← Quay lại trang sách

Chương 9 Hơi Mát

1

Anh Trung đi trình diện tháng 6-1975 rồi bị đưa tới Long Giao, Long Khánh, ở đó 5 tháng; chuyển tới Suối Máu, Biên Hòa, ở đây

6 tháng; anh bị chuyển một lần nữa, lần cuối cùng tới trại Xuân Phước, Tuy Hòa, ở đây cho tới ngày được thả về. Hay tin anh về hôm trước, hôm sau bằng hữu tới đông một lúc. Anh tính sổ ngay với bè bạn, kể từ ngày đi trình diện đến ngày được thả về: vừa ba năm, sáu tháng, một ngày. Câu chuyện khai vị của anh kể về đám người trên tàu Việt Nam

Thương Tín anh gặp hồi sống ở Xuân Phước.

Chỉ sau ngày 30 tháng Tư vài ba tuần, nhìn lính Việt cộng chiếm đóng canh gác Sài Gòn, nhìn đám “Cách mạng 30 tháng Tư” đón gió trở cờ hoạt động lăng xăng, nhìn lũ cán bộ nằm vùng xuất hiện, ráo riết tổ chức cơ sở quần chúng và huấn luyện chi đồng ca hát nhảy múa trên các đường phố, đường hẻm; người dân Sài Gòn đã thực sự ngao ngán thiên đường Cộng sản. Nghe tiếng phi cơ âm vang, người dân ngẩng nhìn bầu trời cao rộng, tiếc nuối tự do thuở nào cách đó không lâu mà dường như đã lùi vào dĩ vãng sâu thẳm. Trong khi Phượng rụng rời vì hay tin ông nhà văn còn ở lại Sài Gòn thì toàn thể Sài Gòn sững sờ khi hay tin đám người trên tàu Việt Nam Thương Tín từ vùng trời biển tự do bên ngoài hăm hở chui vào vùng lưới bủa vây sẫm màu khổ nạn. Trên tàu này hầu hết là sĩ quan Hải quân, cảnh sát và một số dân đã di tản trước ngày 30 tháng Tư. Được tập trung tại một địa điểm trên đất Mỹ, họ tuyệt thực phản đối thức ăn Mỹ phát, bảo là thức ăn cho chó. Họ phân phát báo chí phổ biến dư luận chống Mỹ trên khắp năm Châu, bốn biển. Đề cao tinh thần hòa hợp dân tộc tại nước nhà, họ phao tin là đã có tướng này tướng nọ hồi hương. Khí thế ngút trời, họ cương quyết khước từ mọi dụ dỗ ở lại đất Mỹ. Sau cùng người Mỹ đành huấn luyện thủy thủ đoàn điều khiển tàu vượt Thái Bình Dương, cung cấp đầy đủ áo quần, riêng về lương thực thì dư cho cả đi lẫn về nếu như gặp trục trặc không lên được đất liền.

Tàu Việt Nam Thương Tín đã vượt Thái Bình Dương an toàn. Khi cập bến Nha Trang, toàn thể những người trên tàu đã cử người chuẩn bị đọc diễn văn trước đại diện chính phủ. Báo chí đăng tin rầm rộ, nhiệt liệt hoan nghênh những người dân yêu nước đã sáng suốt tranh đấu quyết liệt để được hồi hương, một số thủy thủ đoàn được khen thưởng vì có công đem về cho tổ quốc một chiếc tàu của “ngụy quyền” cũ. Sự thực, khi tàu vừa cập bến Nha Trang, tất cả bị khám xét từ mái tóc đến gấu quần, khám xét không phải từng bao thuốc lá mà từng điếu thuốc lá, tịch thu hết đô la, vàng bạc, kim cương, đồng hồ, bút máy, các đồ trang sức… Nếu không được vinh dự như đoàn quân của De Gaulle trở về chiếm lại quê hương thì ít ra họ cũng là những người trở về làm sáng ngời tinh thần “hòa hợp dân tộc” của “cách mạng”. Nghĩ vậy nên mọi người đã thực tình phẫn nộ phản đối. Vô ích! Họ kinh hoàng tỉnh mộng: họ đã trót dại rời khỏi thế giới người để vào thế giới của cán bộ Cộng sản thuần thành, Đảng trên hết với những giá trị đạo đức hoàn toàn khác hẳn. Lời họ phản ứng thô lỗ hẳn, cử chỉ họ phản ứng khinh mạn hẳn. Vô ích! Cá đã vô lưới rồi! Chính sách Cộng sản chỉ có vậy. Cá đã vô lưới rồi thì cứ việc mà quẫy. Mệt ắt nghỉ thôi!

