- XI -
Thào Khay lại tiếp tục những chuyến đi công tác về xã. Chương trình tuyên truyền vệ sinh đời sống mới đương hăm hở làm.
Thào Khay đã đi khắp các xóm, các dân tộc ở Phiềng Sa. Từ những chòm lơ thơ vài ba nhà, cả mấy đám ở lều nương cày mùa, Thào Khay cũng tới ngủ đêm và trò chuyện với mọi người.
Thào Khay đã qua từng làng từ đỉnh núi xuống. Đến đâu cũng họp xóm, nói chuyện vệ sinh phòng bệnh, giới thiệu cơ sở điều trị ở trạm xá sắp mở.
Không phải dễ đâu, chỉ đến một nhà, chỉ mới gặp một người, đồng chí thày thuốc trẻ tuổi đã vấp lủng củng bao nhiêu trái ngược với những điều đã học, đã biết. Túp nhà tối bưng mắt giữa sườn núi của người Hà Nhì kia chưa có hai cái cửa thảnh thơi. Sàn giường của bà con người Dao lan tiển thấp dưới mặt đất còn gối đầu lên thành chuồng gà. Cuộc sống lam lũ xưa kia vẫn phảng phất ngay cạnh. Người ta vẫn nhớ năm xưa bệnh dịch tả lan theo nước làm chết gần hết các xóm dọc con suối. Bệnh đậu mùa cũng tàn phá theo dọc suối, không cách nào dập được. Thật đau đớn, nhiều cô gái xinh đẹp cùng lứa tuổi ở làng ngọn suối hay ở làng cửa suối, đều chịu cùng một khuôn mặt rỗ của bệnh đậu mùa.
Nhưng người thày thuốc Thào Khay rất hăng hái, không hề tưởng mình đương qua những khó khăn, mà chỉ biết đấy là công việc, có công việc thì có khó khăn. Ở chỗ nào nếp sống mới của cách mạng chưa đến, những nơi miền xuôi mà mấy năm đi thực tập Thào Khay đã đưa khoa học đến, hay ở quê mình trên núi hôm nay cũng thế, trong đầu Thào Khay luôn luôn sắp đặt ra những việc mới, những việc để giải quyết.
Một chiến dịch phun thuốc trừ muỗi. Một giọt và từng giọt iốt kiên nhẫn sẽ mài tan những cái bướu cổ... Lửa đốt núi tranh đã nổi lên, hổ báo nào cũng phải chạy thôi. Chủ nghĩa xã hội đã nổi lửa rồi, mọi tối tăm lạc hậu sẽ tiêu tan, nhân dân đất nước ta đâu đâu cũng đều mạnh khỏe, tươi vui.
Rồi đây, ai lên vùng cao Phiềng Sa của chủ nghĩa xã hội cũng cần uống thuốc chống sốt rét. Phải rồi, phải uống thuốc phòng chứ. Bởi vì bệnh sốt rét ở Phiềng Sa đã bị diệt từ lâu. Đừng có mà tha bệnh đến địa phương chúng tôi đấy. Đời sống làng xóm bây giờ khác quá. Nhà nhà đều nằm màn, uống nước nóng. Thanh niên đua nhau sắm hộp đựng thuốc lá có lắp gương soi mặt. Ai cũng thích mua một bánh xà phòng thơm Mẫu đơn. Những chiếc kẹp tóc sáng lấp lánh trên đầu. Chiếc bút máy Trường Sơn xinh xinh
màu cánh gián. Cái cặp túi tài liệu, và ôi thôi, cái gì mà chẳng thích mua.
Thào Khay còn trẻ, không biết nhiều về xã hội cũ. Nhưng Thào Khay cũng đã ở với mẹ những ngày bị hắt hủi bơ vơ trong rừng. Cho nên Thào Khay quả quyết chỉ có trong chế độ ta thì tuổi trẻ mới có văn hóa và đời sống. Thào Khay tỉ mỉ, kỹ lưỡng, đinh ninh và tin tưởng phấn đấu.
Họp xóm, Thào Khay nói: "Ai nghiện thuốc phiện, cứ tính mà xem, đã tốn sức khỏe lại mất tiền. Nhà nghèo mà nghiện hút thì không bao giờ có được con trâu cày về nhà mình". Thào Khay lại so sánh: hai người cùng tuổi, ông này không nghiện thì khỏe và làm thừa ăn, ông kia nghiện thì hay ốm và gầy yếu, mỗi năm thiếu ăn bốn tháng. Có phải thế không! Ai còn nghiện hãy vứt cái nghiện xuống suối Nậm Ma thôi.
Họp xong xóm, Thào Khay tìm đến từng nhà người nghiện, vừa tỉ tê khuyên nhủ, vừa bốp chát nói thế.
Có ông người Dao, nghe Thào Khay nói, nghĩ ra, than thở: "Người nghiện chúng tôi như cái xác chết chưa chôn. Đã không muốn làm, lại muốn ăn ngon, bòn của vợ con từng thìa mỡ mà không biết xấu hổ. Chính phủ có chữa được người nghiện, tôi xin đi chữa ngay".
Các bà, các chị nghe Thào Khay nói mỉa móc người nghiện thấm thía đến thế, mừng quá. Cả đời người phụ nữ đã khổ cực vì chồng con nghiện hút, mà bấy lâu chỉ biết sợ, không biết nói.
