắp núi, phải sẻ đi ở bớt nơi khác. Cả trong cổ tích cũng kể lại như thế. Tổ tiên đổi núi đi hết đêm đến sáng, mà trông ra vẫn chỉ thấy một giống núi, vẫn gặp nguyên một cái khó đã bao đời nay.

Đến bây giờ cụ già còn kể cho con cháu nghe chuyện ngày xưa đi tìm đất kiếm cái nuôi người.

Vì thế, vùng nào cũng có phong tục phá bãi hoang. Người nghèo cùng nhau đi phát lau, phát bụi làm nương chung. Nương làm đã thạo đất thì trồng cây đào, cây lê, cây mận để đánh dấu đất. Ai sợ ở làng có lính, có quan hay đến ăn hiếp thì tránh đi làm nhà trong nương mới. Không hẹn mà thành phong tục thế.

Nhiều anh em dân tộc khác cũng đến ở chung. Người Lô Lô, người Hà Nhì khéo tay biết xẻ dốc ra ruộng thang. Có ruộng, có nước, người nghèo đến lập làng càng đông. Vùng Phiềng Sa này cũng vậy, cái gốc mỗi làng ngày trước đều là một bãi phá hoang.

Nhưng bao nhiêu bãi phá hoang có ruộng người Mèo, nương người Xá rồi sau cũng ra ruộng, ra nương nhà quan, bao nhiêu mồ hôi đều hóa đống của cải nhà quan. Cho nên, chán lắm, cũng chẳng ai muốn làm ăn nhiều. Về sau, không còn làng nào thiết đi xa phá bãi hoang lập làng mới. Người ta cứ đau khổ, bực bội ở chen chúc, chui rúc quanh quẩn một xó, mỗi người chỉ cạo miếng nương ngô dưới chân đá vừa lọt một bàn chân - người nhà quan có đi qua cũng chẳng buồn phá hại cái nương bé tý!

Đời ông nhà Sóa Tỏa ngày trước ở bãi bên kia núi, làm ruộng thang, đúc cày, cả vùng đến mua. Quan thống lý về bảo: "Cụ mày, ông mày làm giặc đã đi tù, để lại cho bố con mày ở nhà phải gánh cái vạ làm giặc. Mày phải về đúc lưỡi cày cho tao thì được khỏi tội chết". Từ đấy, nhà Sóa Tỏa họ Vừ thay họ Mùa về nương tựa cửa quan. Nhà Sóa Tỏa ở đúc lưỡi cày cho quan, đúc quanh năm lấy lưỡi cày cho quan bán. Không ai còn biết cày nổi tiếng họ Vừ ngày trước.

Kể đến đấy, cái tay thuận kéo bễ vung lên, vung lên. Chủ tịch Tỏa nói một lúc một to:

- Thào Khay ơi, mày xem bàn tay người Mèo ta khéo léo nhường bao.

Từ thuở xưa, người Mèo làm nương làm ruộng đã biết giữ phân, giữ nước, quanh năm chẳng lúc nào chịu để đất không. Nuôi bò, bò to, bò đỏ tía. Lợn thì nặng đến không bước được mới chịu đem thịt, lấy mỡ thắp đèn. Ta tìm mật ong núi đá ngon nổi cát trắng. Ta có chè, có chẩu, có hoàng liên, có tam thất bán cho mậu dịch. Ta giỏi rèn đúc, biết nung vôi đóng ngói, tay làm chẳng thiếu nghề gì, chưa bao giờ phải nhờ cậy ai. Đời trước, các cụ đã biết cùng nhau đi phá bãi hoang, bây giờ biết đoàn kết đưa cả núi lên hợp tác ta nhất định cởi vứt được cái khó một đời đi rồi.

Thào Khay và Pàng cùng cười. Khoái chí, chủ tịch Tỏa lại cất tiếng hát bài Pỷ ly cha... Vì cái gì... Bài hát day dứt như một câu hỏi, một tiếng thúc giục, ngày ngày ông hát:

Pỷ ly cha… Vì cái gì…

Vì cái gì giặc Pháp về cướp nước ta...

Rồi chủ tịch Toả, Thào Khay, cán bộ Nghĩa, cả trưởng thôn Pàng, bước ra cửa trụ sở, lúc ấy đã đông nghịt người.

Bà Giàng Súa và con gái đi trong đám người làm kho. Không ai đến bảo nhà bà Giàng Súa đi dân công, nhưng bà Giàng Súa cứ giục con gái đi. Bà Giàng Súa muốn ra đường xem làng nước đi làm giúp Chính phủ.

Con ngựa nhỏ thồ theo hai địu bột bánh ngô, một bó lanh và cái ống vầu sóng sánh nước.

Thào Khay, vai đeo túi thuốc, lưng khoác súng, tươi cười bước đến bên mẹ.

Bà Giàng Súa lẩm nhẩm một câu nửa nghĩ nửa hỏi, lại nửa ước:

- Giá hôm nay có thằng Nhìa cùng về...

Vẫn những nét lo âu thường ngày xếp nếp trên mặt bà Giàng Súa. Nhưng từ đây bà Giàng Súa không cúi mặt nữa.

Bà Giàng Súa lại kể những chuyện ngày xưa. Người già hay nhớ chuyện cũ.

Mỵ chỉ láng máng nghe mẹ nói, vì bụng dạ còn đương hớn hở với mọi người xung quanh.

Bà Giàng Súa đã biết tin Thào Nhìa "Chính phủ không giết nó". Chính phủ cho nó sống rồi. Từ hôm nghe thế, bà Giàng Súa đếm từng ngày. Bà nghĩ đến lúc Thào Nhìa được về. Chắc hôm về, Chính phủ cho quần áo mới. Nó chưa được mặc cán bộ như Thào Khay, nhưng hẳn được quần áo tử tế, không còn phải quấn lên người những của loang lổ ma quỷ như hôm nọ.

Bà Giàng Súa níu lấy cái vui ấy. Mỗi lúc càng nhiều người đi qua, bà Giàng Súa một vui hơn.

Một đời tan nát, bà Giàng Súa chẳng khi nào dám tơ tưởng được thoát ra ngoài nỗi khổ. Đời người cứ nghĩ mỗi hôm một buồn hơn, hôm trước cái củi, hôm sau là cục than, thành đống tro tàn rồi. Nhưng không, không, bây giờ bà Giàng Súa đã thấy trời sáng trên Phiềng Sa. Ai cũng được biết nhiều thứ mà đời người chưa từng biết. Đống than kia đã rực hồng, ta sẽ chất củi vào mãi, sẽ không bao giờ nhạt lửa được nữa rồi.