Tịch thu hết đô la, vàng bạc, kim cương, đồng hồ, bút máy, các đồ trang sức rồi, tới tin sét đánh: “Tất cả đều bị giam giữ!” Ngay đến cả loại ác mộng cay đắng nhất cũng không thể vượt mức trớ trêu như thế. Điều quái đản nhất là báo chí Hà Nội cũng như Sài Gòn của chính phủ - có tờ báo nào, dù là báo lá cải, là của tư nhân đâu - vẫn nhất tề ca ngợi, đề cao họ là những phần tử “ngoan cường” chống sự dụ dỗ của “đế quốc” đến cùng, lột mặt nạ “hiếu chiến, giả nhân giả nghĩa, cưỡng ép di tản của đế quốc” đến cùng.

Tất cả bọn họ đều bị giam giữ dưới danh hiệu: “Những kẻ đã trốn theo quân thù trở về nước trái phép.”

Bây giờ thì họ nhớ lại, và thực sự hiểu, thực sự tin những chuyện thời kháng chiến người dân quê có tiền, có ruộng, mổ bò, giết dê, giết lợn, đổ của ra nuôi quân “cụ Hồ” đánh đuổi ngoại xâm. Sau khi “cụ Hồ” đã bố trí được trọn vẹn vững chãi guồng máy vô sản đến tận gốc rễ nền móng, thì những kẻ đó lần lượt ra đấu trường chịu cực hình, khinh khi, xỉ vả, kể tội, để sau cùng bị tịch thu toàn bộ tài sản, bị tù đày, hoặc “đền tội” trước mũi súng.

Bây giờ thì họ hiểu quả thực đã có những sĩ quan kháng chiến vào sinh ra tử, góp phần chiến thắng Điện Biên, hốt nhiên bị còng tay đưa về nguyên quán xử bắn vì là địa chủ hay là con địa chủ.

Bây giờ thì họ thấm thía nhận rõ khuôn mặt thật của “Bác muôn vàn kính yêu”, Chủ tịch Đảng kiêm Chủ tịch Nhà nước đứng ra xin lỗi nhân dân trong phong trào sửa sai để kịp xoa dịu ngọn lửa công phẫn lúc đó đương hừng hực muốn nổ bùng thành trái bom nguyên tử tinh thần làm tiêu tùng hay thương tổn nặng tới sự nghiệp của Bác-Đảng.

Bây giờ thì họ thấm thía hiểu cả nghĩa đen lẫn nghĩa bóng câu thành ngữ đơn sơ cửa miệng “vắt chanh bỏ vỏ”. Nhưng muộn rồi!

Suốt thời gian lao động cải tạo tại trại Xuân Phước, hoặc vô rừng đốn cây, chặt củi, hoặc ở hiện trường gánh đất làm gạch, họ có thì giờ suy ngẫm sâu xa hơn để thấy tai họa họ gánh chịu còn nhẹ tênh so với đám người bị thảm tử trong phong trào cải cách ruộng đất năm nào, so với sức nặng phản bội mà cả dân tộc đã và đang phải gánh chịu do người Cộng sản Hồ Chí Minh và bầy Cộng sản chân tay thân tín của y chủ xướng, chủ mưu và thực hiện tròn đầy.

Anh Trung được họ tỉ tê tâm sự suốt thời gian cùng ở Xuân Phước. Một câu ai oán anh thường nghe họ nhắc đi nhắc lại: “Trời ơi, chúng tôi đã đến thiên đường rồi mà còn quay về với địa ngục ác quỷ!”

Câu chuyện khai vị của anh Trung đem lại hơi mát cho tâm hồn Phượng, vì Phượng biết những tâm hồn thuần hậu yêu lý tưởng đó, một khi bị Cộng sản phản bội càng trở nên trong sáng và cương nghị sau khổ nạn này.

Câu chuyện kể tiếp là chuyện một người vượt ngục đã trốn thoát một cách ly kỳ ngoài sức tưởng tượng.

2

Sau năm tháng ở trại Long Giao, Long Khánh, anh Trung được chuyển tới Suối Máu, Biên Hòa. Hai tháng đầu anh cũng vô rừng lao động cùng anh em. Một người bạn tù vào lúc sắp chết có trối trăng. Anh em cam kết sẽ chuyển bằng được những lời trối trăng đó về cho vợ con bạn, còn cúi xuống hỏi một lần cuối: “Anh còn điều gì muốn nói nữa không?” Người tù thì thào trong hơi thở nhẹ thoảng: “Xin cho tôi cục đường!” Anh em truyền tin nhau cố tìm ngay cho được cục đường. Rủi thay vào ngày quá xa kỳ thăm nuôi trước, lương thực dự trữ của mọi người đều khánh tận. Người bạn xấu số ra đi vĩnh viễn, mồm chẳng được ngậm cục đường.