Bây giờ, mỗi khi Thào Khay đến nhà ai, trẻ con trông thấy "đồng chí y sĩ" thì vội lấy nồi trên chạn bếp xuống đun nước sôi để uống. Ngày ra làm nương, nhiều người đi dép lốp. Những cô gái như Mỵ, như Khúa Ly, theo đời sống mới, ở nhà không buộc vạt áo dài, đi làm về, bỏ xà cạp quấn bắp chân. Các cô đã thôi cạo tóc gáy tóc mai, lại mua xà phòng giặt áo lót trắng. Mỗi sáng, ra suối, tay cầm ống xà phòng Ngọc Lan, thấy ai đi qua, vừa ngập ngừng đánh răng, vừa ngẩng mặt lên, hơi ngượng và mủm mỉm cười.
Thào Khay cẩn thận, trân trọng từng việc, khuyên ta biết chống thói quen, tạo nếp sống tốt đẹp mới. Thào Khay chỉ cho ta chú ý cái cây còn biết có hoa điểm trang, huống chi con người.
Đến mỗi xóm, thấy người ốm, Thào Khay dỗ uống thuốc, cho thuốc. Đã cứu được nhiều người và tiếng tốt của "thày thuốc Chính phủ” vang đi thật xa.
Có người sốt rét ác tính lên cơn lờ đờ mắt, chỉ còn đợi chết. Người nhà đã lấy quần áo mới mặc cho người xấu số. Thào Khay biết tin, không đợi ai đến gọi, chạy đến tiêm thuốc. Vài giờ sau, người hấp hối lại ngồi lên húp cháo được rồi.
Có lần Thào Khay đến một xóm thấy cả xóm đương nổi giận, bắt quì trói, hỏi tội, đánh đuổi vào rừng một người mà ai cũng bảo người ấy có ma. Thào Khay giảng giải cho xóm nghe, lòng thấm thía nhớ lại ngày nào cách mạng đã cứu mẹ con mình ra khỏi rừng sâu.
Tin lành đồn xa, rất xa.
Thào Khay lần lượt đi khắp Phiềng Sa kể chuyện phòng bệnh và chữa bệnh làm cho nhân dân hiểu muốn chữa được bệnh ta phải biết đề phòng bệnh. Tiếng tăm những việc tốt của Thào Khay đương rực rỡ. Như khi mặt trời lên, một thoáng nắng sớm bịn rịn mép núi, phút chốc đã bừng loang khắp mọi nơi. Thào Khay cũng nghĩ rõ ràng công việc mình như vậy. Rồi chủ nghĩa xã hội sẽ bừng loang khắp cả. Công tác phòng bệnh chữa bệnh của y sĩ Thào Khay như nắng sớm đương lên, không một do dự, một mê tín xấu xa nào cản trở được.
Còn mấy ngày xuống nốt dọc suối thì Thào Khay đã qua được đủ khắp các làng ở Phiềng Sa.
Lần ấy, Thào Khay định thẳng tới Ná Đắng rồi lúc quay lên thì ghé từng làng hai bên suối. Thào Khay biết tin con trai trưởng thôn Pàng khỏe đã lâu. Nhưng Thào Khay muốn nhân việc chữa khỏi bệnh em bé, lại đến nói chuyện phòng bệnh chữa bệnh có ví dụ cho cả xóm nghe.
Đường Ná Đắng về theo suối Nậm Ma vạch một nét mờ. Đi cả ngày chỉ nghe một tiếng suối, và trông lại, vẫn còn thấy chỗ khe đá "cổng trời” lúc mới đi.
Bây giờ, cả vùng Phiềng Sa đương bước sâu vào mùa lũ. Ngày đêm, một làn mây nước nặng trĩu, quẩn xám đỉnh núi. Mưa buông không bao giờ dứt hạt. Đất trời ứa nước. Đầu núi, đầu rừng bóng nước mọng sương li ti như mạng nhện chằng chịt qua thung lũng.
Những ngọn suối tràn lên, lao xuống, như một đàn hổ gầm dàn hàng ngang, dựng đứng, chồm ra trắng khắp sườn núi.
Con ngựa Thào Khay cưỡi, khỏe, thật hăng, lúc sớm bước từ trong tầu ra, quẫy đuôi, ỉa một bãi, bốn vó bức bối, muốn nhâng nháo phi ngay. Thế mà bây giờ chỉ mới thò cẳng quạng vào lưng một con lũ ngang cái suối nhỏ, đã lảo đảo, chệnh choạng, líu vó, muốn quăng mình xuống. Đành phải gửi ngựa lại.
Rải rác, xóm Mèo ở Phàng Chải nổi cao giữa rừng sa mu mờ. Trong những xóm xa xôi ấy, người ta nghe lời y sĩ Thào Khay, "người của mình" dặn. Cái giếng thơi đã có thành đá xếp, mạch nước đọng trong vắt dưới chân đá. Người đi nương mỗi ngày nhặt về vài hòn đá đem kê lên, kê mãi quanh vườn. Đá cũ xanh rêu, đá mới nhạt trắng, chẳng bao lâu đã được cái bờ tường đá chắc chắn. Gặp ngày nắng, các chị em đem phơi trên tường đá những chiếc váy và cái áo chàm lốm đốm hoa đỏ.
Rồi xuống đến tầng núi có xóm người Mèo ở lẫn người Hà Nhì thấp thoáng bên một khoảng nương hốc đá. Ngô trong hốc thấp cây, nhưng được cái yếm tím, chắc hạt, lá xanh thậm.
