- XV -
Nhưng, dù sao, lão cố đạo biệt kích cũng làm cho Thào Nhìa hăng lên. Thào Nhìa lại mưu tính đưa mẹ và em đi. Một hôm trước, Thào Nhìa đem ngựa đi lấy củi về, nói với mẹ:
- Mẹ ơi! Bây giờ đương còn thong thả việc nương, mẹ cùng em Mỵ đi với tôi.
- Đi đâu?
- Đi tìm chơi với anh em ít ngày.
- Ông chủ tịch có cho mày đi không?
- Đi xin ăn ít ngày rồi lại về mà!
- Mày hỏi thằng Khay chưa?
Thào Nhìa trợn mắt:
- Nó là thằng dưới tôi, tôi không phải hỏi nó.
Bà Giàng Súa uể oải, buông thõng một câu:
- Không được đâu.
- Tôi hết hạn tù rồi, bây giờ tôi cũng như mọi người ta.
Bà Giàng Súa kên lên:
- Không phải.
- Mẹ bắt tôi phải đi tù nữa à?
- Bao giờ mày được làm cán bộ như thằng Khay thì mày mới bằng người ta được.
Thào Nhìa cau mặt:
- Thôi thôi…
Thào Nhìa vung tay, toan sừng sộ. Nhưng, nhớ ra, Thào Nhìa sững đờ người. Rồi khe khẽ trở lại ngọt ngào:
- Mẹ ơi, ở các núi bên kia bây giờ có nhiều nơi giàu có lắm mẹ ạ. Em Mỵ đi thì nó thích đấy.
Mẹ sửng sốt nghĩ: "Nó vẫn còn khoe thằng đế quốc giàu ư? Thế này thì ta mất người rồi". Bà Giàng Súa đau đớn lắm, nhưng ý thức tốt đẹp đối với chế độ đã khiến bà nền lòng, cố làm vẻ bình tĩnh, như lạ lùng, tò mò rồi hỏi:
- Thằng Khay không đi với mày được à?
Thấy mẹ chú ý hỏi thế, Thào Nhìa cười vui hẳn lên, nói khéo:
- Nó còn bận việc Chính phủ, không đi được. Mẹ đừng nói gì với nó đấy, mẹ nhớ chưa?
- Mày đi thật à?
- Thật.
- Đi đâu?
- Mẹ với em cùng đi.
- Đi đâu?
- Sang Lào.
Không giữ nổi điềm nhiên nữa, bà mẹ giựt giọng:
- Không!
Một tiếng “không” phựt ra như đứt tung cái lạt buộc. Sau đấy, cả hai người cùng bàng hoàng.
Bà Giàng Súa đứng dậy, bước ra ngoài. Còn Thào Nhìa thì cứ ngẩn ngơ thế, ngồi lùi vào góc cột, không nhúc nhích, im như cái hông nồi ngô đen sì dựng bên cạnh. Thào Nhìa tưởng không bao giờ còn đứng lên được nữa. Lúc ấy là lúc thằng biệt kích lại quỵ xuống, tăm tối mặt mũi. Và nỗi thương tâm của lòng người con lại đương giày vò nó. Khác nào có hai dòng nước chảy ra trước mắt Thào Nhìa - một dòng suối bình yên và một con lũ hung hăng.
Một dòng suối hiền lành man mác những ngọn nguồn gốc rễ cha mẹ anh em và họ hàng từ khi còn bé dai. Không, dù chìm nổi bấy nhiêu năm, trong thẳm cùng tấm lòng, Thào Nhìa vẫn nhớ núi, vẫn nhớ người Mèo kiên nhẫn đeo cái chảo trên lưng, suốt đời đi tìm đất sống. Không bao giờ quên, Thào Nhìa không bao giờ quên những thiết tha, những âu yếm, những đau đớn mình đã trải qua thuở bé. Từ khi trở về gặp lại mẹ, lại càng nung nấu.