Lòng con người thảnh thơi. Như khi vừa tới vụ tra lúa thì thấy có vợ chồng con chim én bay đi mùa đông năm trước, vẫn nhớ cái nhà nhiều phúc, năm nay lại đem điềm lành về làm tổ đầu hồi. Bóng chiều phơn phớt nghiêng. Đôi én lượn khắp bốn vách nhà, tõe đuôi múa và hót nhẹ nhẹ quanh những miếng thịt lợn ướp muôi treo lủng liểng nóc bếp. Con lợn thịt to hàng tạ, chén rả rích từ tết chưa hết. Mỡ đóng vò làm dầu thắp, thịt dư đem sấy trên bếp, trữ ăn tới quá tháng bảy. Bây giờ mới dám nghĩ, bây giờ bà Giàng Súa mới nghĩ sẽ được của ăn của để như thế. Các con có sức, số bà còn cất được nhà vách gỗ. Khi thong thả, ngựa nông nhàn thồ mái ống từ lò ngói người Hán về xếp sẵn đầu sân, đợi lợp cái nhà vách gỗ.

Thương làm sao, suốt cuộc đời xưa kia! Chẳng bao giờ bà Giàng Súa dám mong có khi được ở lâu một chỗ, cho cái cối cái bậc cửa, cái trạn bếp, cái ghế ngồi quanh bếp giữ nhà được lên nước khói nhẵn bóng. Chẳng bao giờ bà Giàng Súa ước được có khung cửi dệt, có cuộn vải lanh to buộc lưng, có đống phân ngựa vun cao lù lù góc nhà để đợi bón nương lanh. Chẳng bao giờ bà Giàng Súa dám ước có những ngày mưa, nghỉ đi nương, ở nhà lấy cái chảo đồng con ra, vừa nấu sáp, vừa mở cuộn vải mộc chấm sáp trên đường hoa viền gấu váy. Thùng chàm đặc sánh đợi nhuộm vải đã sẵn trong vách rồi.

Không, không, bà Giàng Súa không hề - cả bây giờ cũng thế, bà Giàng Súa không muốn ước cái ngõ nhà mình to bằng cái cổng nhà quan, trước nhà có ngựa đứng chen chân, trong nhà, xếp dãy trên cái thềm dài, có người ở nợ, có gái góa, gái lộn chồng đến ở hầu ngồi xay ngô. Bà Giàng Súa cũng không nghĩ có lúc nào mình mặc cặp váy đôi thướt gót, may tốn những hai mươi bốn vuông vải và cái áo thêu hoa cổ, hoa ngực, hoa cửa tay, như tấm áo của bà mẹ đẻ ra ông quan.

Bà Giàng Súa được như bây giờ, có áo váy đương mặc, có áo váy đương phơi, đã vui lắm rồi. Nhưng bà nghĩ đến đời Mỵ thì nó phải sướng, nó phải khác. Có cách mạng rồi, đời người đàn bà Mèo mỗi ngày một khác ngày trước. Được mùa bắp mùa lanh, mẹ muốn con sắm áo lụa, vòng cổ, giầy vải đen, thắt lưng thêu và dải khăn đào lỏa tỏa xuống tận gấu váy. Mỵ, con gái thương của bà Giàng Súa, nghĩ trộm bóng nó, nó đương là cô con gái Mèo đẹp nhất đất nước bây giờ.

Cách mạng đến, thằng Tây, thằng quan chết, đời người Mèo đổi thay, đến cả đứa con lạc mười mấy năm trời cũng đã trở lại được. Mai kia, thằng Nhìa, thằng Khay lấy vợ, nhà bà đông vui con cháu. Bà Giàng Súa chưa trò chuyện những việc ấy với đứa nào. Thằng Nhìa thật đã có vợ bên Nậm Ngù chưa. Thằng Khay đã lấy vợ người Kinh dưới xuôi rồi hay sao. Còn Mỵ sau này về nhà ai. Chừng như nó muốn lấy cán bộ Nghĩa. Thế thì mai kia nó phải theo chồng về quê xuôi? Vợ con thằng Nhìa, thằng Khay về nhà mình, biết người tốt, người xấu thế nào. Thời xưa, nhà nào không có phúc, mua phải đứa con dâu xấu, có câu nói mai mỉa "bỏ tiền vào hang đá còn nghe được tiếng kêu”, thời nay khác những gì? Trong cái vui, cứ luẩn quẩn, ngổn ngang những cái khó, nhưng những cái khó muốn nghĩ, thích nghĩ, không giống những đau buồn muốn quên.

Lo cùng vui cứ bước thấp bước cao theo bà Giàng Súa.

Đoàn người đi làm kho lên đến đầu dốc, nghỉ lại ven suối. Người làng, từng nhà từng bọn dồn lại, đông đầy các tảng đá quanh đấy.

Vẫn còn nhiều người lên nữa. Nghe từng chỗ có tiếng khèn khấp khểnh sau lưng. Đám người dưới làng, bà con dân tộc Xá ở Ná Đắng lên, đến cạnh trưởng thôn Pàng, xúm lại, ngả ống vầu nước. Đằng kia, xống váy các chị người Lừ ngồi đỏ rợp bóng đá. Nhà có trẻ háu đói đã mở túi bột ngô. Chúng múc ăn ngon lành.

Bà Giàng Súa trông ra sườn núi trước mặt, kể cho hai con nghe:

- Ngày trước, đi phát hoang, một năm có hai lần được vui. Bấy giờ tao mới bằng tuổi con Mỵ...

Lại chuyện phá bãi hoang ngày xưa, thời còn con gái. Đầu năm, đông người kéo nhau đi cày, đi phát, đi đốt là một lần vui. Bọn đàn ông khỏe mạnh đến dựng nhà nương, nhà ngô, mỗi khoảnh ruộng một cái. Làm mùa xong thì về, cắt lượt ít người ở lại canh thú ra phá.

Đến cuối năm, nhà nào cũng đi bẻ ngô, thu vào nhà ngô, cả làng để chung, rồi chia, lần ấy nhiều người đi và ở lâu, mới thật vui.

Tấp nập người đi chia ngô. Một năm chờ đợi, bây giờ mới đến ngày no. Các lều nương đều quẩn đầy khói bếp, nhà nào cũng nghi ngút nấu nướng cả ngày.

Con trai con gái làng xa, cuối năm ở đi lều thu ngô trên bãi hoang, lúc ấy mới được thấy mặt nhau.

Bà Giàng Súa nên vợ, nên chồng ở đấy.

Chủ tịch Tỏa ngày trước gặp người yêu rồi hai người lấy nhau cũng trong một năm đi bẻ ngô ở bãi phát hoang. Tiếng sáo thổi suốt đêm.

Hoa đào nở đẹp

Hoa đào nở nhiều

Anh yêu em anh đến đây.

Ngày ấy, Tết ở bãi vui hơn Tết ở làng. Ngày Tết ở bãi khuất trong núi, không có lính quan vào cướp quả pao[8] và đòi uống rượu với các cô gái đẹp rồi phá đám, đánh người. Nhiều năm, ở làng, đương giữa Tết cũng phải chạy trốn. Người nghèo trong làng mất Tết từ lâu.