Dưới nền xanh đồi tranh, những ngọn suối lỏa tỏa rơi cắt ngang trời. Cái xóm vừa đi qua đã khuất trong hơi nước.
Một trận mưa đương xuống, lại một trận mưa nữa, một trận mưa nữa vừa vượt đèo sang, ào ào đuổi theo người đi đường.
Những làng Dao chen chúc mái nhà, ẩn kín trong rừng. ở vùng Hồ Thầu, người Dao lan tiển cao lớn, đội mũ chóp tết bằng lông đuôi ngựa đen nhánh. Chiếc áo chàm dài có hai hàng khuy tết mở suốt lồng ngực vạm vỡ. Người đi cày, đi chợ, đi học bổ túc đều bước mạnh, cười nói vang động. Ai bảo người Dao xưa nay chỉ biết sống dè lén một mình. Không đúng, khuôn mặt người Dao và làng xóm Dao bây giờ chẳng còn âm thầm đâu. Mấy chị tóc mượt, đường ngôi rẽ ngang quanh đầu, lưng đeo một thồ vàng sậm những quả dưa bở. Thấy khách lạ tới, các chị nghiêng mặt mỉm cười rồi lại mải miết vội đi.
Làng Dao vẫn náu mình trong cây, nhưng đã hết u ám từ lâu rồi. Những khoảng nương mới đương vỡ từ quanh làng vỡ ra. Cái nương xén tròn khoanh lên tận đỉnh núi để giữ nguồn nước, sắp biến thành ruộng bậc thang định cư, càng xua đuổi những cánh rừng tối tăm xa đi nữa cho làng người Dao được yên một chỗ. Những làng Dao đã bắt đầu phong quang. Người sinh nở luôn và trẻ con nuôi được đã đếm thấy nhiều.
Vừa hé ra đầu rừng một thoáng, làng Dao đã lại lấp vào mưa. Mưa che mù mịt, người đi cúi xuống, thấy những vết chân hổ gọn tròn như chiếc đấu úp ven đường xanh rợn bụi ngải cứu, bước qua rồi mà còn nồng mùi hôi lông hổ và mùi hắc ngải cứu quyện theo.
Dưới xa, trên những bãi phẳng, là xóm người Lừ. Xóm Lừ chen lẫn xóm Thái. Người Lừ tận đâu bên Lào dạt đến đã bao đời nay. Cái xóm Lừ gọn ghẽ ngồi đầu ruộng. Vào mùa thu, cam chín vàng ối trên bờ rào trúc thưa. Tiếng chày giã gạo dưới gầm sàn gõ tanh tanh vào một buổi chiều im. Những cu già ngồi nhích ra trước cửa hứng chút sáng hẩng còn sót lại, để khâu nốt cái túi. Cô gái Lừ đi làm nương về, vừa đi vừa buông tóc ra gội đầu ngoài suối. Cô khoan thai kéo nghiêng cái mép cạp váy đỏ thậm lên đến kín ngực, rồi cúi chào "đồng chí cán bộ" đương đi công tác qua.
Ngày trước, phong kiến dọa: người Dao, người Lừ, người Thái, người Xá, người Mèo và chẳng kể người khác lạ nào, ở cùng nhau chỉ muốn giết nhau. Khi còn bé, vì mình sợ như thế, cho nên đâm ra sợ cả mọi người. Đến khi phải cùng mẹ ở trong rừng, thấy quan thống lý người Mèo mà lại đánh đuổi, giết hại người Mèo thì càng lạ lắm, sợ lắm.
Bây giờ đi một ngày đường, đi bao nhiêu ngày đường, đi khắp nơi đất nước đều chỉ thấy người các dân tộc ở các nơi đến kiếm ăn cùng một dải núi, một con suối, một cánh đồng chân rừng. Không đâu còn gặp thù oán đến phải liều mình giết nhau.
Người già như ông chủ tịch Tỏa đã nói đúng: "Con gái Mèo đen ngày trước mặc áo chàm, chít khăn đen, về sau đổi ra mặc váy áo thêu. Người Mèo xưa kia cùng một dòng họ, sau mới chia ra các họ Mèo đen, Mèo trắng, Mèo hoa... Chỉ vì cha ông ta nghèo khổ, không ở đâu được yên, phải bỏ gốc đi trốn tránh vua quan, mỗi người chạy mỗi nơi, tự tìm cái ăn cái mặc, vì thế, anh em một nhà mà rồi ăn mặc khác nhau, gọi họ khác nhau”.
Người Lừ với người Thái, người Thái đen hay Thái trắng cũng như thế. Vua quan người Thái tranh ăn hết ruộng tốt, làm cho nhân dân Thái phải nghèo, phải bỏ mường đi lang thang. Nhà giàu ở mường giữa đồng, nhà nghèo ở bản ven rừng. Tận trong góc suối Nậm Ma khuất cùng cũng có bóng người Thái lặn lội theo ngọn nước lên phát nương, kiếm cá như người Lừ, chẳng khác người Lừ và người Xá. Người nghèo của dân tộc nào cũng thế, đều cùng nhau ăn làm tự nhiên. Mà bọn quan Thái, quan Mèo, quan Dao, quan nào cũng được Tây nuôi, cũng một bụng như cái ống, chỉ có nghề sai người ta đi chém giết nhau, làm cho họ Mèo thù họ Thái, người Thái khinh người Xá.
