- X -
Trong vết lầy lội chân ngựa giẫm nát ven nương, cỏ tranh cao quá đầu, thấy đụng đậy rồi nhô ra một lùm củi khô mốc như con trăn cuộn khúc trên lưng con ngựa nhỏ tải củi.
Rồi Thào Nhìa bước lên. Một tay Thào Nhìa vác cái rìu. Bùn lấm lên tận cổ áo, hai con mắt Thào Nhìa lờ đờ ngước, như đang nhận đường.
Phía trước, trong bóng cây sáng trắng những mái nhà lá gồi mới lợp của cửa hàng mậu dịch. Thào Nhìa thấy đột nhiên vui sướng, mới lạ như được nhìn tháp chuông nhà thờ. Nhưng tức khắc nhớ ra mình đương ở đâu, Thào Nhìa cúi mặt. Rồi lẳng lặng bước theo chân con ngựa chở củi, bùn vấy lên tận khoeo. Thào Nhìa rẽ về xóm.
Những người đã nom rõ Thào Nhìa hôm mới bị bắt, ngồi phệt dưới đất ở cửa trụ sở ủy ban, nếu bây giờ gặp lại thì không thể nhận ngay ra.
Trước nhất, vì cái đầu trọc. Cả đám tóc xoăn rậm rịt hôm ấy bây giờ chỉ còn trơ một núm hoa roi giữa đỉnh. Thào Nhìa muốn để tóc như con trai Mèo ngày trước. Như vậy càng lạ lùng hơn, bởi vì thanh niên Mèo, từ khi theo cách mạng vào ở khu du kích, đã quen cắt tóc ngắn, về sau cũng không ai nuôi tóc dài như cũ nữa.
Khi các đồng chí công an châu Yên đưa Thào Nhìa về Phiềng Sa, bà Giàng Súa bùi ngùi, cảm động, đã hỏi:
- Nó được trở lại làm con tôi ư?
Các đồng chí công an cười, nhẹ nhàng đáp:
- Phải.
Không ai nỡ nói hết.
Hàng ngày, Thào Nhìa vác rìu đi chặt củi. Có khi cùng mẹ và em ra nương làm cỏ ngô mấy hôm liền.
Dần dần, bà Giàng Súa thấy nó thật là thằng Nhìa con bà. Bà không nghĩ đến người chết sống lại ở suối Nậm Ngù nữa. Nó vẫn còn giữ được tính chăm làm, chịu khó như người Mèo, như ngày trước. Chỉ phải cái nó quên cầm búa và lúc đầu cầm cái cuốc bướm nhẹ nhàng nó không xới nổi một tụm cỏ. Bao năm nay, chẳng biết làm gì nên ăn mà chân tay nó phục phịch, mềm nhẽo, bệch bạc, còn cái mặt thì nùng nục, xẻo ra thịt, hệt mặt ông khách Sìn buôn hàng thồ ngày trước.
Nhưng sao Thào Nhìa cứ lầm lì, cả ngày chẳng nói. Có khi mấy ngày không cậy răng. Có lần đi chơi quanh mấy xóm gần đấy, người ta hỏi, nó trả lời từng nhát và lúc về, vẫn lặng câm thế. Nó tiếc cái gì, nhớ vợ nhớ con ở đâu, chứ nó không có vẻ nào xót xa, nó không mừng rỡ được về quê. Những điều bí mật và xấu xa, hình như vẫn phảng phất, lẩn quẩn đâu đây. Ai cũng thấy thế.
Có buổi tối, chỉ một mình bà Giàng Súa ở nhà, Thào Nhìa nói với mẹ:
- Người Mèo ở bên Lào bây giờ vứt được cái khổ đi rồi, mẹ biết chưa?