Ở bãi phát hoang chỉ có người đến làm, không có người nhà quan đi chơi ngang ngược. Chia ngô xong, mọi nhà rủ nhau ở lại, vui cả người già và trẻ em. Quanh những đám khèn, người quây tròn suốt ngày, mê mải đến tận giữa đêm hãy còn đốt đuốc, nhảy khèn dồn dập trong ánh lửa và khói củi thông thơm tỏa khắp vùng.

Mỵ nói với mẹ:

- Hôm nay cũng giống làng ta đi phát bãi hoang, mẹ nhỉ!

Mẹ lặng lẽ thầm thì như còn nói với ngày xưa một tiếng:

- Ừ.

Thào Khay nhìn suốt cái dốc. Chiếc ô đen, chiếc ô trắng quay tròn giữa những đốm chấm váy áo đỏ chót. Những bờm ngựa nhấp nhô trong dòng người tràn ngập đương từ từ kéo lên giữa hai lườn sóng xanh biếc cỏ tranh già.

Thào Khay nói:

- Đông hơn chứ! Đông như mít tinh ở khu đấy!

Bà Giàng Súa lặng im. Bà lại đương nhớ lại. Nhớ lại rồi, nhưng bà Giàng Súa không muốn kể thêm. Cái buồn khổ đã qua rồi, người mẹ giữ lại trong lòng. Các con bà, những thanh niên đương hớn hở. Họ chẳng nên nghe, những chuyện ấy. Bà lặng lẽ một mình, không nói thêm.

Những ngày vui, ừ những ngày vui ở bãi hoang. Nửa đêm gà gáy, người còn đốt đuốc đi chơi khèn.

Nhưng rồi một năm, các ông thống lý, ông thống quán, ông tổng xã đoàn[9] mang người đến bãi phát hoang. Lại cả ông thày cúng. "Gặp hổ thì chết, gặp quan thì nghèo”, trông thấy quan, biết là công mình sắp hóa ra của người. Các quan đến bãi hoang, ra lệnh cho ai săn được lợn cỏ phải đem biếu thịt, được gấu thì nộp chiếc mật, được hổ, được sơn dương thì quan bảo lính đến khiêng bộ xương, lại đếm xem bộ xương có còn đủ bốn hòn bánh chè không. Còn một miếng thịt nào thì trôi nốt vào miệng thày cúng. Sỏ lợn, chân giò liền vai, lại gà, lại rượu và bạc trắng. Thày cúng đến bảo ai đi phát hoang phải xin ma cho đến làm đất ấy thì mới khỏi sợ thú rừng quấy. Nhưng con gấu, con lợn, con dím không phá thì thày cúng và lính quan cũng xơi hết rồi.

Thế là, thu xong mùa ngô cũng tan bãi. Năm sau, bãi phát hoang trở lại rừng cỏ tranh như cũ. Không ai muốn đi phá bãi hoang. Có ai đi làm nương xa, khát nước, xuống khe tìm nguồn nước uống, thấy bao của cải công lao năm trước bây giờ còn lại vài cây dền già, lá đỏ nhọn hoắt lên như một ngọn lửa.

Bà Giàng Súa vẫn lặng im.

Chẳng bao giờ Mỵ biết nổi những điều mẹ đương nghĩ. Mỵ vẫn mải ngắm con dốc đương đông người lên.

*

* *

Phiềng Sa phấp phới như hội, người đến tràn cả ra mấy xóm quanh.

Chủ tịch Tỏa vẫn quen miệng nói to, lúc nào cũng như hô khẩu hiệu:

- Làm kho xong thì về! Chớ quên sản xuất!

Nhưng dù sao, những ngày mùa bề bộn, túi bụi qua đã lâu. Người mải việc cũng chỉ mới bắt đầu chăm cỏ ngô. Người lười nhất thì đã xong nốt cái nương cuối và lại gác cày lên đầu nhà rồi Thời vụ này đương còn thong thả, ai cũng kháo nhau đi "làm kho, làm nhà mậu dịch cho cán bộ Nghĩa”, "làm trạm xá cho Thào Khay", rồi còn muốn ở chơi ít ngày.

Cái khoảng đất chỗ đồn lính và nhà thống lý ngày trước, cỏ tranh đã ăn ngập đầu. Bây giờ, các làng lên san nền lại.

Khắp nơi ngổn ngang chất từng đống mai, vầu.

Con trâu kéo cây gỗ chò lớn, ngả đã lâu, để trong rừng xa.

Các chị các bà vừa đến đã bắt tay vào việc: sang núi bên tìm cắt tranh. Chiều trở lại, các chị địu nặng, không trông ra người, chỉ thấy từng đoàn cây rơm thong thả đi.

Cụ già người Xá và người Dao vốn khéo tay. Các cụ cởi trần, trật khăn đầu rìu xuống vai, vung búa đẽo gỗ. Các cụ bảo cán bộ Nghĩa: dựng nhà mậu dịch thì phải làm cột đục hẳn hoi, cho chắc chắn lâu dài như Chính phủ ta, chứ không nên tạm bợ cột ngoãm.

Một bọn trai trẻ có cụ già Xá đi theo, họ xuống suối mò trong các khe khiêng đá tảng lên, rồi ngồi kề mặt nước cả buổi, đẽo thành hòn đá vuông phẳng để kê chân cột.

Những ông già Mèo làm mộc giỏi đã đến. Mỗi cụ thợ chỉ vác ra độc có cái rìu. Thế mà nguyên cả cây gỗ to trâu kéo đến, trong vài ngày, những tay búa giỏi đã pha, đẽo, chỉ đẽo mà ra được đủ bàn, ghế, giá đựng thuốc, quầy hàng, thang lên kho, móc treo hàng...

Chủ tịch Tỏa, bác thợ đúc già, đã nhanh tay dựng xong cái bễ giữa trời, rồi tìm đâu đến được từng khiêng lưỡi cày gẫy và chảo vỡ, lập nên cái lò, ngày ngày rèn ra hàng loạt chiếc đinh đỉa dài nghêu.

Đinh sắt thay đinh gỗ, "phải bền vững lâu dài như Chính phủ mới được", các cụ già khoan khoái, nhộn nhịp sửa soạn cho dựng nóc.

Dưới suối lên bãi, lên sân, lên nền nhà mới phát, chí chát đầy những tiếng đẽo đá và đẽo gỗ. Cái bễ rèn đinh đỉa của chủ tịch Tỏa suốt ngày phì phò thở. Đàn trâu âm thầm kéo vầu, kéc gỗ từ trong suối ra. Bên núi cắt tranh, tiếng kèn lá của cô nào thầm thì thấp thoáng giữa trưa.

Các cụ bà, các mẹ ngồi ngoài bóng nắng xe lanh và thêu cổ áo. Đám trẻ con theo người lớn đến đây chơi, đương xúm lại từng bọn đốt lửa vùi ngô nướng.

Cả một vùng vang động từ tinh mơ cho tới lúc nắng ngả rợp khắp thung lũng. Những lớp núi mờ đi, cái mờ gần ngủ trước, cái mờ xa ngủ sau, lúc ấy, đám thanh niên bắt đầu đem sáo ra thổi.

