← Quay lại trang sách

Chương 3 Ngã rẽ của Ba

1

Nằm bẹp gí trên giường, Phượng thấy như cả thân mình chỉ còn mỏng như tờ giấy. Chính mối sầu nặng thành núi Thái Sơn đã làm nên điều đó. Phượng ý thức rõ: sự mong manh thiếu nữ của mình là sao chống nổi mối sầu quá lớn. Một người con gái mong manh như Phượng làm sao chịu được nỗi thống khổ ra đi không chắc gì có ngày tái ngộ. Ba còn trong ngục tù Cộng sản; má, chị Trang võ vàng lo lắng. Chắc gì rồi đây Phượng còn được gặp mặt những người thân yêu đó. Bỗng Phượng muốn trở về, trở về Sài Gòn tức khắc. Giờ này trở về với má, với chị, đợi ngày Ba được trả lại tự do còn kịp. Tối mai bước chân xuống ghe là bước chân sang một kiếp khác không bao giờ còn tìm lại được những khuôn mặt thân yêu ở kiếp này. Giờ đây còn nằm ở Vũng Tàu, chưa xuống ghe vượt biên, Phượng còn thuộc vào kiếp này. Má! Chị Trang! Sao kiếp người Việt Nam trui luyện thống khổ đến thế?! Tối mai xuống ghe, bước sang ranh giới một kiếp khác, mình như chết đi đối với ba, má, chị Trang, ông nhà văn. Và những người đó cũng như chết đi với Phượng. Thì vĩnh viễn chẳng còn được gặp nhau nữa là chết chứ còn là gì nữa?! Quả thực có nhiều hình thức chết! Chuyện ba còn dài, phải, chuyện ba còn dài, nghĩ tiếp về ba là sống với ba, với má, với chị Trang, với ông nhà văn, dù mình ở bất kỳ đâu. Chưa chết, chưa phải là chết. Mới khoảng bốn giờ chiều, Phượng nào thấy đói. Phượng có cảm tưởng mình có thể vững vàng nhịn ăn như vậy lâu, lâu lắm. Trong bóng tối loãng và bềnh bồng của căn gác xép đóng kín, Phượng thấp thoáng nhìn thấy một khía cạnh khác của mình: tâm hồn Phượng, cơ thể Phượng còn là vùng có lúa trổ bông, có cây trái, có hương hoa… Phượng thoáng nghĩ tới Họa, người con trai theo đuổi Phượng từ thuở cả hai còn theo trung học. Họa đã ở bên kia trời Âu, vẫn liên lạc với Phượng đều bằng những bức thư, những món quà, một năm khoảng ba, bốn lần. Vì một liên tưởng nào đó, Phượng nghĩ đến sự tích Tư Mã Tương Như xưa học rộng đàn hay, đã quyến rũ được người góa phụ tuyệt sắc Trác Văn Quân. Trác Văn Quân càng đẹp não nùng vì là gái góa – chắc chắn vậy. Việc nàng góa phụ đẹp não nùng đó bỏ thủ tiết, theo chàng Tư Mã tài hoa, cả thế giới nhân loại nhiệt liệt tán thành tưởng thưởng. Tình yêu đồng nghĩa với

Đẹp và Đẹp bao giờ cũng là sức mạnh huyền bí của hạnh phúc yêu đương. Đôi cánh trữ tình phơi phới đó của Phượng là tặng phẩm của ông nhà văn đấy, ông ta nào có hay điều đó. Và Phượng cảm thấy yên lòng nghĩ tiếp về ba.

2

Phượng yên lòng nghĩ về ba. Tháng 8-1945

Nhật vừa đầu hàng, chính phủ Trần Trọng Kim bèn điện ra đảo yêu cầu thả một số tù chính trị. Khi quân

Nhật ở đảo bắt đầu rút đi, nhân một chuyến xà-lúp của một số công chức cũng bỏ đảo vào đất liền, ba và khoảng năm mươi người tù khác được họ nhận cho về cùng chuyến. Từ xà-lúp bước lên cảng Nhà

Rồng đã là 28-8-1945, Sài Gòn cướp chính quyền được ba ngày rồi. Ba và đám tù nhân được cam-nhông chở về tòa Đốc Lý, lúc đó là trụ sở Ủy ban

Nhân dân. Nơi đây đương thời hỗn quân hỗn quan, tuy nhiên là tù chính trị ở đảo về, mọi người cũng được tiếp đón nồng hậu, được cấp ngay giấy chứng nhận thay căn cước. Quen nghiệp làm báo cũ, ba lại gặp ngay người bạn thân tín cũ, bác Phác, người đã từng hoạt động như con thoi liên lạc giữ ba với các địa bàn Tây Ninh, Thủ Dầu Một, Vũng Tàu. Ba và bác Phác giúp chính quyền cách mạng chuyển cơ sở hãng thông tin DOMEI của Nật thành Việt Nam

Thông tấn xã. Phong độ ký giả tự do phóng khoáng đi đó đi đây, chè chén tiệc tùng không còn. Không khí thuở ban đầu cách mạng đượm màu khắc khổ và ba còn tin cẩn những người Cộng sản lãnh đạo.

Ba nhận tin tức tiếng Pháp, đối chiếu, cắt xén, dịch; ôi chao làm việc nhiều khi mười sáu giờ một ngày, ấy là thay phiên nhau đấy. Và làm việc không lương. Cơm nhà vác ngà voi! Ngày 23-9-1945 kháng chiến Nam Bộ bùng nổ, Thông tấn xã thoạt dời lên Thủ Đức, rồi Biên Hòa. Lúc đó cả cơ quan đã được tổ chức thành chi đội vừa chiến đấu vừa làm việc.

Ba có chứng kiến cảnh những người nhà giàu chạy thoát khỏi Sài Gòn về lục tỉnh, chính họ cũng không biết là sẽ tản cư bao lâu, họ mang theo ít quần áo sang trọng, đồ trang sức quý, những tập album đẹp, máy hát và những đĩa hát họ ưa thích. Tản cư về miệt vườn không việc gì làm, họ vặn máy hát nghe chơi.