Các mạng tới. Vua quan chạy hết. Nhân dân các dân tộc đứng lên rửa cái xấu ấy, mới thấy được quang cảnh hôm nay.
Những xóm Dao, xóm Lừ, xóm Thái yên ấm, mà Thào Khay vừa đi qua, ghé vào một nhà nghỉ ăn cơm trưa. Hôm trước, ở xóm này có nhiều người lên làm kho, đã biết Thào Khay, bây giờ kéo đến thăm hỏi bận rộn.
Rồi Thào Khay xuống đến cửa suối, vùng người Xá ở.
Mưa núi, mưa thung, mưa rừng thúc con suối Nậm Ma chồm lên. Cả một khoảng rừng bờ suối trắng bệch những cây chò vặn mình bỗng ra đứng trơ giữa như con suối đỏ ngầu. Chiếc thuyền độc mộc ngoặt đuôi én buộc dưới gốc chò. Cơn nước xoáy rứt phựt, thuyền lật úp, trôi lềnh nghềnh.
Những con lũ gối lên nhau, miên man gầm thét đuổi theo nhau. Chân lũ này chưa dứt, đỉnh lũ khác đã ầm ầm tràn lên, mấp mé dọa lôi đi cả xóm, cả những cánh rừng gỗ mục.
Từ những hang hốc thẳm cùng nào, đàn rái cá đuôi dài xám đen như đàn chó nước rùng rùng lội ra, tỏa ngược lên hai bên mép lũ. Chốc chốc, chúng ngoác chiếc mõm hếch. Những cơn gào kít kít nổi lên, xé ngang cả tiếng lũ réo. Rồi cả đàn lại vục xuống, chạy thốc vào mò cá giữa những đỉnh lũ lại đương gầm thét đến, át cả tiếng rái cá kêu.
Những ngọn lũ cao vẫn đương dồn nữa xuống, quấn ngang lưng rừng gỗ chò, nghẽn đường khảm qua Nậm Ma.
Thào Khay phải ở lại bờ bên này.
Thào Khay tìm đường vào xóm. Qua quãng rừng nứa ẩm tối, nhờn nhoáng, lung lay những vòi vắt. Đôi ủng cao su lửng xéo lên ngàn vạn con vắt đương múa lên tìm hơi chân người.
Thào Khay đi một quãng, nhìn thấy một túp nhà trơ trọi nép bên tảng đá lớn.
(Nhà ông thày cúng người Xá. Có lần cán bộ Nghĩa đã ngủ đêm tại đây).
Ra chỗ thoáng, trên một vệt cát nhỏ cạnh bụi cây, Thào Khay nhận thấy chân mình đương giẫm trùng lốt chân hổ. Lết chân hổ to, tròn lõm xuống, nước suối mới láng vào, chưa kịp đầy. Con hổ mới chỉ đi trước Thào Khay vài bước. Con hổ lùng mồi ban ngày đương đi vào túp nhà kia.
Thào Khay cầm ngang súng. Bỗng vẳng lại, "kịch", một tiếng đụng chuồng lợn. Hổ sục chuồng lợn!
Thào Khay bắn một phát chỉ thiên rồi chạy bổ vào. Cái khe chuồng lợn góc dưới sàn hoác ra. Con lợn nhỏ lăn rúm vào trong, im như chết. Thì ra, con hổ đương quều mồi, nghe súng, nhảo trốn mất.
Ô! sao hổ vào bắt lợn ban ngày mà trên nhà không tiếng chó rít, tiếng ngựa hí, tiếng hú hay tiếng gõ nồi, gõ chậu đuổi hổ. Cũng chẳng thấy ai ra. Có lẽ con hổ săn mồi đã rình được lúc người đi vắng hết.
Nhưng hổ vẫn không may. Còn có Thào Khay vừa đến.
Thào Khay trèo lên thang. Nghe có tiếng hừ hừ trong nhà hắt ra. Trong nhà vẫn có người. Rồi trông thấy một người ốm nằm áp phên vách, đương chập chờn ngóc đầu, con mắt lộn trắng đến sắp lồi ra. Thào Khay nhận ngay được người ốm là ông lão thày cúng dạo nọ.
Cái ông lão thày cúng gặp ở nhà Pàng hôm ấy, xăm xăm, giận dữ đội trời mưa bỏ về. Bây giờ ông lão thày cúng ấy ốm nằm co quắp, rúm ró, xám lạnh như tro bếp. Hai ống tay cong queo như thể cành củi. Trong vắng lặng chỉ còn vật vờ một tiếng khò khè rên.
Thào Khay ngồi ngay xuống, nhấc tay ông lão lên lấy mạch. Cùng lúc, Thào Khay nghiêng cái túi trên vai xuống, bỏ ống nghe ra. Ông lão thày cúng người Xá vẫn bằn bặt, li bì, chẳng biết gì cả. Y sĩ Thào Khay bắt đầu lúi húi làm việc chuyên môn.
Ông cụ bị sốt rét, kiệt sức. Tiêm xong, ông cụ vẫn mê mệt, chưa tỉnh.
Thào Khay ngủ lại đấy. Thào Khay ra rừng, chặt cành cây vào rấp chuồng lợn. Rồi lên nương sau nhà bẻ bắp. Trở lên sàn, Thào Khay trải bạt, đốt lửa nướng ngô ăn.
Trong đêm mưa mù mịt, những con lũ đuổi nhau gào như điên. Chốc chốc lại nghe xé nước rít lên tiếng rái cá đói đương lao sóng đi kiếm mồi.