Bà Giàng Súa phân vân: "Cái ngày mới giải phóng, cả làng xô nhau vào dỡ nhà thống lý, vác đi cả từ một hòn đá kê chân cột, ai cũng sướng. Vì trước nó lấy của mình cái gì thì bây giờ đến tìm mà đem về. Nhà quan ác như con hổ cụt đuôi. Đã ăn hết ngựa hết bò lại còn cắn chết cả người. Nhân dân ta đánh mãi mới đuổi được nó đi, bây giờ nghe nói bên ấy còn thống lý mà bên ấy lại sung sướng được a? Thằng này nói lạ!". Nhưng bà Giàng Súa không kể lại chuyện ngày giải phóng cho Thào Nhìa nghe và bà cũng không muốn hỏi con câu bà vừa nghĩ. Bà chỉ hỏi một câu đượm buồn, mỉa mai:
- Sướng thế, sao mày không ở bên ấy?
Thào Nhìa cãi:
- Tôi nhớ mẹ thì tôi về, mẹ chưa biết a?
Nó nói thế, bà Giàng Súa đâm ra bực mình, xẵng:
- Mày nhớ mẹ mà mày chẳng nói với mẹ câu nào. Từ ngày mày đi, đêm nào tao cũng nhớ, càng bình yên tao càng nhớ…
Bà Giàng Súa nghẹn ngào, không nói được thêm. Thào Nhìa chỉ đáp: "Có, có nói đấy thôi", rồi cũng lại im ngay. Phải, Thào Nhìa có nghĩ, có muốn nói nhiều nữa, nhưng chưa biết lựa thế nào cho câu chuyện Thào Nhìa sắp gợi ra đây được êm ả. Thào Nhìa muốn đưa mẹ, đưa em đi. Đã một lần, Thào Nhìa bảo mẹ:
- Người Hoa Kỳ, à người Mỹ bên ấy, mẹ ạ.
- Thằng Mỹ, thằng Pháp à?
- Phải, chỉ có người Mỹ thôi.
Bà Giàng Súa hốt hoảng lên:
- Không, không, con ơi! Con xa quê từ ngày còn bé dại, con chưa rõ hết ngọn nguồn nỗi nhà ta ngày trước. Đời mẹ con ta lúc ấy chỉ còn đợi vùi xác ở rừng chứ còn mong đâu được ngày nay. Bố con chết không ai nom thấy mặt. Về sau, con lưu lạc những nơi nào...
Nghe mẹ kể, Thào Nhìa im hẳn. Đã không muốn nói, từ đấy, Thào Nhìa càng lầm lì. Chẳng ai hiểu nó ra thế nào. Chẳng ai biết những lúc ấy, trong người Thào Nhìa, cả thằng biệt kích và đứa con đều đương nghĩ, đương băn khoăn nhiều lắm. Mỗi lần đi củi về, Thào Nhìa dỡ khiêng củi trên lưng con ngựa, quẳng xuống trước cửa. Rồi tựa lưng vào vách, đứng dụi đầu, lử lả. Hai bàn tay xây xát, lem nhem máu - có lẽ nó muốn vùi đầu vào làm, cố cho khuây nỗi buồn nhớ vợ nó ở Nậm Ngù? Bà Giàng Súa đoán thế.
Những lúc này, thì bà Giàng Súa lại thấy nó chẳng phải đứa con mình ngày trước. Bà Giàng Súa xót xa nghĩ đến chuyện con hổ hóa người ở suối Nậm Ngù. Không muốn nhớ mà cứ vẩn vơ nhớ, bà Giàng Súa ứa nước mắt.
Rồi một hôm, nghĩ thế nào, Thào Nhìa tỉ tê bảo Mỵ:
- Mỵ ơi! Mày có còn nhớ ngày trước có lần tao đem mày xuống chợ xem hàng ông Sìn không?
- Quên rồi.
- Bây giờ ở bên Lào, bên Xiêm kia, cái chợ còn sướng hơn thế, to hơn thế.
- Có to bằng mậu dịch của ta không?