Khi mặt trời lặn, khi mặt trời mọc thì đem khèn đem sáo ra thổi, bao nhiêu khó nhọc tan biến mất, bao nhiêu vui sướng theo nhau trở lại - những cụ già cũng thường nói thế.

Trên trụ sở ủy ban đã nổi một đám lửa to. Đông người đến, chủ tịch Tỏa, cả con gái là cô Khúa Ly cũng ra từ lâu.

Chủ tịch Tỏa lại đương ngân ngư câu hát: Pỷ ly cha... Ông chủ tịch cứ cất tiếng hát điềm nhiên mà khỏe. Tiếng dài tiếng ngắn, hì hục như hơi thở người lên dốc, mỗi lúc một cao:

Bao nhiêu ngọn núi đã đi qua

Của cải nhiều không đếm hết

Pỷ ly cha

Vì cái gì giặc Pháp về cướp

Đất nước ta nhiều vàng

Đất nước ta nhiều sắt...

Cả năm cả đời hát đi hát lại vẫn một câu ấy, bao giờ cũng một câu ấy. Khi chủ tịch Tỏa hát xong, bọn thanh niên lại cười ầm, vỗ tay - ở đâu cũng thế.

Đến lúc chủ tịch Tỏa thôi hát, đương hút thuốc, chợt nhớ ra việc gì, lại mải miết bỏ đi. Bao giờ cũng thế. Vừa đi, vừa lẩm bẩm: "Cái bễ rèn! Cái bễ rèn...”. Đống lửa giữa trụ sở đã đến lúc nổi rực rỡ nhất.

Lúc ấy, bà Giàng Súa đã về đến nhà.

Đêm trăng nhạt như không phải đêm. Cái tiếng hát ồ ề xấu xí thường cất lên lúc thổi bễ lò rèn của ông chủ tịch, người tù tội khốn khổ ở nhà quan ngày trước, còn khiến bà nghĩ, còn đưa bà miên man trở lại nỗi vui nỗi buồn ban ngày không bao giờ dứt. Những mỏm núi cao núi bằng kia vẫn nguyên như thuở xưa. Cái dốc xuống châu Yên dốc hút xuống, sương mù quanh năm vẫn đùn lên ngập cửa trời. Cái số phận xót xa đã đưa chồng bà đi về phía ấy. Đồn Tây và nhà quan trốn đi cũng chạy về phía ấy. Bây giờ, những tin đồn vua đồn ma cũng vơ vẩn từ phía ấy thổi lại. Phía ấy là bãi người chết ở hay là cái gì mà chỉ đem về có cái buồn cái thảm thế?

Nhưng rồi trong đêm thanh vắng, bà Giàng Súa nghe tiếng khèn trong đám chơi đằng xa. ánh lửa trên các xóm sườn núi lốm đốm lẫn với những ngôi sao xanh. Nỗi vui nho nhỏ của bà Giàng Súa trở lại. Bắt đầu, bà nghĩ đến thằng Nhìa sắp được trở về...

Trong khi ấy, đằng kia, cái lạnh mơ màng tháng sáu trên núi đã vùi vào đống củi thông đương rừng rực quanh đám chơi vui ở trụ sở ủy ban. Một anh mải thổi khèn, nhảy đò đưa quanh lửa, mỗi lần chân anh làm, khéo, múa quàng ra, người xem lại reo ầm. Cuộc chơi đương nhộn.

Mấy người ngồi khuất tận ngoài cửa, tỉ tê thổi riêng chơi với nhau. Có khi, đột nhiên họ cùng im, lúc ấy lại nghe ngân lên tiếng hát của một cô gái Lô Lô, thổn thức, nhè nhẹ đưa qua.

Một đám ba cô Mèo, Dao, Lô Lô ngồi tựa lưng nhau lúi húi nướng ngô. Cô gái Hà Nhì vừa ngượng nghịu kéo cái khăn che mặt xuống thì vừa lúc cô cũng dứt tiếng hát. Giữa khi, từ một khuôn mặt núp trong cánh tay áo nào đó, hơi kèn lá lại vờn ra, than thở nỗi lòng.

Lúc nãy, Nghĩa về dưới xóm, đã toan đi ngủ. Mấy cô lên xem múa khèn đi qua, nói:

- Anh Nghĩa chẳng muốn chơi với chúng ta rồi.

Thấy thế Nghĩa lên ngay. Mặt tươi tỉnh, Nghĩa bước vào.

Mỵ nghĩ Nghĩa đương vui với mình. Đúng là Nghĩa đương sôi nổi và phấn khởi. Mọi việc sắp xong. Nhân dân hăng hái quá, Nghĩa không tưởng trước được kết quả nhanh chóng đến thế. Nghĩa đương vui việc ấy.

Nhưng mỗi lúc chợt bắt gặp Mỵ nhìn, Nghĩa lại không còn tự nhiên được. Nghĩa biết Mỵ yêu mình. Một người được yêu, người ấy có đáp lại mối tình hay không, dù thế nào, có hay không, thì lòng cũng phân vân và bâng khuâng. Cái bâng khuâng của Nghĩa bây giờ là một xúc động ngọt ngào, một nụ cười chưa đủ, nụ cười không dám đầy đủ. Làm sao, không hiểu. Nghĩa không muốn hiểu rõ ràng. Nhưng Nghĩa đã nghĩ rõ: mỗi việc đều có ảnh hưởng xấu tốt đến cách mạng, không thể vô trách nhiệm, cả trong tình yêu. Vì thế mà Nghĩa giữ gìn.

Mỵ nói:

- Anh Nghĩa, anh ấy không ở Phiềng Sa đâu.

- Tôi đương về công tác Phiềng Sa đấy thôi.

Những câu đối đáp chủng chẳng khi gần khi xa, một nói một nhìn, mỗi người hiểu theo mình nói mà chẳng bao giờ thấm hết ý tứ.

- Không phải.

- Phải rồi.

Mỵ cười nửa miệng:

- Anh có quê dưới xuôi, anh không ở đây.

- Tôi đi suốt đời theo cách mạng, chẳng ở quê khi nào.

- Bao giờ anh lấy vợ thì vợ anh mới trói anh về ở quê.

Nghĩa nói:

- Chưa biết đâu.

Mỵ nói:

- Em biết rồi.

Một làn đàn môi lững lờ bay vào. Hơi đàn dìu dịu đâu đây không trông mà như thấy cả đôi môi người con gái ngậm đàn. Tiếng đàn môi đột nhiên rung động tâm sự Nghĩa, khiến Nghĩa buột nên câu: "Chưa biết đâu!"... Câu nói úp mở, nhiều lúc Nghĩa đã muốn nhìn vào mặt Mỵ và nói, nhưng rồi vẫn chưa lần nào dám thốt ra.