Phượng chợt thấy đôi mắt mình ứa lệ từ lúc nào. Anh Trung kể tiếp:

- Hai tuần sau, một người bạn tù khác vượt ngục bị bắt lại. Anh để râu dài, bị lính tẩm xăng đốt. Mặt cháy phỏng, người tù thất thế vẫn lớn tiếng nói: “Các anh trước sau cũng không thể chống nổi chân lý đâu. Đứng sau chúng tôi là cả Thế giới Tự do!” Lập tức người lính dùng báng súng AK dầm đầu anh xuống, máu chảy ròng ròng từ gáy theo vết nhăn trên cổ, nhỏ giọt xuống đất. Dưới ánh sáng của Bác, Đảng, chủ nghĩa Cộng sản rõ ràng đã chiếm trọn miền Nam, kẻ bại trận từ chối tin tưởng đã là điều đáng bị trừng trị, huống chi lại lớn tiếng thóa mạ. Anh bị dầm đầu vào thùng phân trước khi đưa vào xà lim cùm chân, cố tình cho nhiễm trùng mà chết. May thay vào dịp anh Trung được tuyển tới làm việc tại bệnh xá cùng năm người bạn tù khác là bác sĩ Quân y. Anh Trung đã kịp thời can thiệp cho người bạn tù kia được kịp thời đi tắm rửa và bôi thuốc sát trùng lên các vết thương.

Trước khi dời phòng để chuyển tới ở hẳn bệnh xá, một bạn tù cùng phòng là Đại úy phản gián rất ít nói, bỗng lướt tới nói rất khẽ, rất nhanh nhưng rất rõ bên tai anh Trung. Kể cả mấy anh em đứng sát đấy cũng không ai nhận thấy điều đó. Lời người bạn Đại úy phản gián như rót vào tai anh

Trung: “Nếu có dịp phát thuốc cho anh Tính – tên người bạn tù vượt ngục bị bắt lại – tại xà lim, anh cố gắng bảo anh Tính lấy lòng đỏ trứng gà sơn lên mặt sẽ khỏi lẹ.” Anh Trung chưa kịp đáp, người bạn Đại úy đã lẩn về cuối phòng.

Anh Trung xách một ba-lô, một lẵng mây và một túi vải đựng đủ các thứ nhật dụng cùng áo quần chăn màn của anh xuống bệnh xá. Mãi tới bữa ăn trưa hôm sau, nhân dịp mở lon Guigoz muối vừng làm thức ăn thêm, anh Trung thấy nằm gọn trong đó hai quả trứng gà tươi từ bao giờ. Anh Trung biết bộ phận tù phụ trách chăn trâu bò, muôi heo, có nuôi thêm gà mái lấy trứng. Thoạt anh Trung cũng lười, chẳng buồn tự đặt câu hỏi anh Đại úy phản gián đã làm cách nào mua lại hai quả trứng đó mà nhét vào lon Guigoz muối vừng của anh. Anh chỉ giấu sẵn nơi túi khâu thêm phía trong cạp quần hai quả trứng đó.

Quần và áo phát cho tù, dưới ánh sáng trí tuệ của Bác-Đảng, không hề có túi để không thể đựng giấu thứ gì. Sáng hôm sau, anh có qua phát thuốc cho Tính tại xà lim, nhân lúc tên lính đeo súng đi theo, vô tình cúi xuống nhổ một cụm cỏ trên luống khoai lang, anh đã nhét vội hai quả trứng cùng mảnh giấy nhỏ ghi lời dặn dò vào miệng chiếc bị tay bỏ ngỏ với lời dặn cũng rất nhanh, rất khẽ là Tính hay theo đúng lời ghi trên giấy.

Ngay hôm sau, vào giờ những người trực của từng đội xuống nhà bếp lĩnh phần cơm chiều, một người bạn tù trong đội cũ đã khéo lạng bước ghé sát chỗ anh Trung, lúc đó đương vô tình đứng sau hàng rào bệnh xá. Anh bạn trực đó đã kịp truyền đạt: “Bữa ăn trưa mai anh cố xoay được một tảng cháy đen như than trên phần cơm của đội mình. Rất cần!” Vì bệnh xá ngay sát nhà bếp, nên anh Trung đã dễ dàng nhờ các bạn tù nhà bếp thực hiện cho điều sở cầu. Đồng thời cũng vào trưa hôm đó, sau khi đi phát thuốc cho các bạn tù về, anh thấy lọt vào kẽ tre đầu giường hai quả trứng gà tươi mới. Tới đây thì anh Trung thấy không cần phải biết ai trong đám bác sĩ Quân y hay những bạn tù phục vụ bệnh xá đã làm việc đó. Hôm sau, hai quả trứng mới đã tới tay Tính. Còn hai lần nữa anh Trung nhận được trứng tươi tương tự. Qua đi một tháng, Tính hoàn toàn lành vết thương mặt, không để lại một vết sẹo nhỏ. Tính đã nhiều lần quỵ xuống trong xà lim, nói nhỏ: “Lạy Chúa, Chúa đã cứu con!” – Tính là người Thiên Chúa giáo. Anh Trung cũng được biết thêm tảng cháy cơm đen như than đã cứu sống một anh bị kiết lị nặng có thể nguy đến tính mệnh. Cách chữa bệnh này cũng do anh Đại úy phản gián chỉ dẫn. Anh Trung hiểu tảng cháy đen đã cung cấp carbon-ganeden cho bệnh nhân.