Họ bị bắt giữ về cách sống nhàn hạ xa hoa tương tự. Khi bị thẩm vấn, họ khai lý lích, toàn thuộc hạng nhà giàu, hay công chức các cơ quan Pháp cũ. Các đảng viên Cộng sản từng bị khủng bố trong vụ Nam Kỳ khởi nghĩa tháng 11-1940 biểu lộ ngay thái độ hằn học trả thù. Quân thực dân Pháp tiến theo sự mở đường của đạo quân Anh-Ấn - dưới quyền của tướng Anh Gracey - trong đám những người giàu bị bắt giữ vì ngờ là Việt gian đó, có toán bị lực lượng kháng chiến chuyển tới Thủ Đức, rồi lại chuyển đi Biên Hòa nhốt ở kho đồn điền cao su, bên ngoài du kích gác. Và trong bầu không khí bừng bừng toàn quốc, Quảng Ngãi xử bắn Tạ Thu Thâu, tận diệt những “Việt gian” – công chức thời Pháp. Tại các vùng quê miền Bắc, hễ du kích khám hành trang đám người tản cử thấy quần áo tuy xếp rời mà đủ ba màu xanh, trắng, đỏ - màu cờ Pháp - là ngờ ngay “Việt gian”, có thể bị thủ tiêu liền. Miền Nam dù thẳng thắn khoáng đạt cũng không tránh khỏi những chuyện thủ tiêu tương tự. Do đó mầm phân hóa bắt đầu: Đã sớm có người từ Sài Gòn tới khu Rừng Lá, không tiếp tục tản cư về ngả Phan Thiết hay Thủ Dầu Một, mà ngoặt sang Bà Rịa để rồi trở về Sài Gòn. Ba vẫn tin theo sự lãnh đạo kháng chiến của Đảng Cộng sản và tiếp tục làm việc hết mình trong chi đội Thông tấn xã. Đầu 1946, Việt Nam Thông tấn xã một lần nữa chuyển tới Phan Thiết, ít lâu sau thì giải tán vì thiếu hết mọi phương tiện. Ba sang một cơ quan quân sự phụ trách về thông tin tuyên truyền tại khu Tam Giác Sắt, ba bị lùa vào dịp này với hơn một trăm dân chúng khác. Bị giữ ở Tây Ninh một ngày, đưa về trại thanh lọc Gia Định hai ngày, sau đó ba được tha vì Pháp tin ba là thành phần trí thức cũ tản cư. Điều này phúc lớn cho ba – ba vẫn nói vậy – ba tuột khỏi guồng máy Cộng sản danh chính ngôn thuận. Ba lấy má vào giữa năm

1948 và anh Trung chào đời 1949, chị Trang năm

1951, Phượng năm 1953, đứa nọ cách đứa kia hai năm. Nhưng theo lời kể của ba thì sự chuyển hướng của ba – thật sự biết sợ Cộng sản – là vào hôm ăn sinh nhật đầu tiên của Phượng, có sự hiện diện của bác Lam, người bạn cùng học ở Chasseloup-Laubat, cùng thi và cùng đỗ tú tài với ba.

3

Ba đỗ xong tú tài thì ra làm báo, bác Lam qua Pháp học về kỹ sư công chánh. Được một năm bác Lam gia nhập Đảng Cộng sản Pháp, viết báo Le Peuple bên đó, đả kích thậm tệ chính sách đàn áp tàn bạo của thực dân kể từ sau vu Xô Viết Nghệ Tĩnh 1930. Bác bị trục xuất khỏi Pháp. Dĩ nhiên bác không dám trở về Việt Nam, bác sống lưu vong trên đất Tàu khoảng 1936-1941: Thoạt tới Hồng Kông, về Việt Nam vào cuối năm 1941. Bác nghĩ Nhật đã nhảy vào Đông Dương, không còn sợ chính quyền thực dân bắt giữ. Nhưng về đến nước, bác thấy không ổn. Hai chính quyền Pháp-Nhật song song trên đất nước thế kia, anh nọ gờm anh kia, và cả hai cùng gờm những người hoạt động cách mạng chống thực dân và phát-xít, chúng để mình yên sao được! Một lần nữa bác liều lĩnh đi, lần này tới Tân Gia Ba. Bác giỏi tiếng Anh, tiếng Pháp, năm năm sống ở Tàu nói thạo đủ mấy thứ tiếng Quan Hỏa, Phúc Kiến, Quảng Đông. Lần tới Tân Gia Ba này, bác làm quen với một mỹ nhân quê ở Thượng Hải. Người thiếu nữ Trung Hoa đẹp quý phái và có học thức đó thành bác Lam gái. Mãi đến sau cuộc Cách Mạng Tháng Tám – 1945 – hai bác mới về Việt Nam ở ngay quê nhà vùng cửa biển Cần Giờ. Thỉnh thoảng hai bác mới lên Sài Gòn thăm các bằng hữu cũ trong số có ba.