Tiếng sáo nào kể lể ngoài kia. Nghe tiếng sáo mà thấy cả cái dốc khúc khuỷu lên xuống trong đêm trăng mờ, cái dốc không lúc nào rời bước chân khó nhọc của người Mèo, nhưng trên lưng dốc lúc nào cũng đưa theo tiếng sáo và một tấm lòng tin yêu.

Mỵ hỏi:

- Anh Nghĩa có biết cái sáo đương nói đấy không?

Nghĩa lặng im.

- Đó anh Nghĩa cái sáo nói gì?

Nghĩa trả lời:

- Chịu.

Mỵ nói:

- Cái sáo đương kể chuyện hai người tiễn nhau đi xa.

Anh đi núi bên này

Em lên nhìn chẳng thấy

Mưa lấp bóng rừng

Vẫn nghe tiếng sáo

Tiếng sáo anh nói rằng

Chẳng bao giờ quên em

Nghĩa gật:

- Hay nhỉ!

Mỵ nói:

- Có hay gì đâu, chỉ buồn thôi.

Nghĩa nào chẳng biết! Tiếng sáo ai thổi ở đâu xa chẳng khác tâm tình Mỵ lúc ấy.

Mỵ không nói gì nữa. Sợ Mỵ buồn thêm, Nghĩa hỏi lấp:

- Ai thổi sáo thế?

- Sáo anh Khay.

Thào Khay bước vào. Thào Khay vừa ngồi, đã lại nâng ống sáo lên. Trong ánh lửa, Thào Khay co một chân, vành mũ nồi ngật đằng sau, chăm chú thổi sáo.

Đêm về khuya, người xung quanh đã vãn đi từ lúc nào. Mấy anh nhảy khèn lúc nãy bây giờ đã ngồi hút thuốc lào. Có anh gác bè khèn lên vách sang ngủ luôn ở cái sàn nứa gần đấy.

Tiếng sáo Thào Khay tỉ tê như muốn rủ, muốn đưa người vào chơi ven rừng, đến ngồi tựa lưng đá trong đêm trăng. Tiếng sáo kể ra một nghìn lời yêu đương mà Nghĩa không biết. Nhưng tiếng sáo đã dần dần đọng lại trong lòng Nghĩa chỉ có một bóng cô Mỵ.

Mỵ nghiêng mặt, đuôi con mắt lư đừ còn ánh rớt lại. Nghĩa mơ màng thấy không phải đấy là cô Mỵ thường ngày. Mà ai đâu như cô Mỵ này là cô Mỵ ở tận làng quê Nghĩa, cô Mỵ mặc tấm áo cánh trắng với cái quần lụa đen. Tóc cô cặp xõa ngang lưng. Tối thế này mà còn thấy sáng lóe mấy chiếc cặp tóc vừa mở. Đuôi con mắt sôi nổi và dịu dàng vẫn vuốt trên mặt Nghĩa. Ôi chao, có thật đây là cô Mỵ làng ta, ở làng ta thì ai là cô Mỵ?

Phú Thọ thân mến. Đất Phú Thọ có những cây cọ trên đồi, mỗi tháng cây cọ nở một tàu lá non, ánh sáng tua tủa xanh quanh năm. Dải rừng chẩu kia cứ đến mùa hè thì ra hoa trắng. Năm tháng qua đi, nước giếng thơi vẫn ủ mát chân đồi. Nhưng những bạn trai, bạn gái cùng lứa tuổi ngày trước thì đã đổi khác. Khi hòa bình trở lại, Nghĩa về thăm làng. Anh em biết Nghĩa chưa có vợ, đều kêu lên: "Phải tìm cho Nghĩa một thằng vợ!"

Nghe câu nói nghịch ngợm, thân thiết, Nghĩa cảm động, vui và thẹn như trẻ con. Nhưng lấy vợ nào phải chuyện đi tìm thì được. Những cô bạn trạc tuổi, cùng xóm, cùng làng xưa kia, giờ đã chủ nhiệm, bí thư và con bế con bồng cả. Đám xa thì không biết Nghĩa. Mỗi lần về quê Nghĩa cũng chẳng rảnh rang có cơ hội đi đâu gặp ai. Vẫn chẳng ăn thua gì. Thế nhưng Nghĩa vẫn muốn lấy vợ quê. Thiết tha mà buồn, bởi vì bao nhiêu ước muốn bấy lâu vẫn chỉ vu vơ và xa vời. Đành nhờ, mà nhờ thì cũng là trông chừng chim trời cá nước.

Năm năm mòn mỏi qua. Nghĩa ủ ấp nhiều phen hy vọng rồi lại mất đi, cho đến bây giờ, hy vọng vẫn chập chờn vừa nở vừa tàn, không ra sao.

Mới đây, Nghĩa nhận được thư nhà. Anh cả của Nghĩa hẹn đi hẹn lại trong thư: “Tết năm nay chú cố gắng về. Thế nào lần này cũng xong".

Xem thư, xem từng chữ, càng thấm ra nhiều ý tứ. Mỗi chữ một vui, mỗi chữ một thêm nghĩ ngợi. Nghĩa lại mơ màng nuôi hy vọng mới... Ở cái làng quê thuở tấm bé của mình, sáng sáng nắng bừng trên những đồi cọ xanh ngắt. Các cô gái làng Đan Hà bây giờ đời sống mới, người ta đều áo trắng đội nón đi làm đồng. Tổ sản xuất nhiều thanh niên, lúc nào cũng vui như hội, việc chạy ầm ầm. Nghĩa ngắm nghía, cân nhắc về từng cô, phân vân chưa biết chấm cô nào. Cô nào cũng đáng yêu, tươi tắn những cảm tình! Bốn bên múa lên những nụ cười, những đuôi mắt.

Nghĩa ngỡ thế. Nhưng bây giờ chợt tỉnh, nhìn lại, chỉ thấy ánh lửa sưởi đương hồng, và trên ngọn lửa còn lại một đôi mắt long lanh, đôi mắt tha thiết trên khuôn mặt chín lừ của Mỵ đương chằm chằm nhìn Nghĩa.

Nghĩa nói:

- Mỵ mà mặc áo người xuôi thì đẹp.

- Mặc thế nào, hả anh?

Nghĩa nói như đương mải sắp đặt một mình:

- Áo trắng có túi ở đây. Quần lụa đen. Hai cái cặp tóc sáng hai bên mái tóc thế này.

- Em biết rồi. Các chị ở công trường làm đường dưới châu Yên cũng mặc áo như thế. Một bên cặp tóc còn gài tờ giấy bạc thế này, phải không anh?

- À…

- Em mà mặc áo thế thì cả Phiềng Sa cười em.

- Sao?

- Cười em sắp lấy chồng Kinh rồi.

Nghĩa và Mỵ cùng cười, mỗi người cười theo một ý tứ. Bởi vì, sau đấy, Nghĩa im. Còn Mỵ cứ hỏi mãi:

- Ở quê anh có hay đi chơi rừng không?

Nghĩa không đáp ngay. Một lát mới nói:

- Các cô gái quê tôi, đêm sáng trăng, thích rủ nhau đi tắm trong đồi. Dưới chân đồi có giếng nước trong lắm, cô Mỵ ạ.