Tính khỏi mặt và được tha về đội để cùng anh em hằng ngày đi lao động như cũ.

Căn nhà sáu anh em bác sĩ Quân y tù được ở tại bệnh xá dài khoảng 40 mét, rộng khoảng 6 mét, bốn bề đều có cửa, ba cửa khóa, riêng một cửa không khóa vì ăn thông sang nhà cầu. Cửa này là một tấm tôn nẹp trong khung gỗ, mỗi lần mở khép, tiếng tôn cọ xát kĩu kịt rất chói tai đến nỗi sáu anh em bác sĩ phải bảo nhau nếu có ỉa đái thì ỉa đái trước khi có kẻng ngủ để khỏi làm mất giấc ngủ của anh em. Căn nhà được chia làm bốn phần đều nhau theo hai đường ngang dọc chính giữa. Hai phần trong cùng, một bên để bốn chiếc cáng khiêng bệnh nhân chồng lên nhau, một bên là những hàng gạch xếp nghiêng bố trí thành ba cái bếp đun. Sát tường dựng một chiếc mễ tre thấp gãy một chân. Hai phần ngoài cùng là nơi ngủ của sáu bác sĩ Quân y tù. Anh Trung là tổ trưởng được chỉ định nằm ngay sát cửa tôn. Xung quanh nhà là tường tôn đóng sát mặt đất chỉ để hở khoảng năm phân cho gió lùa. Đèn bật sáng từ chập tối đến sáng.

Buổi trưa hôm đó sau khi đi phát thuốc cho bệnh nhân về, vừa bước vào khu bệnh xá, anh Trung hay tin người ta mới khênh tới một tù nhân tự sát tại trại đã được cấp cứu. Kẻ đó được thu xếp cho nằm ngay phần bếp phía trong cùng. Sáu bác sĩ ở đây vừa phụ trách săn sóc vết thương vừa chịu trách nhiệm canh phòng.

Anh Trung vô nhà, tiến tới sát giường bệnh làm bằng hai mảnh ván ghép kê trên hai chiếc mễ tre. Anh giật mình nhận ra người đương nằm thiêm thiếp đó là anh Đại úy phản gián.

Lúc sáu anh em bác sĩ Quân y cùng ăn trưa, tất cả tập trung những tin tức mỗi người lượm được, mới vỡ lẽ người bạn tù Đại úy phản gián đã tự tử vào lúc đêm tàn ngày rạng bằng một thanh tre cật dài một thước, vót nhọn bào mỏng như hệt chiếc lưỡi lê. Thanh tre đâm xuyên từ phía trước ra phía sau may không trúng tim. Người tự sát để lại ba bức thư tuyệt mệnh. Một cho cha mẹ, cúi xin cha mẹ hãy tha tội bất hiếu cho. Một cho anh em bạn tù, tha thiết khuyên tất hãy nêu cao gương học tập tốt, lao động tốt cho xứng đáng với sự khoan hồng của cách mạng. Bức thư tuyệt mệnh thứ ba viết cho Ban chỉ huy trại, ngỏ lời tha thiết cám ơn cách mạng – ý nói chính phủ - và Đảng đã rộng lượng khoan hồng cho đi cải tạo, nhưng tự xét mình đã làm phản gián trong bao nhiêu năm trường, lại từng tu nghiệp ở Okinawa, Nhật Bản hai lần, thì quả là không dung, đất không tha, làm sao mà mong cách mạng miễn cho khỏi chung thân biệt xứ, chi bằng tự xử lấy thân để minh xác lòng thành với cách mạng là hơn cả.

May thay mũi tre cật tuy xuyên từ trước ra sau không trúng tim mà chỉ chạm phổi chút ít, lại được biết kịp thời, nên cứu kịp. Cả ba bức thư tuyệt mệnh đều đã được Ban chỉ huy đọc cho tất cả tù nhân nghe vào lúc tập hợp tại sân trại buổi sáng trước khi đi lao động.