Thào Khay tìm mỡ đốt đèn. Ông cụ đã tỉnh. Không phải ốm nặng, ông cụ chỉ lả vì mệt quá. Đã mấy hôm không dậy tìm cái ăn được.
Bây giờ ông cụ mở mắt. Hai con mắt nhạt nhạt, khờ khờ, như mắt con trẻ.
Mưa ồn ào bóng tối.
Ông già nhớ lại, mệt nhọc:
- Con hổ đuôi trắng về ăn lợn à?
- Không.
- Con hổ đuôi trắng là bố mẹ ta. Bố mẹ ta về bắt lợn ăn, đừng đuổi, đứng bắn con hổ đuôi trắng…
- Ông hãy nằm nghỉ đừng nói.
Ông già quay mặt đi, thì thào:
- Nước.
Thào Khay lấy nước nóng, pha đường, rồi nâng ông cụ dậy. Ông cụ lại hỏi:
- Có phải... là người của vua về cho tôi uống nước cứu tôi đây không?
Thào Khay nói to:
- Không, cán bộ Chính phủ đấy. Ông nằm yên đi...
Ông cụ uống cạn bát nước đường, rồi cứ chằm chằm mắt nhìn Thào Khay, như lạ lùng lắm. Mãi mới nằm xuống, nằm yên.
Mưa chừng như đã ngớt. Những con lũ đuổi nhau quanh nhà vào trong đêm khuya càng rống lên. ông cụ im rồi lại nói, mắt lúc nhắm lúc mở, miệng lẩm bẩm, lảm nhảm. Ông cụ ấy nói một mình hay nói với Thào Khay? Chỉ có lửa còn rực đỏ. Thỉnh thoảng, Thào Khay đáp lại, ông cụ nghe không? Không biết. Người ốm đương nói với người hay nói với ma - ông cụ thì ngỡ đây toàn là những ma về ngồi quanh mình.
Bao nhiêu kiếp người đã chết rồi đương về cùng nhau ngồi kể lể, than thở:
- Khốn khổ, người Thái ở thấp được khôn ngoan, người Mèo tài giỏi ở cao, còn người Xá thì một đời chỉ biết nhắm mắt làm con trâu. Phải đến khi vua ra thì người Xá mới có được đất nước.
Thào Khay nói:
- Không, không bao giờ còn có thằng vua ra. Bây giờ người Xá người Mèo đã có Chính phủ. Đế quốc Mỹ muốn đem vua đem quan nào về, nhân dân ta sẽ đánh đuổi hết.
Ông cụ vẫn nói:
- Thế thì mày chưa biết. Người của vua đã về dặn đầy đủ rồi. Khi vua ra thì trời đất tối bảy ngày bảy đêm. Nhà nào cũng phải giữ đủ củi, đủ nến, đủ sáp ong thắp lúc ấy. Ta chưa giữ được gì. Chết thôi. Lại phải đóng một cái thuyền bằng bàn tay. Vua ra thì nước sẽ dâng lên ngập hết các núi, dìm chết hết những ai không kiêng không cấm đủ. Người có phúc bấy giờ mới được sống theo vua lên ngồi thuyền. Nhà nào cũng lại phải dành mười hai bát gạo để nấu cháo cho vua ăn. Trời ơi, ta chưa tìm đâu được một hạt gạo. Người nào có cháo mời vua ăn trước thì càng được phúc to. Già thì trẻ lại, con gái đẹp ra, trai bé đã có gió thổi lớn lên. Người có phúc mà gặp việc khó, chỉ gọi một tiếng thì có người trời xuống giúp cho giải việc khó ngay.
Thào Khay hỏi:
- Ông ơi, những câu lạ lùng này ở đâu ra?
- Mỗi người trữ sẵn một đồng hào trắng. Ai có mà trình đồng hào ra thì được vua nhận là người của vua.
- Không, không phải.
- Mày đổ nước mía cho tao sống, mày cũng là người trời sai xuống, mày là người nhiều phúc, tao bảo thật mày. Ai hỏi, chớ nói. Cán bộ, bộ đội hỏi, không được nói. Nhớ đây này! Thấy chuột ra ăn thóc thì đừng bắn, đừng bẫy. Con chuột là quân vua. Chuột mà ăn được nhiều thóc, nhiều ngô thì vua càng chóng ra. Không được giết con lợn rừng ra phá nương. Con gấu ăn ngô cũng không được đuổi. Chẳng phải nó ăn hại ngô đâu. Nó chỉ cất ngô lúa cho ta. Đến ngày vua ra, nó lại biết đi nâng bố mẹ ta dậy, mời bố mẹ ta ăn. Đàn bà phải tập hút thuốc phiện để mời bố mẹ. Bố mẹ được hút thuốc phiện thì không bao giờ bố mẹ chết lại nữa. Phải mổ thịt hết trâu trắng, lợn trắng, gà trắng. Những con vật ấy làm bố mẹ ta quáng mắt, về đến nơi rồi mà không nhìn thấy lối vào cửa. Hãy thịt hết dê đi, con dê thối lắm, có dê trong chuồng, bố mẹ không dám vào nhà. Nhưng đừng thịt chó. Chỉ có con chó biết nói chuyện với người chết. Con chó giúp ta biết mặt các cụ tổ tiên về.
- Ai mà nói nhảm nhiều thế, ông già ơi?