- Anh cho em về đi chơi đồi có giếng ở quê anh được không?

- Được, Mỵ ạ.

Hai người nói hai câu ấy, người hỏi, người trả lời thong thả. Các cô bạn ngồi quanh thì nhìn họ và cười khúc khích từ lúc nãy.

Mỵ lặng lẽ, sung sướng, từ từ đứng lên. Tưởng như họ sắp cùng nhau bước ra đi chơi rừng trăng. Ánh lửa nóng dừ mặt và đôi mắt say say. Nhãng cả mấy cô bạn đương nhìn mình, Mỵ vẫn đứng mà không biết mình đương đứng.

Thào Khay buông sáo, bước đến, nói to:

- Bọn này muốn ngồi đây cả đêm chắc!

Rồi ồn ào ra lệnh:

- Thôi về nghỉ, mai còn lấy sức đi sản xuất.

Nghĩa vớ được câu nói đúng lúc của Thào Khay, cũng nói:

- Phải đấy!

Nhưng cả Thào Khay vừa nói rồi cũng lại ngồi xuống, còn Mỵ thì vẫn đứng cười cười nguyên chỗ ấy.

Một lúc lâu, Thào Khay nhớ ra, giục thêm, bấy giờ Mỵ và Khúa Ly cùng mấy cô nữa mới chịu về.

Mỵ bước ra rồi còn quay lại. Câu chuyện đứng dừng giữa lúc đương đậm đà. Nghĩa trông theo Mỵ, không hiểu sao, ngoài bóng tối lại thấy đôi mắt đăm đắm của cô gái quê nhà, một cô gái Phú Thọ đảm đang, rắn rỏi, quần lụa, áo trắng, tóc dài, mặt trái xoan và con mắt say say như Mỵ, con mắt say say hệt như Mỵ. Nghĩa nhớ câu giục giã trong thư của anh cả ở quê viết lên: "Tết năm nay chú cố gắng về... cố gắng về...", Nghĩa lại băn khoăn: cô gái quê nhà hay là Mỵ đấy?

Chủ tịch Tỏa đeo súng, bước vào:

- Tao vừa đi dọn cái bễ rèn. Sợ đêm mưa thì ướt hết.

- Xong chưa ạ?

- Còn cái bệ, phải khiêng nốt.

- Nào ta đi!

Cả ba người cùng bước ra.

Trong bóng trăng sương đục, nổi hình lực lưỡng những chóp núi ngồi núi đứng bá vai nhau nhìn xuống cái bãi phẳng đương sắp dựng lên thành trạm xá, kho muối, nhà mậu dịch của "thị trấn” Phiềng Sa. Rồi kia nữa, trường học, kho lương thực, nhà bưu điện. Chỗ này gần suối sẽ đặt trạm xá. Nếu thành bệnh viện cũng xây dựng ở đấy, nơi tiện nước, tĩnh mịch, xa khu nhà ở và các cơ quan.

Nghĩa khoát tay chỉ trỏ, nói thế. Chủ tịch Tỏa thú vị, cười to:

- Này đồng chí Nghĩa, cái xưởng rèn của tôi ầm ĩ lắm, rồi cũng phải đặt một nơi tận đằng sau núi mới được.

Ba người khiêng xong bệ rèn, trở vào nhà. Bấy giờ mới hạ khẩu súng kíp trên vai xuống, chủ tịch Tỏa khoan khoái rít luôn một lúc năm mồi thuốc lá. Cái điếu tanh tách sôi réo. Nhưng hút chưa xong cả chặp, chủ tịch Tỏa đã đứng dậy, nhìn với ra, nói sặc trong khói:

- Có đuốc nào đi dưới kia?

Nghĩa và Thào Khay cùng nhìn, đoán:

- Đuốc về xóm.

- Ai về?

Nghĩa chợt nghĩ, hỏi:

- Có phải lối ấy về Ná Đắng?

- Không.

- Đuốc ai nhỉ?

Chủ tịch Tỏa lại hất cái dây da, khoác súng lên vai.

- Tao phải xem đứa nào đi đâu khuya thế?

Thế là chủ tịch Tỏa lại lật đật đi. Nhỡ đấy là bọn xấu ở Lào mò về thì sao? Làm chủ tịch cần phải biết tất cả.

Chủ tịch Tỏa ra khỏi, Nghĩa và Thào Khay mỗi người vẫn tiếp tục theo đuổi những mơ ước đương sôi nổi của mình. Thào Khay nghĩ xem các phòng nằm của bệnh viện nên dựng phía suối bên nào thì hơn. Nghĩa ngả tấm ván, nằm lim dim ngay cạnh lửa, trong đầu bề bộn, lúc thì sắp xếp công việc ngày mai, lúc lại nghĩ đến Mỵ, lúc thì về Phú Thọ.

Im một lát, Thào Khay lấy sáo ra thổi.

Tiếng sáo kể lể trong đêm sâu. Chợp mắt một lát, thấy hơi lạnh, Nghĩa xoay lưng sang phía lửa. Xoay lưng đã mấy lần, vẫn mơ màng nghe một tiếng sáo như lúc nãy. Nghĩa trở dậy, hút thuốc.

Nghĩa hỏi Thào Khay:

- Thào Khay thổi sáo buồn hay sáo vui đấy?

Thào Khay ngước mắt, nói:

- Sáo vui thôi! Tôi đương nghĩ những chuyện chúng ta vừa nói lúc nãy. Cửa hàng mậu dịch, bệnh viện, đường ô tô lên...

- Nhất định thế rồi. Xem tinh thần nhân dân đi làm kho mấy hôm nay thì cái gì rồi nhân dân cũng làm được. Không trông thấy đuốc đằng kia nữa. Đồng chí chủ tịch đi lâu nhỉ?

- Anh Nghĩa à, tiếng sáo tôi thổi đây để cho tận trong xóm, Khúa Ly cũng nghe tiếng.

Con chim trắng bay qua suốt-

Hoa nở không thấy hoa

Cày nương ba luống cày

Em về ngủ đừng say.

Thào Khay lại nghiêng đầu, mải miết với sáo.

Hoa nở không thấy hoa

Em về ngủ đừng say...

Chủ tịch Tỏa bước vào, buông súng tựa phịch bên phên vách, rồi với lấy cái điếu. Cái nõ điếu trong tay chủ tịch Tỏa lại tanh tách rít lên.

Nghĩa hỏi:

- Cái gì thế?

Cũng vừa lúc, có hai người bước vào sau.

Chủ tịch Tỏa giới thiệu:

- Hai đồng chí này là công an dưới châu vừa đem trả thằng Nhìa về.

- Châu ủy thả nó về, tổ Đảng chúng mình phải chịu trách nhiệm về thằng Nhìa. Châu ủy đã chỉ thị thế. Ta sẽ họp tổ Đảng để phổ biến.