Bác Lam không ở Sài Gòn, không liên lạc với đám Đệ Tam ở đây, như vậy là bác hoàn toàn rời bỏ chính trị. Nhưng phải đợi mãi đến hôm ăn sinh nhật năm đầu của Phượng (1954) bác mới thổ lộ với ba trong lúc ngà ngà say, lý do vì sao bác bỏ chính trường. Bác nói khi bị Pháp trục xuất, bác về Hồng Kông rồi qua Thượng Hải buôn bán kiếm ăn qua ngày, bác còn muốn hoạt động theo khuynh hướng Đệ Tam. Nhưng qua đi một thời gian, đứng ngoài khách quan nhận xét phương châm hoạt động của Đảng Cộng sản Tàu, rồi suy nghĩ về vụ Xô Viết Nghệ Tĩnh (12-9-1930) tại nước nhà, bác thấy vụ Xô Viết Nghệ Tĩnh thất bại là lẽ đương nhiên, cũng như Đảng Cộng sản Tàu rồi cũng phải chuyển biến thôi; tất cả những thắng lợi nhất thời của họ chỉ đưa đến sự thất bại cuối cùng không thể tránh được, nếu họ chỉ đơn giản quá đề cao công nông và coi rẻ trí thức. Một chính sách bất bình thường như vậy xây dựng được cái gì dài lâu?! Khi từ Tân Gia Ba trở về Việt Nam, bác Lam ngao ngán thấy Đảng Cộng sản Việt Nam nhất thiết rập khuôn y chang Đảng Cộng sản Tàu. Bác cũng không tán thành chủ trương cách mạng thường trực của Đệ Tứ. Quá khích!

Có thể trước đây ba cũng đã nghĩ như bác Lam. Khi nghe bác Lam nói, ba nhớ ngay đến hoạt động của Cộng sản ở Côn Đảo, cách họ truyền tin, truyền chỉ thị, tổ chức học tập, kết nạp đồng chí, thành lập chi bộ nhà tù… Ba chợt rùng mình thấy hết khía cạnh nguy hiểm, xảo quyệt có tổ chức của họ. Ba ôn lại những trại tù thuở ban đầu của họ, những tin tức thủ tiêu người, hay lập Tòa án Nhân dân nhưng đã đóng sẵn cọc xử tử.

Hiệp định Genève 1954. Các địa điểm tập kết từ miền Nam dân chủ ra miền Bắc độc tài: Trắc Bằng, Rạch Giá cho khu Tám, khu Chín tức các tỉnh Tiền Giang, Hậu Giang; Xuyên Mộc, Phan Thiết cho khu Sáu và khu Bảy, tức các tỉnh miền Đông Nam Bộ, cực Nam Trung Bộ và miền Nam

Tây Nguyên; Quy Nhơn cho khu Nam gồm các tỉnh Quảng Nam, Quảng Ngãi, Bình Định, Phú Yên, Gia Lai, Kontum, Ban Mê Thuột. Thành phần tập kết ra Bắc: các lực lượng vũ trang, các cán bộ chính trị cấp tỉnh và huyện – thành phần chủ chốt – nhưng đồng thời cũng gồm những thành phần bất hảo, những thành phần Đảng không tin cẩn: đám công chức cao cấp cũ còn uy tín với dân chúng, nếu để lại họ bị địch sử dụng mất, đám gá bạc lưu manh từng lang thang khắp các tỉnh, quen mặt nhiều cán bộ cũng đã từng lang thang trên bước đường công tác, nếu để lại, họ sẽ nhận diện ra những cán bộ được đặt ở lại, hoạt động tại các cơ sở nằm vùng. Những thành phần bất mãn không được tin cẩn này tập kết ra Bắc sẽ được tập trung tại những trại sản xuất ở những vùng thượng du heo hút, thật biệt lập, chẳng qua cũng là một thứ tập trung trá hình mà thôi.

Ba có thể thuộc cả hai thành phần Đảng không ưa, không tin cẩn vì ba trí thức quá, tư sản quá, đã vậy lại quen quá nhiều các nhân vật cao cấp cũ, quen quá nhiều cán bộ Đảng trong thời gian kháng chiến, nắm quá nhiều rường mối tổ chức mạng lưới thông tin. Tháng 9-1954 là đợt tập kết ra Bắc đầu tiên. Ba và Bác Lam đã cùng đồng ý là trong vòng hai năm sau hiệp định chia cắt làm sao mà có thể tổ chức tổng tuyển cử để thống nhất hai miền. Ngày 20-7-54, ngày ký hiệp ước chia cắt, bác Lam đã tới đón ba về quê bác - Cần Giờ - để lánh những con mắt theo dõi của đám cán bộ Cộng sản nằm vùng mà ba và bác dư biết là có đầy dẫy. Số đồng bào Công giáo thì lẩn mặt vào các khu nhà thờ, nhà Chung. Mãi tới tết âm lịch năm đó, ba mới về Sài

Gòn với má và lũ con. Kể từ đấy trở đi, ba luôn luôn tỏ ý nghi ngờ những gì mang vẻ đao to búa lớn, kinh thiên động địa, mà chỉ yêu những gì hữu ích hiền hòa. Ba chuyển hướng gia nhập một công ty buôn bán bằng ghe lênh đênh trên sông Hậu, từ Tân Châu đến Sa Đéc. Thì cũng toàn là những bằng hữu đã quen từ thuở viết báo. Thỉnh thoảng ba theo đi một chuyến gọi là để thay đổi không khí. Ba không chú ý tới những cán bộ thời kháng chiến cũ, thảng hoặc có gặp một khuôn mặt cũ kỹ nào thì cũng để cho ngỡ ngàng qua đi. Có thể họ là những cán bộ được bí mật đặt lại nằm vùng, có thể là họ cũng nghĩ về ba như vậy.

4

Ba trốn thoát tập kết nhưng bác Phác, người bạn đồng chí cũ của ba thì không. Năm 1948, ba bị lùa từ vùng Tam Giác Sắt về Sài Gòn, bác Phác quê ở Bạc Liêu – anh em vẫn gọi đùa là “Công tử Bạc Liêu” – chuyển công tác tới vùng căn cứ địa Quảng Ngãi và Quy Nhơn hoàn thành các mạng lưới tin tức thu thập từ khắp các quân khu, nhận những tin tức chỉ thị từ Hồng Kông gởi về - bằng mật mã, dĩ nhiên. Bác được kết nạp vô Đảng vào dịp này. Dĩ nhiên bác tập kết ngay tại địa điểm Quy Nhơn từ đầu tháng 9-1954. Tuy được kết nạp, nhưng “công tử Bạc Liêu” chưa được Đảng tín nhiệm cho lắm, nên thoạt chỉ được cắt cử đi tổ chức các cơ sở hải quan ở Đông Hưng, Cẩm Phả, Hòn Gai, Quảng Yên, Hải Phòng. Sau khi thí điểm đấu tố cải cách ruộng đất năm 1953 – miền núi là Thái Nguyên, miền đồng bằng là Thanh Hóa – sang 1956 thì Đảng phát động phong trào cải cách ruộng đất toàn diện. Bác Phác được tuyển đi dự lớp học tập chính sách, đường lối, biện pháp cải cách ruộng đất, rồi được biên chế vào một đội cải cách ruộng đất, địa bàn hoạt động là huyện Tiên Lãng ngay sát thị xã Kiến An. Như vậy là bác được Đảng tín nhiệm rồi đó.