Nhưng một con lũ khác cuồng lên, cứ mấp mé rình cuốn theo hết mọi niềm yêu thương của mình, cuốn cả Thào Nhìa ngồi đấy, nhợt nhạt lịm như cái xác chết đuối. Mỗi lúc những việc đen tối phải làm đã sắp nhạt thì cơn đói thuốc phiện lại tới. Thế là Thào Nhìa lại lần vào rừng, lấy thuốc cai. Lúc ấy, những ngày qua cứ tự nhiên trở về. Lại mắc hai cái tai điện đài vào, như một thói quen không thể quên. Những cái ấy mỗi lần lại thúc thằng biệt kích chồm dậy. Nhưng đến khi đụng vào sự thực hàng ngày trong làng, trong nhà thì nó lại phân vân, lại loạng choạng.
Thào Khay có phương pháp công tác tốt, thường tiếp xúc sâu sắc với quần chúng. Thế mà đối với anh em lại vụng. Không bao giờ Thào Khay tìm hiểu hơn. Có phải vì mười mấy năm xa cách, đã quên hẳn mặt nhau rồi? Đến khi người anh em trở về, nó lại hiện ra là một thằng biệt kích của đế quốc Mỹ, chỉ mới nhìn đã không chịu nổi. Nhiều lúc Thào Khay đã không giữ được bình tĩnh. Thào Khay chẳng nói hết mấy câu tử tế với Thào Nhìa. Thào Khay chỉ nghĩ mình có trách nhiệm, có công tác: coi chừng nó. Vì vậy, những lúc bị day dứt, đau đớn quá, Thào Nhìa cũng không biết bấu víu vào đâu.
Còn bà Giàng Súa, bà hỏi nó quanh co thế, nhưng lòng người mẹ đã hiểu là nó đương rắp tâm đi, muốn quyến cả mẹ và em đi.
Mấy lâu nay, nó càng tâm ngẩm và lạ lờ đối với xung quanh. Biết như thế, nhưng đến khi rõ hẳn nó muốn đưa mẹ sang Lào thì bà đau đớn quá. Nó thương mẹ, nó thương em ư? Con nai trong rừng còn biết xót nhau. Ở nhà này, chỉ còn có nó đáng thương, chỉ còn nó chưa yên mà thôi. Bà Giàng Súa thương con, nhưng bà Giàng Súa chẳng thể lung lay ngả nào.
Có nên nói chuyện bí mật này với Thào Khay?
Bà Giàng Súa nghĩ đi nghĩ lại. Nếu Thào Khay biết chuyện thì Thào Nhìa sẽ không yên, còn khốn khổ nữa. Nó đến phải từ, phải giết. Bà Giàng Súa lưỡng lự. Rồi bà không nói với Thào Khay.
Nhiều lần, Thào Khay về, có lúc mẹ con ngồi với nhau, bà muốn nói, nhưng rồi bà Giàng Súa vẫn im.
Thào Khay không hay biết gì hết.
Nhưng từ hôm ở Ná Đắng về, mỗi khi Thào Khay nhớ lại lời ông già thày cúng bảo "người của vua cũng là người Mèo như cán bộ", thì tự nhiên, Thào Khay lại cứ giật mình nghĩ đến Thào Nhìa.
Không nhẽ nó là người của thằng phản động vua thật. Không nhẽ thế. Càng nghĩ càng thấy nó chẳng được điều gì giống ta, nó không phải anh em ta. Nó cũng nuôi chỏm tóc dài như con trai Mèo thời trước. Nhưng nó không còn cầm nổi cái sáo - nghe mẹ nói, ngày xưa ở trong rừng, Thào Nhìa lớn nhất, thổi sáo hay đến nỗi con gái ra nương cuối núi bên kia cũng rủ nhau sang rình nghe sáo của con trai nhà có ma chài. Bây giờ chẳng ai thiết xem mặt nó, chẳng ai nô nức tò mò về nó nữa. Còn nó, dần dần, nó như người lạ. Bụng nó, con mắt nó bỏ quên nơi khác. Miệng nó bảo: từ nay không theo đế quốc Mỹ làm biệt kích. Nó lại bảo: vì nhớ nhà mới về hàng Chính phủ. Nhưng sao nó lầm lì khiến không ai hiểu được. Nó không phải như người trở về quê.