Mỗi lần tiến tới giường bệnh anh Đại úy, anh Trung đều ở tâm trạng ngập ngừng, chưa biết nên hỏi thăm ra sao. Nếu lại may mắn gặp lúc vắng chỉ có hai người, có nên tâm sự thân mật để gợi hỏi thêm về nhiều việc khác chăng? Nhưng mọi ngập ngừng của anh Trung đều thừa. Anh Đại úy thường xuyên ngủ li bì. Xốc nách dựng anh ngồi dậy thì anh ngồi dậy, cho viên thuốc vào miệng thì anh ngậm, đổ nước chiêu thuốc thì anh uể oải uống, khi đặt nằm xuống thì toàn thân anh rũ ra như chiếc giẻ rách. Lúc tiêm thuốc, cho uống thuốc và cho ăn thường có cán bộ chứng kiến. Cứ như vậy được hơn một tuần thì đến đêm 24-12-1976, đêm Giáng Sinh,

Ban quản lý cho phép tù nhân được thức khuya hơn chút ít, tổ chức uống trà ăn kẹo do tù nhân góp với nhau, dĩ nhiên được ca hát nữa nhưng phải là những bài hát… cách mạng.

Sáu anh em bác sĩ Quân y tại bệnh xá cũng tổ chức uống trà, ăn bánh kẹo và đồng ca vài bài. Thực ra anh Trung có thể đơn ca vì anh hát khá hay, nhưng dù yêu ca nhạc anh vẫn không sao tìm ra được bài ca cách mạng nào khích lệ anh đơn ca.

Người lính gác đeo AK đứng ngoài cửa hỏi lớn lần cuối cùng:

- Mấy giờ rồi anh?

Anh Trung, tổ trưởng đáp:

- Dạ mười rưỡi ạ.

- Thôi đi ngủ! – Người lính ra lệnh.

Cuộc họp vui đêm Giáng Sinh giải tán, mọi người lục đục giũ chiếu, mắc màn.

Hôm nào cũng vậy, thường khoảng bốn giờ sáng là anh em đã có người dậy đun ấm nước sôi pha trà, uống chén trà trong sương sớm trước giờ cùng mọi người theo lệnh còi ra sân tập thể dục tập thể.

Tiếng anh bạn xách ấm vào phía trong chuẩn bị đun nước thốt khẽ nhưng đượm vẻ hốt hoảng, kinh hoàng nữa:

- Không còn bệnh nhân nằm đây!

Anh Trung đương nằm lơ mơ – anh không khoái trà – nghe vậy bèn vùng dậy hướng vào phía trong, giọng kinh hoàng không kém:

- Cậu bảo gì?

- Không còn bệnh nhân nằm đây nữa.

Cả năm người từ phía ngoài cùng bước vội vào. Trên giường nằm, chiếc mễ tre gãy một chân vẫn dựng sát tường nay được đặt ngược và phủ chăn lên. Lính đi tuần các ca trước nhìn qua cửa sổ vô, tưởng người nằm bắt chân chữ ngũ đắp chăn.

Anh Trung, tổ trưởng, gắng lấy lại tối đa bình tĩnh, nói rất khẽ:

- Thế nào chúng ta cũng bị cật vấn từng người. Nguyên tắc phải chúng khẩu đồng từ, lời khai cực kỳ gãy gọn. Ca hát đến mười giờ rưỡi. Cán bộ hỏi lần cuối cùng. Mắc màn ngủ. Thức giấc bốn giờ sáng. Phát hiện mất bệnh nhân. Bệnh nhân trốn thoát khỏi bệnh xá giữa khoảng đó.

Một anh góp ý ngay:

- Chúng ta hãy gấp trở lại giường ngủ như không có gì xảy ra. Phải bàn kỹ thêm rồi thống nhất ý kiến. Lính canh chưa đi tuần qua đây ca này đâu.

Thông cảm ý kiến hay, mọi người trở lại giường nằm im phăng phắc như cũ. Rồi ý kiến thầm trao qua trao lại. Nhấn mạnh lời khai phải cực kỳ rõ ràng đơn giản, toàn những gì tai nghe mắt thấy minh bạch. Chỉ có một điều mọi người phải tự kỷ ám thị cho thành phản ứng tự nhiên là khoảng bốn giờ rưỡi sáng mới phát hiện ra người bệnh đã trốn thoát, chiếc mễ lật ngược phủ chăn giả người nằm.

Người phát hiện là anh Trung (nhân danh tổ trưởng anh nhận trách nhiệm đó) khi mang ấm thiếc vào đun nước. Như vậy họ có dùng Pentothal (Sérum de vérité) để khai thác tiếng nói tiềm thức thì mình cũng chẳng có gì để sợ.

Thực ra anh Trung vốn trực tính có sao nói vậy, nên hơi lúng túng khi sắp phải đóng vai giả vờ hô hoán phát hiện người mất tích – dù là hô hoán khi đứng một mình trong khoảng bếp vào lúc bốn bề trại vắng tanh. Đèn bệnh xá thì suốt đêm sáng trưng. May thay đúng lúc anh vừa xách ấm vào bếp thì bốn bề trại xôn xao những bước chân rầm rập, rồi có tiếng vọng từ ngoài, “Nó trốn trại!” Còn nghi ngờ gì nữa, đúng là anh bạn Đại úy đã không may bị bắt khi vừa thoát khỏi bệnh xá. Thế là anh Trung hô lớn rất tự nhiên:

- Báo cáo các anh người bệnh đã trốn khỏi phòng này!