Chết nỗi tính chất “công tử Bạc Liêu” nơi bác, Đảng không tiêu diệt được.

Bạc Liêu nước chảy lờ đờ

Dưới sông cá chốt, trên bờ Triều Châu.

Rất nhiều người Tàu Triều Châu! Phù sa Cửu Long ăn lan ra biển mỗi năm cả trăm thước. Đất bùn – nê địa – khi rắn chắc, gieo hạt gì cũng chỉ tuần trước, tuần sau là xanh om cả vùng. Ra khỏi thành phố Bạc Liêu đi nề nẻo xã Vĩnh Châu, trời ơi, biển nhãn! Trên trời, dưới nhãn. Người ta giăng lưới cả rừng nhãn đó để giữ khỏi bị chim ăn. Quờ tay đâu cũng thấy gạo thóc. Mùa làm cua muối thì lấy cua làm thứ nước chấm thịt ba rọi hay tép luộc. Thức ăn ê hề, ăn suốt ngày. Đặc biệt có thứ bánh xèo túi làm bằng bột gạo, nhân đậu xanh và giá, trên mặt vài ba con tôm. Khoảng tám giờ tối còn ăn bữa cháo đặc cuối cùng với trứng muối, cải muối – xá pấu – và cá chốt kho tiêu. Làm gì có phân ngôi tớ chủ! Người làm và chủ ăn chung mâm, liên lạc với nhau suốt đời như người cùng gia đình.

Từ ngày được biên chế vào đội cải cách ruộng đất, suốt ba tháng vừa học lý thuyết vừa thực tập, bác sống trong một bầu không khí hừng hực căm thù khác hẳn với bầu không khí hào sảng cởi mở tại quê hương. Thoạt bác cũng tin theo lý thuyết là tính chất của địa chủ thì phải bóc lột, tham tàn, dâm ô, ti tiện. Nhưng đến khi vào thực tập, bác nhận thấy không đúng như vậy. Vào khám nhà địa chủ thì cũng chỉ thấy lèo tèo vài cái áo dài chẳng hơn quái gì nhà anh trung nông. Điểm buộc tội nào bác cũng thấy gắng gượng, ép buộc. Có địa chủ Việt Nam nào hoàn toàn “phát canh thu tô” như bên Tàu đâu! Có địa chủ Việt Nam nào có lực lượng vũ trang riêng trong nhà để chống cướp, chống các lực lượng địa phương khác như bên Tàu đâu! Địa chủ Việt Nam chẳng có người nào có nhiều ruộng đến thẳng cánh cò bay. Với số ruộng họ có, họ cũng vừa làm vừa thuê người làm, chỉ có tiền, có vốn nhiều hơn và có cho vay lấy lãi. Bất quá xếp họ vào hạng phú nông đã là quá. Chết nỗi – bác Phác nhận định – họ hoàn toàn rập theo phương pháp cải cách ruộng đất của Tàu và máy móc theo chỉ thị của cố vấn Tàu là cứ một ngàn dân phải có tỷ lệ bao nhiêu phú nông, bao nhiêu địa chủ.

Bác sinh trưởng ở Bạc Liên, rồi lại ăn học ở Sài Gòn, nếp sống tiểu tư sản thành thị làm bác thấy ghê tởm sự nói dối, sự đóng kịch, sự tuân theo một chiều, buộc tội một chiều. Một bần cố nông gái được đưa ra kể tội địa chủ: “Tôi bưng mâm cơm lên, nó bóp vú, mâm cơm đổ, nó rút guốc đập lên đầu tôi.” Lời tố cáo đó đúng hay không, hay đúng tới mức độ nào – không cần biết! Cả đấu trường hô vang: “Đả đảo địa chủ!” Cách thức lãnh đạo quần chúng như vậy khiến quần chúng còn ngu hơn cả lũ cừu của chàng Panurge nữa. Bác không chịu nổi.

Một thằng lỏi đứng ra kể khổ: “Thằng địa chủ kia, mày hãy ngẩng đầu lên nhìn tao!” (Địa chủ đứng trước tòa án để nghe kể khổ, luôn luôn khoanh tay, mặt cúi gằm.) “Mày bắt tao dậy từ bốn giờ sáng thổi cơm, nấu nước cho lũ con mày, mày còn hắt nước vào mặt tao, con mày cầm luôn cả cái chậu thau đập vào đầu tao cho chảy máu.” Toàn thể đấu trường chỉ đợi dứt lời là hô lớn: “Đả đảo địa chủ!” Thằng lỏi ôm mặt khóc hu hu. Bác Phác chỉ thoáng quan sát là biết nó được học tập chỉ dẫn trước, nói đến chỗ đó là phải khóc. Nó đóng kịch vụng quá, nhưng trong phong trào rộng lớn lúc đó, thuở đó ai mà dám nói. “Đả đảo địa chủ!” Người ta hô vang đấu trường, chỉ cần vậy. Từ tâm của bác Phác – “công tử Bạc Liêu”, tiểu tư sản thành thị - phẫn nộ trước sự bày trò giả dối, dã man đó. Tới phiên bác thực tập, bác không bắt rễ được vì kể cả những người thật là thành phần bần cố nông vẫn không sao tránh được có liên hệ xa gần với địa chủ, phong kiến, chính quyền phản động cũ. Xác định thành phần địa chủ cũng vậy, bác thấy rõ ràng những người giàu nhất huyện Tiên Lãng cũng không đủ tiêu chuẩn để xếp thành địa chủ. Sao nỡ tâm hạ sát người oan uổng như thế được! Tiếng lành đồn xa, tiếng dữ đồn xa, dân chúng địa phương nào cũng sợ xanh máu mặt khi hay tin đã có cán bộ đội (đội cải cách ruộng đất) tới bắt rễ. Lời nói cửa miệng thời đó: “Nhất đội, nhì trời!”