Cả mỗi khi Thào Nhìa đi rừng lấy củi, Thào Khay cũng nghi hoặc. Sao nó chỉ chăm có một việc lấy củi? Nó buồn chán không muốn ở nhà, nó muốn kiếm cớ ra rừng tìm gái rủ đi chơi ư? Xem vẻ cũng không phải thế.
Sáng ấy, Thào Nhìa dắt ngựa, đeo búa lên địu, lại đi hái củi.
Lát sau, Thào Khay theo luôn.
Rừng xanh ngắt. Dõi hết tầm mắt nhìn rõ cánh từng chiếc chim bay. Nhưng dù trời đục, Thào Khay cũng không lo. Khắp Phiềng Sa, cả những nơi hoang vắng không ai tới, trước kia, Thào Khay đều đã đi cùng kiệt khắp chỗ rồi.
Thào Nhìa đương len đi dưới rừng.
Trên núi, Thào Khay men theo.
Một lát sau, tiếng búa vang động lên. Nhiều cây đã ngả từ những hôm trước, Thào Nhìa đến chỉ việc đẽo bớt cành, bó lại, dựng đấy, đợi xếp lên ngựa. Thào Nhìa thoăn thoắt làm nhanh, loáng đã xong.
Thào Khay nghĩ bụng: "Chắc nó chỉ lấy củi thôi”. Thào Khay đứng dậy, ngó xuống một lần nữa, rồi quay về.
Bỗng thấy Thào Nhìa cầm búa, nhìn trước nhìn sau, rồi thoáng một cái, mất hút vào vách đá. Thào Khay đã biết sau lũng, chỗ ấy, phía dưới chắn ngang một khoảng rừng rậm. Nó đi đâu? Thào Khay chợt bối rối, nhưng rồi tĩnh trí ngay: "A! Ngựa nó còn để đây". Ta cứ đợi. Thế nào nó cũng quay lại. Đấy chẳng có lối đi đâu.
Rừng sâu thẳm, lặng câm.
Chăm chú nhìn kỹ, thấy lả tả bóng chim bay lên. Như thế, biết phía ấy động rừng, khiến chim giật mình, có người đương len lỏi vào nơi đó.
Một lúc lâu, quả nhiên Thào Nhìa trở lại thật. Bóng nó cắm cúi, đụng đậy, lúc khuất lúc rõ. Thào Nhìa cài búa vào khiêng củi, nghiêng người, vác củi lên, buộc dọc cái nạng thồ ngựa, mỗi bên một bó nặng. Con ngựa lùn tịt, xa trông chỉ còn thấy nhấp nhô cái tai.
Thào Nhìa đã ra khỏi quãng rừng.
Thào Khay nhấc súng trên vai, trèo xuống,
Rừng ẩm ướt, tối quáng mắt. Thào Khay vẫn chú ý nhớ phía mấy con chim sợ người ban nãy bay lên và đi theo hướng ấy. Đứng lại, định thần, có lúc Thào Khay nhận ra lốt chân người còn hằn rợn. Thào Khay lại lần theo những ngọn cỏ vừa vướng, một bàn chân nào mới đưa lướt đi. Lại nhận ra có lẽ nhiều người đã vào đây, hoặc một người, mỗi lần vạch một lối đi khác. Có chỗ nhầu nát, có chỗ cỏ đổ loạn loạn, nghiêng nghiêng. Ai đã qua bên này rồi lại vuốt ngọn cỏ ngả khác. Ở cơ quan bí mật trong rừng sâu khi kháng chiến, ta vẫn làm thế. Rõ ràng có tổ chức phản động rồi. Rừng sâu không gió, bây giờ theo hướng cỏ nào?