Thào Nhìa không đáp.
Mỵ lại hỏi:
- Như chợ ông Sìn ấy à?
- Sao mày bảo mày quên rồi!
Mỵ mỉm cười vẩn vơ, hỏi nữa:
- Như ngày trước à?
- Phải.
- Như ngày trước thì em cũng biết cái chợ ấy rồi. Cái chợ có lính quan về đánh chết người, mẹ vẫn kể. Bây giờ ai ở bên ấy về cũng nói chợ bên ấy có lính lấy thuế đánh chết người như thế. Ông chủ tịch Tỏa đã ở bên ấy về cũng nói thấy thế.
- Cái chợ bên ấy...
- Phải rồi. Mẹ kể ngày xưa đi mua muối, vào nhà thống lý mới vào đến chỗ thằng cai ngồi đã phải cúi đầu quỳ xuống trước mặt nó trình việc rồi đưa cho nó ăn mấy hào trắng. Bây giờ bên ấy còn có thằng thống lý thì nhân dân đi mua muối cũng phải quỳ lạy, cũng phải cho quan ăn bạc trắng thế a?
- Mày nói quan nào? Phải gọi là quan thống lý mới được.
Mỵ cười:
- Anh bỏ quên con mắt ở nhà thằng đế quốc bên ấy rồi.
Thào Nhìa sừng sộ:
- Tao cấm mày!
Nghe thế, vừa giận vừa sợ, cứ ức lên, trợn quá, Thào Nhìa tắc trong cổ, không nói được nữa.
Thào Nhìa lại im. Có đến mấy đêm ngồi thừ mặt bên đống củi sưởi.
Rồi lâu lâu, một buổi khác, Thào Nhìa ngồi với Thào Khay. Lo sợ vẩn vơ, Thào Nhìa buông một câu, như vừa nghĩ ra:
- Bên kia bây giờ khác lắm, mày ạ.
Thào Khay nhìn Thào Nhìa, nghĩ: “Các đồng chí công an dưới châu đã đọc tận óc nó thật. Người này không phải anh em ta. Cái đầu nó nặng lắm rồi. Nó tưởng mình không biết nó đã rủ rê con Mỵ những gì. Lại dám tuyên truyền cả mình nữa. Lúc nào cũng bên kia... bên kia..." Rồi, không ngọt nhạt như mẹ và em, Thào Khay dựng mắt, dồn luôn:
- Bấy lâu mà anh chưa nhìn được cái gì khác ư? Quê mình bây giờ có kho muối, cửa hàng mậu dịch, trạm xá, có y sĩ phòng bệnh chữa bệnh, không có Tây, không có thống lý. Chủ nghĩa xã hội thế đấy. Quê mình khác hay bên kia khác?
- Tao nhiều tuổi hơn mày, tóc tao rụng nhiều hơn mày, tao biết nhiều hơn mày.
Thào Khay giận quá: "Tao đi khắp đất nước, tao đã đi công tác khắp đất nước, tao biết bằng nghìn mày". Nhưng Thào Khay không nói thế, Thào Khay nhìn thẳng vào hai con mắt đờ đẫn ngầu đỏ của Thào Nhìa rồi lắc đầu:
- Cái bụng khác nhau rồi.
- Mày nói gì?
- Lại thay họ Mùa theo thằng Sống Cổ đi!
- Họ Mùa vẫn là người Mèo.
- Không phải, thằng biệt kích!
- Tao đã về hàng Chính phủ, tao cũng bằng mày, mày đừng nói thế, xấu hổ tao!
- Không được.
Thào Nhìa nhợt nhạt gằm mặt xuống. Hai ngón tay giơ ra chấm chấm mơ hồ lên trán lên vai và lẩm nhẩm.