Những khó khăn không thể giải quyết được (không tìm ra địa chủ, không tìm được bần cố nông đúng tiêu chuẩn để bắt rễ), bác Phác và nhiều người khác nữa xin đội giải quyết giúp. Nghe báo cáo thất bại hoài như vậy, ban chỉ huy đội hằn học, mỉa mai đặt câu hỏi: “Vì sao các đồng chí không tìm ra được tỉ lệ địa chủ như đã qui định?” Và chính ban chỉ huy đội cũng không giải thích nổi những dữ kiện và nghi vấn nêu trên. Điều đó càng làm họ thêm bực mình, không còn cách nào hơn là cả vú lấp miệng em, họ đập bàn quát: “Là đảng viên mà các đồng chí không vững lập trường!” “Các đồng chí có tư tưởng chống đối đường lối của Đảng!” Rồi họ lục hồ sơ của tất cả xem lại. Cả ba chục tên cùng ở thành phố, cùng là dân miền Nam tập kết từ Khánh Hòa trở vô, chẳng ai có liên hệ thân thích gì với người miền Bắc, và hầu hết là con cái đám công chức cao cấp thời Pháp. Sau cùng ban chỉ huy đội tập trung tất cả lại đập bàn hét lớn như hét với kẻ thù: “Các anh (không dùng hai chữ đồng chí nữa) từ khi học tập đến giờ không làm được việc gì cho Đảng cả, chúng tôi trả về cho Ban Cải cách Ruộng đất Trung ương, tùy Trung ương quyết định. Hồ sơ các anh, chúng tôi sẽ chuyển thẳng về Trung ương!” Sau đó cả ba mươi người ra bến xe đò Kiến An. Dân chúng nín thở theo dõi, công an vẫy xe, tài xế đích thân xếp chỗ. Xe về Hà Nội. Tất cả, nào có ai hay lũ “nhất đội, nhì trời” đó bị thất sủng rồi! Về Bắc Bộ phủ, bọn họ họp ba ngày nữa. Trung ương hỏi – họ đáp. Trung ương hỏi thêm cố vấn Trung Cộng, họ đáp bổ sung. Rút cục cũng chẳng giải quyết được gì. “Hồ sơ các anh, chúng tôi sẽ chuyển thẳng về Trung ương!” Lời nói đó của ban chỉ huy đội tại huyện Tiên Lãng còn vang vọng, nhưng không ai dám hỏi Trung ương là hồ sơ đã về chưa, vì ai nấy biết đó là cách thu hồi đảng tịch để đợi hạ hồi phân giải. Bởi vậy riêng đối với bác Phác, khi rời khỏi công tác cải cách ruộng đất – mà bác coi như cất được gánh nặng Thái Sơn trên vai – trở về sở Hải quan Hải Phòng, bác chỉ được xếp vào loại làm các công việc linh tinh, và dự sinh hoạt chi bộ như một bàng thính, không có quyền biểu quyết. Thái độ dè dặt của những người xung quanh khiến bác Phác nghi đã có sự phổ biến ngầm gì đây.

Giá như phong trào Cải cách Ruộng đất chỉ làm ở nông thôn thì dù có xử tử số địa chủ phú nông gấp đôi cũng không bị vỡ lở. Chết cái Đảng chạm vào cả đám cán bộ quân đội xuất thân từ nông thôn. Hầu hết là các cán bộ có công, có đạo đức, được cấp dưới quý mến cảm phục. Bị gọi về địa phương, thoạt họ tưởng được mời về để làm chứng một việc gì, nên có cần vụ và bảo vệ đi theo. Ai ngờ vừa về đến quê hương tới trình diện đội, đội tuyên bố tước quân tịch ngay vì là thành phần địa chủ có nợ (chưa phải là nợ máu) với nhân dân. Họ bị tống giam liền, và kinh khủng hơn nữa là ngay tối hôm đó lập tòa án kể khổ để xử tử ngay. Tất cả dân địa phương vào thời đó không ai dám đi đâu, tất cả túc trực ở nhà. Đội đã sắp đặt sẵn chương trình tòa án, chỉ gọi “ới” một tiếng là răm rắp đầy đủ. Cần vụ và người bảo vệ chứng kiến cuộc xử bắn xong rồi tức khắc về báo đơn vị. Hàng trăm ngàn vụ như vậy, toàn thể quân đội náo động. Tin tức lan truyền rất nhanh vì quân đội thường xuyên có liên lạc với nhau không bị cô lập như nhân dân. Đơn vị nào mất cấp chỉ huy như vậy cấp tốc báo lên Trung ương, đồng thời báo cả tinh thần hoang mang của quân đội. Sự hoang mang nơi quân đội rưng rưng đượm ngay màu khốc liệt cực kỳ nguy hiểm. Quân đội mà hoang mang đổ vỡ hoặc bùng nổ dưới bất kỳ hình thức nào sẽ thành một vết thương quá lớn cho khuôn mặt “vằng vặc” của Bác-Đảng (Bác muôn vàn kính yêu cha đẻ ra Đảng Cộng sản Việt Nam quang vinh). Do đó Trung ương vội cử một phái đoàn đi điều tra. Phái đoàn phát hiện ngay những sai trái tàn bạo. Trung ương thấy cần phải công khai nhận sai lầm để kịp thời xoa dịu, trấn an dư luận. Vì vậy ông Hồ nhân danh Chủ tịch nước (ông quên còn là Chủ tịch Đảng nữa) đứng ra nhận trách nhiệm về sự sai lầm đó. Báo chí, đài phát thanh phổ biến lời xin lỗi của ông. Mặt khác Đảng tổ chức những mít-tinh quần chúng, các cán bộ lãnh đạo phong trào Cải cách Ruộng đất tuyên bố sẽ thi hành kỷ luật những cán bộ có trách nhiệm, đồng thời phục hồi danh dự những người bị xử oan; cất chức Tổng bí thư Đảng là Trưởng ban Cải cách Ruộng đất Trung ương; Phó ban thì bị mất chức Trung ương Ủy viên… Những nạn nhân còn bị giam giữ được thả về, những người đã bị xử bắn, có phái đoàn tới xin lỗi gia đình và bồi hoàn những gì đã tịch thu… Nhưng vết thương thực sự bên trong vẫn rỉ máu, vết thương đó không bao giờ thành sẹo – bác Phác thấy rõ điều đó! Đảng còn bắt chước khẩu hiệu của Tàu “trăm hoa đua nở, trăm nhà đua tiếng”.