Một đồng chí vừa vào, nói với Thào Khay:

- Đồng chí bí thư châu ủy có dặn riêng đồng chí Thào Khay. Tôi truyền đạt bây giờ.

Thào Khay và đồng chí ấy bước ra cửa, nói chuyện nhỏ.

Lát sau, Thào Khay vào lấy súng, rồi về.

Chủ tịch Tỏa vác thêm củi đốt cho bếp giữ được lửa ấm suốt đêm, rồi chủ tịch Tỏa cũng lại đi. Chỉ còn Nghĩa và hai đồng chí công an dưới châu ngủ lại ở trụ sở. Trong vách, mấy anh thổi khèn giỏi lúc nãy ngủ tít đã từ lâu.

*

* *

Có lẽ Thào Nhìa được đưa về nhà vừa lúc bà Giàng Súa đương nghĩ về nó. Vừa lúc bắt đầu, bà Giàng Súa nằm nghĩ đến thằng Nhìa sắp được trở về.

Đứng ở thềm cửa, Thào Nhìa đã nhìn ngay thấy mẹ. Mẹ ngồi trước bếp. Lưng mẹ tựa vào vách. Nhà tối thẫm, chỉ có một mình hòn than đỏ trong bếp. Khói bếp bao giờ cũng nồng ấm khác các thứ khói khác. Cái nhà người Mèo giữa đồi tranh trống trơ, nhưng khi đã bước qua gian cửa có cái cối xay đứng vênh hai tai cối, vào đến trong nhà thì lòng người bỗng lắng lại. Nhà kín bưng, khói bếp lùa trên những quả bầu lọ đựng hạt giống, cái thang bếp, những chiếc thùng gỗ thông đã nhóng nhánh lên màu bồ hóng. Ai nấy nghĩ êm ả như ở nhà mình.

Lúc ấy, Thào Nhìa lẳng lặng đến ngồi xuống bên cạnh mẹ. Khác nào đứa con vừa đi đâu về.

Đã mười lăm năm đằng đẵng qua rồi mà lúc ấy Thào Nhìa vẫn thấy hệt lại tối hôm nay như tối hôm ra đi. Như đi lúc chiều, vừa trở về. Mười lăm năm bỗng nhiên thành chốc lát. Nghĩ thế, Thào Nhìa bủn rủn, cảm động quá, muốn sụp xuống khóc. Nhưng còn có hai cán bộ dưới châu Yên đưa Thào Nhìa lên cũng cùng vào, Thào Nhìa chỉ rón rén ngồi.

Một người cán bộ nói với mẹ:

- Bà Giàng Súa ơi, Thằng Thào Nhìa nhà bà đây này.

Bà Giàng Súa đứng dậy, hỏi to:

- Chính phủ không giết nó, Chính phủ tha chết cho nó ư?

- Phải.

Rồi bà Giàng Súa hỏi Thào Nhìa:

- Mày có đói không?

Thào Nhìa đáp:

- Đói.

Thế rồi Thào Nhìa đứng dậy, bước vào bóng tối bên lò nấu ngô, lom khom bưng chậu bột ngô và ống ớt, dọn thức ăn ra.

Chủ tịch Tỏa đến. Biết đầu đuôi câu chuyện rồi, chủ tịch Tỏa nói:

- Chính phủ tha nó về, giao cho bà giữ nó, bảo nó thành người tốt. Bà là người trách nhiệm gốc đấy.

- Phải.

- Mời hai đồng chí lên nghỉ trên trụ sở.

- Ở đây ăn cơm.

Chủ tịch Tỏa nói:

- Ăn thịt uống rượu mừng được nó về chứ ăn cơm thế này thì chưa xong đâu.

Bà Giàng Súa sung sướng hỏi lại:

- Thật thế phải không? Thật thế nhé!

Ông chủ tịch Tỏa chỉ cười, rồi kéo hai đồng chí cán bộ đi.

Bà Giàng Súa đương sung sướng giàn giụa nước mắt ra. Cứ trông cái dáng thằng con lưu lạc bấy lâu mà bây giờ vẫn biết lui lủi vào bếp rồi lúi húi cúi xuống, tìm cái thìa, Lấy bát ngô thông thạo và thuộc chỗ như no vẫn ở nhà thường ngày thì còn sung sướng nào hơn! Thôi thế từ đây con cái đầy đủ xung quanh bà cả. Nó thật người trong nhà mình rồi. Nó biết dọn ra cái chậu đựng cơm ngô, cái bát đậu răng ngựa, cái ống ớt... cũng như hôm thằng Khay về. Thật người của ta rồi.

Đã lâu lắm, từ năm nào, từ bao giờ không biết, Thào Nhìa mới lại được ăn hạt đậu răng ngựa. Cái hạt đậu răng ngựa đem ninh dừ, tráng một tí nước ớt, bùi bùi lạ lùng. Mẹ ơi, con chỉ nhai vài hạt đậu trong miệng mà đã quen thuộc như con vừa mới ra khỏi nhà ban chiều. Thào Nhìa thấy mình bé lại, bằng hôm mới đi. Những ngày những năm gian khổ và xa lạ vừa qua đã qua rồi, chỉ còn lại trước mắt có một mẹ mình và một thằng Nhìa bé bỏng là mình ngày xưa. Gió thổi xám ngắt, mờ mờ lướt thướt, qua những lão khách Sìn... thành phố Cò Rạt nhốn nháo... Trường thần học âm thầm ở bờ sông Udon... Mẹ ơi, không còn gì nữa, không có gì đâu. Bây giờ chỉ có mẹ và con. Từ đây không gì có thể chặt đường mẹ con ta.

Nhưng, một thoáng, Thào Nhìa chợt nhớ và rợn gáy. Không, cha dạy đạo đã dặn: "Không phải nó là mẹ, là anh em đâu, nó đã thành quỷ cả rồi... Con ơi! Con cúi đầu xuống, con cứ ngồi im, con giả tảng như chết rồi, kỳ tình hai mắt con vẫn mở, hai tai con phải nghe... Bây giờ ở trên đời này chỉ còn có cha với con mà thôi. Rồi cha sẽ làm cho con lại được thấy mẹ thật, lại được gặp anh em thật là anh em của con".

Thế là thế nào? Những lời dụ dỗ ấy lại thoảng qua. Thào Nhìa đương thật sự thấy hôm nay được trở về với mẹ. Thào Nhìa vừa bước qua cửa. Rõ ràng Thào Nhìa ngồi sưởi lửa bên cạnh mẹ. Sao lại không phải mẹ đây? Thào Nhìa khẽ gọi:

- Mẹ ơi!

Mẹ đáp:

- Mày gọi gì?

- Thật mẹ rồi.

- Mẹ ơi. Con xin kể mẹ nghe từ ngày con đi...

Thật mẹ đây rồi. Thào Nhìa kể chuyện với mẹ. Người mẹ ngồi nghe con kể lại từ ngày con đi theo ông khách Sìn. Rồi đi theo ông dạy đạo. Con đi những đâu, những đâu, mẹ mới nghe mà đã như biết trước cả và nghĩ luôn là dù con có dông dài qua những núi nào núi nào rồi sau cũng về đến suối Nậm Ngù. Rồi người mới hóa hổ ở suối Nậm Ngù.