Tiếng chân rầm rập đổ lại và tiếng hỏi tức khắc:

- Anh nói gì?

- Báo cáo anh người bệnh phòng tôi không còn ở đây nữa.

- Thêm một tên trốn trại nữa rồi!

Anh Trung sững người. Tiếng một cán bộ đứng giữa sân hô lớn để thông báo:

- Thêm một tên trốn trại nữa là hai!

Lúc đó thì hầu như toàn trại thức giấc và nhốn nháo.

Bỏ tập thể dục tập thể. Thỉnh thoảng có tiếng còi vẳng lại từ xa, thật xa. Bóng những người lính bước vội vã, đổ người về phía trước, thoáng về ngả này, thoáng về ngả nọ.

Sáu giờ sáng. Viên sĩ quan an ninh trên Ban chỉ huy ập tới cùng bốn người lính AK cầm tay lăm lăm. Thoạt y yên lặng đưa mắt quan sát nghiêm khắc quanh phòng. Sáu bác sĩ Quân y đứng ngồi tản mạn. Giọng viên sĩ quan an ninh sắt gọn:

- Anh nào là tổ trưởng?

Anh Trung đứng thẳng người giơ tay:

- Thưa tôi!

- Anh theo tôi lên phòng làm việc.

Anh Trung thấy thót nơi bụng và lâm râm buồn… đi cầu. Bao giờ cũng vậy, khi sắp phải đương đầu với cuộc thẩm vấn của sĩ quan an ninh Cộng sản, anh Trung vẫn có tâm trạng nửa ngán ngẩm, nửa chán chường như vậy, nhưng chỉ vào lúc đầu nhập cuộc thôi.

Khi tới phòng làm việc, anh Trung chưa kịp ngồi xuống chiếc ghế đẩu ngay trước bàn giấy, viên sĩ quan đã rút khẩu súng lục đặt mạnh trên bàn nói dằn giọng:

- Sinh mạng anh tùy thuộc ở lời khai của anh.

Anh Trung nghĩ trong đầu coi hôm nay như ngày giỗ của mình và anh xác định ngay thái độ bình tĩnh lì lợm bên trong, nhưng vẫn giữ đủ lễ độ bên ngoài để khỏi chọc giận vô lối “đám con cưng của chế độ” này. Anh dư biết chúng giết người không gớm tay, nhất là vào dịp chạm tự ái, thua mưu viên sĩ quan phản gián của mình. Anh bắt đầu trả lời những câu hỏi bằng giọng bình tĩnh, lời dẽ dàng, và luôn luôn lòng nhủ rằng lời càng ít càng tốt, cứ đúng chuyện thật mà nói, có sao khai vậy tất cả những gì đã xảy ra. Dù có bị đòn cũng không còn một chi tiết gì khai thêm và như vậy anh cầm bằng bị ba trận là cùng. Anh biết kẻ bị tra tấn mỗi lần phun thêm một ít có thể tiếp tục bị tra tấn tới chết. Anh khẳng định với viên sĩ quan an ninh là sau câu hỏi cuối cùng của cán bộ lúc mười rưỡi khuya đến bốn rưỡi sáng là lúc anh dậy đun nước sôi. Anh tránh nói pha trà để khỏi chọc giận “người vô sản” về thói quen hưởng thụ… “tiểu tư sản thối nát”.

Chợt viên sĩ quan hỏi:

- Đêm ngủ anh có ngáy lớn không?

Rất sáng suốt, anh hiểu ngay là câu hỏi gài bẫy. Nếu anh đáp “có” rất có thể bị hỏi lúc đó ai là người đánh thức anh dậy, như vậy liên lụy đến người bạn tỉnh ngủ. Vì vậy anh đáp:

- Đặt mình nằm là tôi ngủ vùi một mạch vì mệt.

Anh dự định nếu bị cật vấn thêm, anh cương quyết bám vào ý kiến ngủ vùi, không biết là mình có ngáy không. Nhưng viên sĩ quan ngừng hỏi ở đấy và để cho anh về bệnh xá. Năm người bạn cũng vừa phải đi làm bản tự kiểm về, mỗi người ngồi riêng một nơi cách biệt hẳn.

Thu thập tin tức, sáu anh em bệnh xá được biết hai người trốn trại đêm qua là anh bạn Đại úy bệnh nhân và Tính, người đã nhờ xoa mặt bằng lòng đỏ trứng gà mà lành mọi vết cháy phỏng trên mặt, không để lại một vết sẹo nhỏ.