Các nhà trí thức biết tôn trọng con người, các văn nghệ sĩ bén nhạy tinh thần nhân bản bèn kết hợp lại làm bùng nổ vụ Nhân Văn Giai Phẩm. Tất cả những vị đó cũng như hàng vạn hàng triệu các nhà trí thức, văn nghệ sĩ khác trên thế giới tự do đều còn quá ngây thơ để quên rằng lời nói của Lê-nin mãi mãi còn đó làm ngôi sao Bắc Đẩu định hướng bất biến: “Cuộc chiến đấu của ta với địch là cuộc chiến đấu sắt máu chỉ có thể một mất một còn!” Mọi nhượng bộ dân chủ, tất cả những chuyện hạ tầng công tác, tước đảng tịch… chỉ là trò bịp bề ngoài để kịp thời ve vuốt, vỗ về, trấn an. Những người trong Nhân Văn Giai Phẩm, cả những người không hề dính dáng tới Nhân Văn Giai Phẩm nhưng có tinh thần chống đồi đều bị lẳng lặng bắt đi an trí tại những nơi xa xôi kín đáo. Bác Phác quyết định rồi! Tuy nhiên phải đợi tới gần giữa năm 1959, nhân dịp bác được cử đi kiểm tra các cửa khẩu ở khu Bốn, khi tới cửa khẩu Ròn thuộc Quảng Bình, bác lên Tân Ấp nói là để xem có nên đặt thêm một trạm kiểm soát nữa không. Địa thế Tân Ấp nằm giữa khoảng rừng núi Trường Sơn trên một trục lộ nhỏ nối liền Lào-Việt, tới đây bác đi thẳng về ngả đèo Mụ Giạ, bắt sang địa phận Lào. Cứ thế dọc theo Trường Sơn về phía Nam gặp đường số 9 bác mới trở về địa phận Việt Nam qua Lao Bảo xuống Đông Hà, Quảng Trị.

Thế là bác đã trở về với ánh sáng tự do miền Nam, nhưng bác vẫn phải tìm một đường dây liên lạc cũ, xuất trình giấy công tác của mình, trong giấy có ghi: “Xin các cấp chính quyền địa phương hãy tích cực giúp đỡ đồng chí Nguyễn Phác hoàn thành nhiệm vụ.” Các “đồng chí” đưa bác vào Huế, cơ sở Huế giúp bác giấy tờ giả mạo hợp pháp có thể đi toàn miền Nam. Tới Sài Gòn bác dự định tìm đường đi Pháp, nơi có nhiều bạn thân, sống tuyệt tích giang hồ chừng ba bốn năm cho tới khi các mạng lưới truyền tin bí mật của Cộng sản ở miền

Nam quên khuấy hẳn… còn bác trên đời. Lúc đó bác mới trở lại sống nốt quãng đời còn lại trên mảnh đất quê hương – có thể là ngay tại Bạc Liêu. Tới Sài Gòn bác gặp ba, tá túc ngay trong nhà, tâm sự hết các nẻo tâm tình. Ba tận lực giúp đỡ, bác được cấp thẻ căn cước hợp pháp, ba lại quyết định trực tiếp trông nom những chuyến buôn đường thủy trên sông Hậu từ Tân Châu, Châu Đốc đến Sa Đéc ba năm liền 1959-1962. Bác Phác lại phụ tá ba như xưa, lần này là phụ tá kinh tế. Hàng mua từ bên Miên chất đầy ghe là lĩnh mỹ-a, bột ngọt, bún tàu (miến), đường thốt nốt, thuốc Bắc từ Trung Quốc bán sang Nam Vang… Những thứ đó theo ghe xuôi dòng sông Hậu từ Sa Đéc tới Tân Châu mang hàng bán sang Miên có thuốc lá Ruby, thuốc Tây, pin đèn, radio, vải… Với sự kín đáo, khéo léo và can trường nữa, bác Phác thỉnh thoảng làm một chuyến thuốc phiện lậu. Nghệ thuật ngụy trang của bác là giấu trong thùng mật ong. Suốt ba năm lênh đênh, ba và bác không hề bị thất bại chuyến nào. Cuộc đời lưu động trên sông nước miền Hậu Giang này giúp bác đỡ phải đi ngoại quốc mà vẫn mai danh ẩn tích cho đến lúc coi như tự xóa được hộ tịch với Đảng Cộng sản Việt Nam. Sau đó ba và bác trở về Sài Gòn, cổ phần công ty vẫn nguyên, chỉ thỉnh thoảng đi theo một chuyến làm duyên thay đổi không khí.