Nhưng kỳ lạ sao, băn khoăn nhất vẫn là cái điều mà bà Giàng Súa nghĩ về ông cố đạo. Ông dạy đạo hay là con hổ, hay là người đàn bà đem ngâm xác con hổ vào nước đái. Chắc đấy là con hổ rồi chứ không phải ông dạy đạo, lúc bấy giờ thằng Nhia đã mê, không biết gì nữa đâu.

Bà Giàng Súa hỏi:

- Con theo ông dạy đạo đến Nậm Ngù hay sao? Ông dạy đạo có làm buôn bán như ông khách Sìn không?

Thào Nhìa đáp:

- Ông dạy đạo thờ Chúa, ông dạy đạo...

Miệng ấp úng thế, bụng Thào Nhìa vẫn nhớ những lần đi Xămbátxắc mua thuốc phiện của vua Bun Ù, ở nhà vua Bun Ù hàng tháng, rồi khuân đi những chiếc vali thuốc phiện. Nhưng Thào Nhìa không nói. Bởi vì, dù sao thì cũng chưa bao giờ Thào Nhìa thấy ông cố đạo giống ông khách Sìn hay giống ông chủ người Ănglê xuống mở cửa hàng quay kem ở Cò Rạt. Bởi vì ông cố đạo hay mặc quần áo ka ki và đeo kính đen như các quan binh người Hoa Kỳ. Cái đó không giống những ông chủ khác.

Mẹ lại hỏi:

- Chúa là ai?

- Chúa ở trên trời.

- Ở trên trời với người chết a?

- Phải, những người tốt mà chết đều lên ở trên trời.

- Mày đã được theo ông dạy đạo lên trời bao giờ chưa?

- Chưa.

Thào Nhìa vừa nói vừa nhìn mẹ. Thào Nhìa đã kể cho mẹ nghe đến đâu rồi nhỉ? Thào Nhìa đã kể đến chỗ từ khi mình xuống Cò Rạt quay kem cho ông chủ người nước Ănglê rồi lại theo ông cố đạo về trường thần học ở Uđon. Rồi sao đây? Sẽ kể nốt ư? Kể rằng ông cố đạo đưa mình đi gặp các quan binh người Hoa Kỳ rồi lên ở Viên Chăn... Thào Nhìa có cảm tưởng nói nốt ra thì sẽ nguy hiểm. Ở dưới châu, Thào Nhìa cũng không nói cả như thế. Mặc dầu, những điều từ một tháng nay, Thào Nhìa nhìn thấy ở châu Yên thật khác những điều người Hoa Kỳ đã bảo cho Thào Nhìa biết khi còn ở bên kia. Thào Nhìa không trông thấy cộng sản đâu, không thấy ai giết người, không thấy kẻ cướp như người Hoa Kỳ đã nói với mình thế. Thào Nhìa chỉ thấy mọi người vẫn làm nương và cũng ở núi bình thường như ngày xưa. Và khác ngày xưa, mẹ không phải ở trong rừng sâu. Bây giờ mẹ ở trong làng. Thật là khác. Nhưng còn thằng Khay và cái Mỵ thì có lẽ bị cộng sản bắt đi rồi. Vậy mẹ vẫn ở một mình thế này ư? Được, rồi ta sẽ đưa mẹ đi. Rồi mẹ con ta sang Lào, sang Thái, ở Cò Rạt hay ở Uđon, mẹ muốn ở đâu cũng được.

Thào Nhìa hỏi mẹ:

- Thằng Khay đâu?

- Khay đi công tác y sĩ.

- Con Mỵ đâu?

- Đi dân công làm kho mậu dịch, tối nay ở xóm trên ấy.

Thào Nhìa chẳng hiểu những công việc này, nhưng cũng đoán: chắc những công việc bình thường. Nhưng dù sao thì Thào Nhìa cũng không thích và cũng ngại. Đấy không phải việc nhà mình. Đấy là những việc gì của cộng sản đặt ra. Cộng sản có thể giết mình. Thế là lại phân vân…

Giữa lúc ấy, Thào Khay bước vào.

Thấy Khay, Thào Nhìa im, không nói nữa. Cái mũ cát két và chiếc áo dạ tím xa lạ đã khiến Thào Nhìa không thể nghĩ người ấy có họ hàng với mình. Nó như những người không quen thuộc ở châu Yên. Cái thằng Khay và con Mỵ bé bỏng, rách rưới trong những ngày ở rừng năm xưa, bây giờ không thấy nữa. Khuôn mặt trẻ con ngày ấy bây giờ nó đã đổi khác, không nhận ra, đây là người khác rồi.

Thào Nhìa thấy bơ vơ hẳn, không quen quen như từ nãy ngồi với mẹ. Và Thào Nhìa lại im. Những tò mò, những cái cần để ý, mọi thủ đoạn nghề nghiệp của một tên biệt kích đã học thuộc lòng trước khi nhảy dù lại trở lại trong đầu. Đứa con và người anh em lúc nãy bây giờ lại hóa ra thằng biệt kích.

Thào Khay hỏi vồn vã:

- Anh mới được về à?

Thào Nhìa ngần ngừ rồi hỏi Thào Khay:

- Ở đây có thuốc phiện không? Ai hút thuốc phiện, mày có hút thuốc phiện không?

Thào Khay nói:

- Không trồng thuốc nữa đâu. Đến mười năm rồi, mẹ nhỉ? Từ khi thành khu du kích đấy.

Thào Nhìa lại im. Rồi gật gưỡng ngủ. Có lẽ đi đường xa, bây giờ mệt. Nhưng không phải, Thào Nhìa vờ ngủ. Trong lòng đương ngổn ngang nghĩ ngợi. Còn bà Giàng Súa thì thương nó đói thuốc phiện.

Hôm sau, lúc có một mình Thào Nhìa ở nhà, bà Giàng Súa hỏi:

- Mày còn nghiện à?

Thào Nhìa không trả lời mẹ, nhưng miệng lẩm bẩm nói gì bà Giàng Súa không nghe rõ. Thào Nhìa lúc ấy càng phân vân.

Thào Nhìa nằm lỳ ở nhà, có đến hàng tháng, không bước ra cửa. Cũng không thấy thân thiết gì hơn với ai. Có mẹ là quý nhất, nhưng mẹ cũng chỉ nói toàn chuyện bây giờ. Thào Nhìa buồn lắm.

Rồi một hôm, Thào Nhìa đi lấy củi.

Thào Nhìa vào rừng đến chỗ giấu thuốc cai nghiện và tìm điện đài đánh về X.

Chỉ nghe một tiếng trả lời từ X., Thào Nhìa đã choáng váng. Như vừa nốc bát rượu mạnh, Thào Nhìa nhớ hẳn ra mình là người của X