Anh Trung loay hoay suy nghĩ suốt buổi trưa, thêu dệt trong trí sự gắn bó của hai người, một hào hùng, một mưu trí siêu tuyệt với cách dùng khổ nhục kế tự sát bằng thanh tre cật vót nhọn đâm xuyên người tránh không chạm phải tim. Anh thích thú ôn hình ảnh li bì và nằm như chiếc giẻ rách của tay cao thủ phản gián. Anh thích thú ôn lại nội dung ba bức thư tuyệt mệnh được đọc trước toàn trại buổi sớm nào.

Sau giờ nghỉ trưa, anh Trung lại bị gọi lên phòng việc viên sĩ quan an ninh. Lại tiếng đập bàn và quát tháo phủ đầu cho một cuộc chất vấn mới. Nhưng anh Trung vẫn giữ vững lời khai minh bạch trước. Anh nhấn mạnh căn nhà sáu anh em ngủ không ai thấy động tĩnh gì.

Bỗng viên sĩ quan đổi giọng hết sức ôn tồn:

- Anh là tổ trưởng, anh nằm ngay bên cánh cửa tôn, anh không bao che là sao nó trốn thoát. Thôi tôi để anh về suy nghĩ cho kỹ, lần sau gặp lại tôi ở đây mong rằng anh có thái độ khôn ngoan hơn, thành khẩn hơn với cách mạng.

Nhất quyết không cho anh Trung nói thêm một lời, y làm điệu cho anh về ngay để suy nghĩ lại cho kỹ những điều đã nói với y.

Trên đường về anh Trung tiếp tục suy nghĩ về hai người bạn tù vượt ngục, một hào hùng, một mưu trí siêu tuyệt, chắc chắn họ có bàn nhau trước, có hẹn nhau trước vào thời điểm đêm Giáng Sinh. Chao ôi, khổ nhục kế đâm xuyên ngực tính đúng đến ngày đó thì vừa bình phục để tới điểm hẹn, quả là mưu trí siêu tuyệt. Lạy trời cho hai người đó vượt thoát và bắt liên lạc được với lực lượng kháng Cộng bên ngoài.

Cả sáu anh em đã tỉ mỉ quan sát thật gần thật kỹ quanh phòng. Không một dấu vết đào đất phía dưới tường tôn để chui ra. Tấm cửa tôn quả thật không một lần cót két đêm qua, bên trong nhà cầu không một gợn thay đổi. Khoảng nửa đêm hôm

25 rạng ngày 26-12-1976, cả sáu người đương yên giấc, có tiếng gõ cửa gấp. Cả sáu hoảng hốt nhỏm dậy lúc cửa ngoài mở khóa, viên sĩ quan an ninh bước vô, giọng cực kỳ nghiêm khắc sắt gọn:

- Anh Trung!

- Dạ có.

- Anh theo tôi!

Tới phòng làm việc, đèn điện sáng trưng, viên sĩ quan hầm hầm nói với anh Trung:

- Tất cả những lời khai của anh đều láo khoét! Tôi đã đọc năm bản tự kiểm của năm người bạn củng phòng anh. Tôi đã được biết thêm một số chi tiết mới qua những lời khai của họ. Anh có nhiều liên hệ với tên bệnh nhân trốn trại. Anh ngồi đây, viết ngay cho tôi bản tự kiểm. Anh phải ghi rõ khoảng giờ này đêm qua anh làm gì. (Giọng y hạ xuống, dịu hẳn để đánh đòn tình cảm.) Anh hãy chứng tỏ lòng thành với cách mạng! Chúng tôi đánh giá lòng thành anh qua những dòng tự kiểm anh sắp viết.

Y trịnh trọng giao giấy bút cho anh Trung, trịnh trọng đặt lọ mực trước mặt anh Trung, rồi đi thẳng ra ngoài khuất dạng. Anh Trung viết bản tự kiểm y hệt những điều anh đã khai. Anh được phép trở về phòng khoảng ba giờ sáng, thực sự mệt đừ. Viên sĩ quan an ninh chỉ nhận bản tự kiểm anh trao mà không hề đưa mắt liếc qua một dòng. Trước khi cho anh về phòng, y nhắc lại, “Chúng tôi sẽ đánh giá lòng thành của anh với cách mạng qua bản tự kiểm này.” Và anh cũng đáp lại, “Tôi biết nếu khai gian, mình sẽ chết trước, tôi hoàn toàn khai báo thành thật tất cả những điều tai nghe mắt thấy.”

Và câu chuyện qua êm, anh không bị gọi đi làm việc thêm lần nào nữa. Hai người bạn tù đã trốn trại thoát không để lại quanh trại một tí vết tích gì. Thật thần sầu!