5

Đúng vào dịp này, lập trường ghê tởm Cộng sản của ba được dịp tô đậm thêm nét cuối cùng vẫn là dịp ba được đọc tác phẩm của ông nhà văn.

Hai người thật có duyên gắn bó với nhau mặc dầu chẳng một lần gặp mặt. Chất sống nào mà chẳng trào dâng, ngoi lên tìm cách thể hiện. Chất sống nơi ba – và sau này nơi Phượng nữa – tự soi lấy mình hoặc tự khám phá lấy mình trên những trang in, hết trang này qua trang khác, những trang in mênh mông của ông ta. Những sự kiện lịch sử sừng sững chứng tích sống động do một cảm quan bén nhạy ghi nhận và diễn đạt qua ngôn ngữ nghệ thuật.

Nội dung tác phẩm đại ý vào năm 1941-

1942, Tưởng Giới Thạch đang đóng đô ở Trùng

Khánh điều khiển cuộc kháng Nhật của toàn thể

Trung Quốc, tướng Trương Phát Khuê đương là tư lệnh cả vùng Hoa Nam (Quảng Tây, Vân Nam,

Quý Châu…), Việt Nam Cách mạng Đồng minh

Hội gồm các Đảng Dân Chính, Duy Tân Phục

Quốc, Quốc dân Đảng (chủ tịch là cụ Nguyễn Hải

Thần) cũng đương hoạt động mạnh khắp vùng Hoa

Nam. Hồ Chí Minh bị Trương Phát Khuê bắt giữ tại Côn Minh vì thành tích Cộng sản của ông ta.

Ông Nguyễn Tường Tam, lãnh tụ Dân chính Đảng, tới nhà giam Côn Minh nơi hang đá thăm hỏi ông

Hồ nhiều lần trong năm, một lần ngồi thổi saxo- phone bản “Con Thuyền Không Bến” của Đặng Thế

Phong ngay bên nhau, khi cuộc đàm đạo vừa chấm dứt. Trong tập thơ chữ Hán của ông Hồ có bài “Nạn

Hữu Xuy Địch” chính là khởi hứng từ tiếng saxo- phone của ông Tam thổi bài “Con Thuyền Không

Bến” đó.

Nguyên văn bài thơ chữ Hán:

NẠN HỮU XUY ĐỊCH

Ngục trung hốt thính tư hương khúc Thanh chuyển thê lương, điệu chuyển sầu Thiên lý quan hà vô hạn cảm

Khuê nhân cánh thượng nhất tằng lâu

Bản dịch thoát ý theo thể ngũ ngôn của nhà thơ Phương Hoa Sử:

NGƯỜI BẠN TÙ THỔI SÁO Người tù giam trong ngục

Bỗng nghe sáo hồn quê

Âm thanh buồn thê thiết

Chợt chuyển khúc sầu tê

Nước non ngàn dặm biếc

Đâu biết bao giờ về

Ngóng chồng lên gác vắng

Bốn phương trời sơn khê.

Sau cùng ông Tam tin rằng ông Hồ chẳng qua chỉ dùng đường lối khác để đạt tới cứu cánh quốc gia. Một lần ông Tam ướm hỏi ông Hồ:

- Ông theo Cộng sản, thân Liên Xô, mai đây ông đưa đất nước theo chính sách Cộng sản e không thích hợp.

Ông Hồ đáp:

- Tôi chịu ơn của Liên Xô mười lăm năm, tôi đã trả đủ rồi.

Ý ông Hồ muốn nói đã từng đi với Borodin tới Trung Quốc thành lập Đảng Cộng sản thân Nga trong nội bộ Đảng Cộng sản Tàu, nay thì không còn dính dáng gì với Cộng sản nữa.

Ông Tam tin ngay, trở về đề nghị với cụ Nguyễn Hải Thần vận động xin thả ông Hồ. Cụ Nguyễn Hải Thần gặp Trương Phát Khuê, Trương bác đề nghị đó. Ông Tam lại khẩn khoản xin cụ Nguyễn hãy tới Trùng Khánh gặp Tưởng Giới Thạch. Cụ Nguyễn đã tới Trùng Khánh, đã được tiếp kiến Tưởng. Chính Tưởng đã nói thẳng với cụ về họ Hồ: “Người này là cán bộ của Liên Xô, y đã cùng Borodin tới đây thành lập cánh Cộng sản thân Liên Xô. Nếu các đồng chí muốn tha cho y thì tôi cũng chiều lòng, nhưng rồi các đồng chí sẽ hối hận về điều này.” Cụ Nguyễn đáp là sẽ kết nạp Hồ vào Mặt trận Đồng minh Hội, do đó vẫn kiểm soát được mọi hành vi của Hồ. Tưởng hạ lệnh tha. Sau đó Hồ có làm lễ tuyên thệ dưới cờ của Đồng minh Hội.