Thào Khay cúi xuống tìm lốt cỏ rạt mới nhất, rồi lại đi. Càng sâu càng nhớp nháp tối. ánh sáng lân nhấp nháy đom đóm trên những cành lá mục ngập ngang mắt cá. Dám chắc người Dao hay đi tìm nấm hương rừng sâu cũng chưa hề len chân tới đây.
Thình lình, Thào Khay đến trước một vách rêu đen cao vượt đầu người.
Phía trên, chìa ra một mái hiên đá. Thào Khay bật lửa soi các hốc. Rồi thò đầu súng, khua vào từng hũm. Tiếng lạch cạch khô khan. Tiếng đá. Và tiếng bục bục như đụng vào củi mục.
Thào Khay thò tay, lôi ra một hòm gỗ sơn đen bằng cái tráp của thằng thống lý đựng bàn đèn ngày trước. Rồi đến mấy cái hòm con con nữa, và một khẩu súng lục lạ kiểu - loại giảm thanh, nhỏ nhẹ bằng bàn tay, bọc trong bao ni lông xanh lá cây.
Thào Khay không lạ những cái hòm to hòm nhỏ này. Đi các chiến dịch Tây Bắc, ở trên mặt trận Thượng Lào và mặt trận Điện Biên Phủ, Thào Khay đã biết đấy là điện đài có các hòm đựng từng bộ phận. Trong chiến dịch, ở ban chỉ huy trung đoàn, bộ đôi ngồi duỗi thẳng hai chân, quay ò ò cả ngày.
Thào Khay ngẩng lên. Lúc ấy, nghe đằng kia, phía dưới vách đá, thật xa, vẳng lại tiếng con bò nhà ai nhốt chuồng đương rống gọi người từng hồi dài. Lại nghe như cả tiếng cuốc hốc tra ngô va vào đá, tiếng cuốc vun ngô xào xạo nạo cỏ tiếng hát, tiếng sáo ai thẩn thơ đầu nương cuối nương. Nhưng tiếng thân thuộc của làng xóm quê hương, của cuộc sống con người và của chủ nghĩa xã hội mà Thào Khay càng thấy vô cùng mến yêu trong giây phút này. Những tiếng xôn xao tha thiết. Thào Khay lại cúi xuống. Bây giờ còn những gì đen tối nữa trong hang hốc đây?
Một con suối chảy nhẹ như khẽ cựa mình, nghe đôi hồi xa lắm, dường như ngọn nước nguồn lên ngay dưới lòng bàn chân. Suối Nậm Ma phía ấy. Phía ấy có lối tắt thẳng xuống Ná Đắng, Thào Khay ngờ bây giờ bọn phản động có thể lợi dụng con đường bí mật của du kích ngày trước để đi ra biên giới, qua Ná Đắng. Trước kia, Thào Khay đã có đi. Tức quá, Thào Khay nghiến răng.
- Thằng biệt kích!
Rồi giơ súng nhằm những hòm điện đài, như trông thấy chúng nó là kẻ thù đứng trước mặt. Nhưng Thào Khay không bắn. Ngay lúc ấy, Thào Khay toan chạy xuống châu. Song lại nghĩ: "Phải bám ngay không thể rời nó bây giờ. Ta sẽ bàn với chủ tịch Tỏa".
Thào Khay quay về. Nhưng chủ tịch Tỏa vừa đi công tác xuống các xóm Lừ.
Và Nghĩa đã đọc cái thư Thào Khay nhắn gặp, mà Thào Khay đã viết cho Nghĩa trước khi đi theo rình Thào Nhìa. Đến khi Thào Khay trở về, đã không gặp chủ tịch Tỏa, mà Nghĩa cũng đi buột xuống Ná Đắng rồi.