- Người của vua.
- Thế là nó bảo mình đem chân tay mình ra chặt. Đến lúc hết thóc, hết trâu, không còn gì để sản xuất, là hết cả, ông già ạ.
Ông già vẫn nói:
- Người của vua đã bảo: đừng phải lo. Một cái cỏ tranh sẽ mọc ra ba thứ ăn được: gốc ra đậu, giữa ra ngô, ngọn là thóc. ăn hết lại mọc ra. Một cái cỏ tranh kia cũng thừa sức nuôi một người suốt đời.
Thào Khay nhịn cười, làm vẻ ngạc nhiên:
- Tôi chưa nghe ai nói rồ đến thế bao giờ đấy. Thế còn gì nữa?
- Còn nữa. Cứ mài sẵn dao sắc sẽ có nương. Cứ làm máng ăn nhiều thì có lợn tự nhiên chạy đến cho ta nuôi. Vua ta sẽ cưỡi tàu bay mười hai đầu về. Nồi, chảo, quần áo tốt, rồi vua mang về cho ta. Mày biết chưa, sắp có nhiều người Xá, người Dao, người Mèo bên Lào đưa vua về, tháng tám này thì về tới. Đừng ai đi dân công, ai làm việc với người Kinh phải gọi về, không về kịp thì bố mẹ nó sống lại cũng chết mất.
Những câu ghê rợn cơ hồ làm rùng mình đêm khuya trong tiếng lũ ngoài kia mỗi lúc một vật vã hơn.
Thào Khay cứ kiên nhẫn nghe cho đến chừng ông cụ mệt quá, không đủ hơi lảm nhảm nói nữa. Thào Khay không dọa, không cười, cũng không át lời. Thào Khay chăm chú suy nghĩ, ngờ ngợ, đoán xa xôi có lẽ đây không phải chuyện ma của người già. Nó là quân mê tín, quân phá hoại, quân âm mưu muốn rắc rối gì. Có thể đây là một cách phao đồn tin nhảm của bọn phản động. Tội nghiệp ông lão! Nghĩ thế, Thào Khay hỏi ông già:
- Kiêng cúng đến kỹ thế mà vua vẫn không ra thì sao, cụ già ơi?
- Tại ta cúng chưa hết lòng cho nên vua chưa ra được.
- Lại cúng nữa?
- Phải rồi, đếm xem còn lại bao nhiêu gà lợn, đem ra cúng nữa. Không để nhạt cúng được. Có khi cúng nhiều rồi mà vua cũng chẳng ra, phải sang Lào đón vua. Ai đi sang Lào đón vua mà gặp bộ đội gác sông Mã thì nhớ tránh vào rừng đi đường khác. Người của vua đã dặn thế rồi.
Đúng là bọn phản động đã xui ra những chuyện này. Thào Khay nói:
- Vua cũng phải sợ bộ đội?
- Qua sông Mã, ta cứ đi mãi cho đến tận hôm nào thấy được hai người Xá già mặc áo trắng đứng múa giữa đường thì mới nghỉ lại. Đấy là vua cho đầy tớ ra đón ta. Đất của vua ở đấy rồi.
Thào Khay nói, dò ý:
- Vua cũng sợ Chính phủ, không dám về đây, ông già nhỉ?
Ông già im. Rồi Thào Khay cười to, át cả những tiếng lầm rầm như nói như chửi của ông già, không biết.
Nhưng chỉ biết chắc là ông già nọ đương âm thầm vướng víu những chuyện thần bí khủng khiếp, miệng nói tai nghe, nói đến đâu sợ đến đấy, bây giờ mệt lử, nằm im rồi thiếp đi. Thào Khay đã toan hỏi nữa, dồn cho ông cụ tức uất lên mới thôi. Sau nhớ ra ông cụ đương ốm và nghĩ đến bọn phản động thì lại hối hận và lặng im. Được, để đến mai sáng, ông lão tỉnh hơn, mình sẽ dò hỏi thêm xem có phải chuyện đáng ngờ không và bấy giờ hãy giảng giải cho ông lão thày cúng mê muội này.
Thào Khay chẳng tin những cái vu vơ nhảm nhí thường bám đầy rẫy như con vắt, con ốc sên trong trí nhớ người già. Thào Khay đã biết - đã trải thất bại cũng như có được kết quả, khi đem công tác khoa học đương đầu với bạt ngàn u tối che khuất sự hiểu biết của con người. Chắc chắn rồi cái trạm xá có ba cán bộ phòng bệnh và trị bệnh của Thào Khay còn lắm vất vả và khó nhọc.
Vừa miên man nghĩ, Thào Khay vừa cời lửa, đôi lúc chợp ngủ.
Trời dần dần rạng sáng, rồi tạnh hẳn. Một buổi sáng tạnh ráo hiếm có giữa mùa lũ. Những mỏm núi lổm ngổm quanh nhà cắt lên gọn ghẽ, sẫm xanh. Từ trong khe, sương mù lan xuống trắng đầu thung.
Ông cụ đã tỉnh. Cơn lũ dữ dội ban đêm đã biến mất từ lúc nào. Cũng như những điều u ám canh khuya trong lòng người đến rạng sáng thì tan đi, bây giờ trên mặt suối chỉ còn tiếng nước réo xô vào đá, đều đều. Những cơn nghĩ tối tăm cũng như những cơn lũ đã hoảng hốt chạy xa. Từng làn mây bông cất lên, chờn vờn với nắng. Con khướu mun nỉ non giục giã, làm nhẹ lòng người.