Sau khi đã tuyên thệ, họ Hồ cùng Võ Nguyên Giáp bí mật tìm gặp Patty, đại tá tình báo của Mỹ, xin hợp tác, mỗi tháng lĩnh bốn ngàn đô-la để tổ chức mang lưới tin tức tình báo tại chiến khu Cao- Bắc-Lạng. Mặt trận Việt Minh (Việt Nam Độc lập Đồng minh) của Hồ sau này chỉ khác tên Mặt trận của cụ Nguyễn hai chữ “độc lập”. Đường lối gian giảo, xảo quyệt của Hồ luôn luôn lợi dụng những điểm lập lờ để che giấu gian ý và tận dụng mọi lợi điểm của mọi phe Quốc gia, tận dụng lòng yêu nước rực lửa vô điều kiện của toàn thể người Việt cho mục tiêu Cộng sản. Sau này khi đã khôn ngoan – cũng là khôn ngoan chứ sao, khôn ngoan tuyệt luân đấy - phỗng tay trên được thành quả cách mạng vào ngày 19-08-1945, Hồ đọc Tuyên ngôn Độc lập vào ngày 02-09-1945. Lời thề độc lập vang lên vào dịp này. Nhưng cũng kể từ đấy con người gian ác, xảo quyệt tuyệt luân đó ngầm ra lệnh cho các đồng chí của y, đặc biệt các “đồng chí” công an miền biên giới Hoa-Việt, hễ bắt được bất kỳ cán bộ nào của Đồng minh Hội thì phải giết ngay, rồi báo sau, cốt để triệt hạ bộ não của Đồng minh Hội. công an Cộng sản Tây Bắc (Hà Giang, Lai Châu, Lao Kay) đã thủ tiêu rất đắc lực các cán bộ quốc gia của Đồng minh Hội trong số có Nguyễn Văn Việt là cán bộ trung ương của Việt Nam Quốc dân Đảng. Có một cánh cán bộ của Đồng minh Hội về ngả Hà Giang gồm mười ba người trong số có Đỗ Tốn, tác giả Hoa Vông Vang và một nữ cán bộ duy nhất, chị Lý. May sao đám mười ba người này tuy bị bắt nhưng tên Trưởng ty công an Hà Giang chưa phát hiện ra họ là những cán bộ của Đồng minh Hội nên còn giam giữ đó. Điều may nữa cho cả mười ba người là tin tức phi báo về ngay đến tay cụ Nguyễn Hải Thần tại trụ sở Đồng minh Hội, đường Quan Thánh. Cụ Nguyễn “nói ới” ông Tam: “Xưa đồng chí đã có sáng kiến xin tha cho hắn (cụ chỉ họ Hồ), nay đồng chí hãy lãnh trách nhiệm tới Bắc Bộ phủ gặp hắn xin thả ngay mười ba đồng chí của mình.” Sau mấy lần xin yết kiến mãi tới lần thứ ba ông Tam mới gặp được họ Hồ, trình bày sự kiện. Hồ làm bộ trợn tròn mắt mà rằng: “Sao có thể có chuyện như vậy! Cán bộ địa phương làm láo rồi! Những người từng đã đấu tranh ở hải ngoại sao lại chịu số phận như thế được! Đám người hoạt động trong nước chẳng hiểu gì cả!” Ông Tam xin Hồ một lệnh viết tay để đích thân mang sang sở công an Bắc Bộ. Giám đốc sở công an bèn điện cho Trưởng ty công an Hà Giang hãy đích thân dẫn mười ba cán bộ Đồng minh Hội về Hà Nội.

Cụ Nguyễn và ông Tam theo sát vụ này, khi mười ba người được đưa về sở công an Bắc Bộ, ông Tam mới báo ngay cho Chủ tịch họ Hồ và nhất định ngồi đợi. Hồ gọi điện thoại cho Giám đốc công an. Cả Giám đốc công an Bắc Bộ và Giám đốc công an Hà Giang cùng dẫn mười ba cán bộ quốc gia sang Bắc Bộ phủ. Vừa thấy mười ba người, họ Hồ đứng dậy ôm từng người, rơm rớm khóc, hỏi han, ôn lại vài nét thuở cùng hoạt động bên Tàu. Đặc biệt với chị Lý, ông Hồ vỗ vai, dặn dò bằng giọng cực kỳ ân cần như thể người anh cả xót xa căn dặn người em gái: “Sau bao năm hoạt động cách mạng hải ngoại, giờ đây đồng chí về nước, nhà còn mẹ già, xin đồng chí vẫn phụng dưỡng mẹ già nhưng chớ quên giúp đỡ cách mạng một tay trong công cuộc hoàn tất giải phóng và xây dựng đất nước, gặp gì khó khăn xin đồng chí cứ lên thẳng hỏi tôi.”

Cả mười ba cán bộ quốc gia (lần này con số mười ba thật hên) cùng với ông Tam đứng dậy chân thành cảm tạ và cúi chào chủ tịc họ Hồ trước khi ra về.

Ra tới cửa Bắc Bộ phủ, vào lúc sắp bước lên chiếc xe Citroen 15 cùng với mọi người, ông Tam sực nhớ còn bỏ quên chiếc mũ phớt nơi văn phòng chủ tịch. Tiết thu tháng Chín miền Bắc lạnh, ông Tam quay vội trở lại để lấy mũ. Ông đã phải đứng khựng trước bậc cửa! Từ trong văn phòng, tiếng Hồ chúng nó về đây?” Có tiếng lí nhí thưa lại của tên Trưởng ty công an Hà Giang, rồi tiếng Hồ lập tức sang sảng: “Mật lệnh của Đảng như thế nào? Tại sao mi không thủ tiêu ngay, còn giam giữ chần chừ để chúng nó có thì giờ can thiệp…” Ông Tam quay lại ngay, nhón gót nhưng rảo cẳng ra thẳng cổng, lên vội xe…

Như một người đương trèo cây trên đỉnh núi chói lòa ánh sáng, chợt vin phải cành giòn rơi hẫng xuống vực, sực tỉnh lạnh toát xương sống, ông Tam tự thấy bàng hoàng thấy rõ mãi mãi… mãi mãi về sau, cho đến ngày ông vĩnh biệt cõi đời, thấy rõ thế nào là Hồ Chí Minh, thế nào là Cộng sản. Không còn một chút ảo tưởng, sự thực trần trụi, bánh xe lịch sử quay nốt cái đà ưu thế tàn nhẫn cho Cộng sản. Vô phương! Ông thấy rõ như vậy!

Vào năm cuối cùng đời ông tại Sài Gòn, một lần ôn lại chuyện cũ với người bạn - vừa là bạn làng văn, vừa là đồng chí hoạt động cách mạng - ông Tam còn tự trách mình bằng giọng nhỏ nhẻ đặc biệt của ông, phải lắng tai lắm mới nghe rõ: “Tôi đã quá nghệ sĩ khi nhận xét người… tin người… ngày đó!”