Thào Nhìa lại sợ. Những điều định mon men nói của thằng biệt kích lại rụt lại. Thằng biệt kích trong người Thào Nhìa không thể ngóc lên được. Thào Khay đứng đấy, nét mặt rạng rỡ, tiếng cười to, cả cái giọng choang choác, băng băng những lý lẽ cứng cỏi, tự tin của Thào Khay đều đẩy cái lén lút của Thào Nhìa đến chỗ ngần ngại rồi nhụt dần. Thào Khay càng hăng:
- Làm gì mà lầm rầm thế? Chửi Chính phủ à?
Mọi ý nghĩ đen tối đương tan rã, Thào Nhìa ngẩng mặt, ngơ ngẩn, nói nhỏ nhỏ chuyện gì lạ lùng xa xôi:
- Không, em ạ. Trên đời còn có đấng coi sóc ta...
Mặt Thào Nhìa càng buồn thiu và mỗi tiếng nói ra lúc ấy cứ vật vã như con cá ngáp nước.
Thào Khay hỏi to:
- Ai coi sóc ta? Thằng vua coi sóc trên đầu ta à?
Thào Nhìa vơ vẩn nhắc lại:
- …trên đầu ta.
Thào Khay xì mũi:
- Còn đứa nào cưỡi đầu ta? Thằng vua, thằng đế quốc, thằng nào thì người Mèo cũng đã đuổi đi hết cả rồi. Chưa ngủ dậy à? Mày chưa ngủ dậy à?
Tiếng "mày" đầu tiên giận dữ gằn ra, như quả đấm. Tình anh em thường nặng nề đối với người Mèo quen sống đùm bọc nhau, không còn nữa. Thào Nhìa nhợt nhạt cúi, im.
Ít lâu sau.
Rồi Thào Khay với chủ tịch Tỏa và cán bộ Nghĩa, ủy ban cũng như tổ Đảng ở Phiềng Sa mỗi người lại mải mê một công việc. Có lần nào Chủ tịch Tỏa hỏi, Thào Khay nói: "Cái thằng ấy mới có xác nó về chứ đầu nó còn lạc đâu chưa về". Ông chủ tịch nghĩ: "Nó được ở với nhân dân thì rồi nó cũng sáng dần ra".
Cái gì, chủ tịch Tỏa cũng thấy thẳng đuột như vậy. Sắt thép, ông thợ rèn còn đốt ra nước, người cứng đến thế nào thì cách mạng cũng sẽ uốn được - chủ tịch Tỏa nghĩ thế.
Chủ tịch Tỏa vừa công tác chính quyền, vừa làm tổ đổi công lại vừa mê say cái lò rèn mới mở. Lúc này đương làm mùa, túi bụi những khó khăn. Lúa trồng trên các nương mới phá đều táp nắng. Có nhà sợ, đã phải cúng. Con ma không muốn người Mèo ăn lúa nương. Nhiều người già nói thế. Biết bảo thế nào cho người ta nghe mình đừng cúng ma? Công việc của chủ tịch Tỏa cứ rối bời.
Cán bộ Nghĩa thì bận sửa sang của hàng, nhà kho, rồi lại từng khi tất tả về châu họp. Không thấy anh thoáng đứng thoáng ngồi đâu được lâu.
Thào Khay có nhiều trách nhiệm về Thào Nhìa hơn cả. Thỉnh thoảng Thào Khay xuống châu, đến châu ủy báo cáo. Người kể và người nghe đều mở sổ tay, người nói có người ghi cẩn thận. Mỗi lần báo cáo xong, đồng chí bí thư châu lại dặn thêm:
- Về cứ làm thế, đồng chí Thào Khay ạ.
Thào Nhìa đi đâu, Thào Khay đều biên lại. Nhưng ngày lại ngày, chỉ thấy Thào Nhìa đưa con ngựa nhỏ vào rừng vác củi.
Mùa đông sắp tới, nhà nào cũng phải có một gò củi trữ sẵn thì mới qua nổi được cái rét núi cao.