Nét mặt ông cụ, đã thấy quang đãng. Ông cụ đương tẩn mẩn nghĩ lại hôm qua, đêm qua. Bây giờ trước mắt Thào Khay chỉ còn có một cụ già hiền hậu, thật hiền hậu và mệt mỏi, đương chăm chú nhìn người cán bộ lúi húi gấp bạt, sắp ba lô. Cơn sốt lui rồi và sức mạnh của thuốc đã khiến ông cụ khỏe khắn, ngồi dậy được.
Thào Khay lại pha nước đường. Miếng nước ngọt quý giá, lạ miệng, làm ông già nhớ lại bát nước tỉnh người đêm trước. Còn chuyện vua quan ma quỉ mê mẩn càng mờ tan vào khoảng khắc buổi sáng ngắn ngủi. Bây giờ, trước mặt ông già cũng vậy, chỉ còn thấy anh cán bộ đến hôm qua, anh đã đuổi con hổ, cứu được con lợn, anh lại tiêm thuốc, cho nước đường khiến mình khỏi chết.
Thào Khay nói:
- À cụ ngồi lên, cụ khỏe rồi, cụ ngồi lên.
Ông cụ sụp xuống, lạy:
- Con ma giỏi rồi.
- Không, đấy là thuốc của Chính phủ.
Ông già lẩm nhẩm:
- Chính phủ...
Không, không, trí nhớ ông già không phải bây giờ chỉ còn lẫn lộn những ma những vua đâu.
Trước kia, cụ biết cán bộ, cụ đã nuôi cách mạng, cụ đã chở đò cho cách mạng qua suối to. Bài hát than cái đời làm người Puộc cay đắng, phẫn uất, cũng là đời mình từ thuở trẻ, cụ đã tự nhiên thuộc, đến bây giờ vẫn nhớ thấm thía hơn bao nhiêu những câu khấn và bài cúng ê a đọc đi đọc lại mãi. Cho nên, lại tự nhiên, trong một buổi sáng vừa tan cơn mê, ông cụ già đã trông ngay thấy người cán bộ và ông già nghĩ rành rọt được rằng nhờ cán bộ Chính phủ về, nếu không thì ta chết đêm qua rồi. Lại nhớ rộng ra mình đã nhìn thấy cán bộ này đến chữa thuốc cho con trưởng thôn Pàng. Đấy là những cái trước mắt khiến ông già bối rối nửa phần tin nửa phần ngờ. Nhưng đến khi thấy quả là đương rõ ràng một buổi sáng ở nhà mình, không có vua, không có người của vua, chỉ còn mình với người cứu mình, thì lòng tin, một lòng tin thầm kín mà sâu sắc lại dâng lên.
Ông già hỏi:
- Cán bộ ới! Đêm qua tôi đã nói những gì rồi?
Thào Khay cười:
- Cụ nói nhiều lắm.
Ông già lờ đờ mắt:
- Đồng chí cán bộ ạ, thật tôi đã có lần gặp vua.
Người Xá và người Dao vốn tính kiên nhẫn và âm thầm, thường hay bí mật chuyện nhà, chuyện dòng họ và tâm sự riêng mình. Ngày xưa người Dao học chữ Hán chỉ học truyền khẩu, thế mà ngồi bên bếp lửa chịu khó học cho đến kỳ đọc được sách. Trong kháng chiến, một người ở khu du kích, một chiến sĩ, một cán bộ, hễ người ấy là người Dao hay người Xá, nếu sa vào tay giặc, sẽ không ai lo điều gì người ấy làm lộ cả. Chẳng bao giờ người Xá hay người Dao nói, dù kẻ thù có kề lưỡi lê ngang cổ. Trăm người như hệt, đều một lòng quả cảm như thế. Nhưng một khi tin ai thật bụng thì lại chẳng còn biết giấu giếm. Lúc này, ông già tin người cứu mình sống lại đương nói cho mình nghe những điều phải mà chưa bao giờ ông được nghe. Trước đã có lần gặp chủ tịch Tỏa, gặp chủ tịch Tỏa nhiều lần, lại có khi cán bộ Nghĩa đến nhà, nhưng ông lão đều nghi ngại, chưa lần nào dám nói.
Thế là ông già thổ lộ hết với Thào Khay. Lần đầu tiên, một ông già khổ cực người Xá nói ngọn nguồn đời mình với một người Mèo trẻ tuổi, không hề nghĩ đến tuổi khác nhau và dòng họ khác nhau. Ông kể Thào Khay nghe cuộc đời ông mấy mươi năm trời đằng đẵng đeo trên vai cái chân chài của cha ông để lại, chạy cùng các suối. Già rồi mà vẫn chỉ một thân một mình lặn ngụp trong dòng nước để ném cuộn sắt mòn chân lưới mà bắt cá. Rồi những khi gặp cán bộ, chở đò, đẽo bẹ báng cùng chịu khổ với cách mạng. Cả làng Huổi Ca bị Tây giết, ông già vẫn một lòng, không hề rung chuyển. Thế mà rồi đến khi phải Tây bắt, được thấy ông vua ngồi trong đồn Tây, ông vua thật, từ đấy hằng đêm suy nghĩ ngược xuôi, dần dần xa lánh cách mạng và đời người càng u ám, càng phiêu bạt cho đến đây.
Ông già thở dài:
- Tôi bây giờ lú lẫn cả rồi. Bấy lâu tôi chỉ muốn hỏi ai xem có thật thế, có thật đời tôi đã gặp cán bộ, đời tôi đã gặp vua đấy không. Thật ư? Hay không phải? Hay tôi nằm mê? Tôi không biết hỏi ai. Tôi đã cúng nhiều thế mà sao tôi không thấy vua ra cứu cho tôi khỏi khổ, sao vua chưa cho bố mẹ tôi được sống lại. Tôi không biết hỏi ai.
Thào Khay nói:
- Ông ơi, ông đã tin tôi hỏi tôi thì tôi nói nhé. Nghe ông kể tôi biết thằng vua ở đồn Tây là thằng vua giả rồi. Tây cho nó mặc áo vàng làm vua, lại quên không cho nó mặc quần tốt và đi giầy. Cho nên ông cúi xuống mới trông thấy cả cái bàn chân và cái ống quần rách của nó. Thế mà ông chưa nghĩ ra. Nó là đứa thông ngôn bôi mặt khác đấy. Có gì đâu.
Ông cụ người Xá ngớ ra một lúc, lẩm nhẩm nói, nghĩ lại. Rồi chậm rãi hỏi:
- Cán bộ có muốn nghe tôi nói nữa không?
- Thế rồi sao?
- Rồi về sau tôi lại gặp người của vua.
- Gặp thằng vua ở trong đồn Tây à?
- Không, tôi mới gặp đây, tôi mới chỉ được gặp người của vua thôi.
- Nó nói gì?
- Những chuyện tối hôm qua tôi nói đấy.
Thào Khay phấp phỏng, hồi hộp. Chuyện lạ mình đoán dường như đương hé ra.
- Cán bộ có nghe tôi nói đấy không?
- Có, ông già ạ. Tôi nghe ông nói thì tôi hiểu có đứa phản động đã xui nhân dân trở lại cảnh nghiện hút, bỏ sản xuất, bỏ của cải, giết hết gia súc làm cho xóm làng đến kiệt cùng đói khát, bấy giờ nó muốn dắt đi đâu cũng phải đi với nó. Thế đấy.
- Không, không phải người phản động đâu. Người của vua hôm trước sai về cũng là người Mèo như cán bộ.
Thào Khay giật mình. Chợt hình dung ra một điều rờn rợn, Thào Khay hỏi đột ngột:
- Có phải nó cưỡi con ngựa nhỏ đầu đốm trắng?
- Không.
- Nó ở phía nào đến?
- Từ rừng kia tới.
- Mặt nó có cái sẹo gấu vồ dài thế này phải không?
Ông già lại ngẫm nghĩ, rồi thong thả nói:
- Có súng, có súng như cán bộ. Tôi chưa dám nhìn mặt người của vua lần nào.
Thào Khay nghiêm nghị nói:
- Ông già ơi! Năm trước cũng vậy, năm nay cũng vậy, vẫn có thằng đế quốc về lừa ông, lừa người Xá và người Mèo chúng ta. Chúng ta không bao giờ nghe nó.
Ngoài suối, những con lũ đêm qua lên xiến ngang rừng giờ đã thấp xuống, nhả ra một dãy gốc chò trắng nhợt rễ. Lúc này có thể bọc quần áo, túi thuốc, súng vào ni lông rồi bơi sang bờ kia. Trời nặng mây nước trên đầu vẫn mòng mọng muốn ập xuống. Phải nhân lúc tạnh và lũ đương xuống phút chốc mà tranh thủ đi.
Thào Khay đưa ông cụ một gói đường, mấy viên ký ninh vàng và một chục viên thuốc bổ có vị thơm béo cài cài.
- Hôm nào tôi về chắc ông đã khỏe rồi.
Ông lão tần ngần.
- Cán bộ biết hết chuyện của tôi, tôi sợ lắm.
Thào Khay nắm tay ông già, dằn mạnh từng tiếng:
- Ông ơi! Không, không có ma, không có vua. Chính phủ ta là to nhất, không ai hơn được. Đứa nào nói khác, thế là lòng nó khác ta, ta không được nghe nó. Ông già nên vào xóm ở với trưởng thôn Pàng là người tốt của ta. Đừng ở một mình đây.
- Ừ.
Ông già chỉ mấp máy môi đáp lại. Ông già đương chăm chú nhìn Thào Khay. Tin yêu và mến phục đương đặt cả vào người cán bộ. Nhưng, làm sao, ông già vẫn băn khoăn. ông như người bấy mới tập đứng.
Còn Thào Khay thì lòng đầy ý nghĩ tốt đẹp và thiết tha. Một ông cụ thày cúng mê tín đã hiểu ra lẽ phải. Đã có một lúc ông già xa rời cách mạng, nay vừa nghe ta, trở lại. Người Xá cũng như người Mèo, trước sau, chỉ có cách mạng mới cứu được. Việc ấy rất đúng với tấm lòng đối với cách mạng, mà người Xá thật xứng đáng. Khi còn nhỏ, đi liên lạc cho du kích và bộ đội, đã nhiều lần Thào Khay được anh em Xá khảm đò cho qua suối lớn, gặp Tây phục kích thì anh em Xá dẫn đi đường tắt. Cả làng Huổi Ca hy sinh vì cách mạng... Những gương trung thực, sáng trong của dân tộc Xá.
Thào Khay nắm chặt tay cụ già một lần nữa, rồi mới đi.