Cho đến ngày được tha về, kể lại chuyện đó cho bằng hữu nghe, anh Trung còn tỏ vẻ vô cùng thán phục cuộc trốn trại đó và ao ước sau này có ngày được gặp lại Tính và nhất là người sĩ quan phản gián hai lần tu nghiệp ở Okinawa.

Phượng nhiều nữ tính, Phượng sợ mưu cơ. Nếu người sĩ quan phản gián đó trốn trại một mình, Phượng sẽ khắc khoải trong viễn tượng hận thù đằng đẳng, nhưng Phượng đã được hưởng hơi mát vì người đó kín đáo cứu Tính khỏi chết vì nhiễm trùng, cứu người đồng đội khác khỏi chết vì kiết lỵ bằng những môn thuốc đơn giản có tính cách gia truyền của anh, nhất là khi trốn trại anh đã khéo bố trí trước để kéo theo người bạn đồng đội hào hùng của mình. Và điều sau cùng chính Phượng gợi ý cho anh Trung hay là người sĩ quan phản gián thông minh tuyệt vời đó, sau khi đã hoạch định kỹ chương trình, anh theo đúng y boong như một máy toán điện tử. Sự kiện anh tuyệt đối nằm li bì, nằm như giẻ rách chính là để tránh gây tai họa cho bất kỳ ai khác.

3

Câu chuyện thứ ba anh Trung kể không có những nét ly kỳ hồi hộp, nhưng chính vì vậy hơi mát Phượng hưởng hiền dịu mênh mông hơn. Vẫn là thuở anh ở Suối Máu, Biên Hòa, sau vụ hai người vượt ngục thành công chừng một tháng, một chàng thượng sĩ Việt cộng trên hai mươi tuổi được phân công cung cấp lương thực cho bệnh xá. Ngày đầu nhận công tác, anh tập họp toàn thể bệnh xá để nhắc lại khẩu phần mỗi nhân viên phục vụ bệnh xá, dù là bác sĩ, một đồng rưỡi một ngày, bệnh nhân ba đồng rưỡi một ngày. Giọng anh rõ ràng là cố lên gân hách dịch cho ra vẻ cán bộ nói với phạm nhân. Ngay chiều hôm đó, sáu anh em bác sĩ Quân y đương cùng nhau ngồi chuyện gẫu tìm hết lời lẽ cay chua phê bình chính sách quốc tế Cộng sản – chẳng riêng gì Việt Nam – hy sinh lẽ phải, hy sinh chân lý, hy sinh con người để bảo vệ ảo tưởng. Nơi nào chúng nắm chính quyền, chúng thẳng tay trừng trị, nghiền nát mọi biểu lộ ý chí đòi tự do tư tưởng; trong khi trên sách báo của chúng, trên diễn đàn quốc nội cũng như quốc tế, chúng không ngớt tự tuyên bố, tự đề cao chúng là lực lượng tiến bộ nhất, chiến đấu kiên cường nhất cho “tự do, dân chủ, dân quyền” thiêng liêng. Điều bất hạnh cho những nạn nhân đương thời và những nạn nhân trong tương lai của Cộng sản là nhân dân Thế giới Tự do nghe những lời tuyên bố ấy một cách nghiêm túc, tin tưởng nơi chúng có nhiệt tình như thế thật. Vừa lúc Thuận – anh thượng sĩ Việt cộng – xuất hiện, tiến tới. Dĩ nhiên sáu anh em chuyển sang đề tài khác vô hại. Anh thượng sĩ cười hiền lành, nhập bọn làm quen. Sau mấy lời khách sáo trao đổi phút đầu, anh vào đề ngay, tình cảm tỏa ra nơi lời nói, giọng nói thành thực đến nỗi cả sáu người nghe cùng chung một cảm giác ngỡ ngàng (trường hợp quá hiếm trong thế giới Cộng sản giả-dối-đã-thành-thiên- tính-thứ-hai):

- Em năm nay hăm hai các anh ạ, thuở học xong lớp Chín thì đi nghĩa vụ quân sự.

- Anh vào quân đội được hai năm chưa? – Một anh hỏi.

- Tháng sau là vừa tròn ba năm đấy. Ngoài Bắc, năm mười bảy đã phải đăng ký, năm mười tám đi khám sức khỏe, sau đó là được gọi bất kỳ lúc nào.

- Nếu là con một thì được miễn phải không anh? – Một anh khác hỏi.

- Như em biết nếu ở Hà Nội, nhà một con trai được miễn! Nhưng em ở miền quê Hà Nam Ninh thì không kể trai gái. Những năm quân số nam không đủ thì nữ được khuyến khích xung phong (sáu người bác sĩ Quân y hiểu ngay là chỉ định xung phong).

- Thôi nhé, tôi tới nói cho các anh biết vậy (sáu bác sĩ Quân y vừa kịp nhận có anh bộ đội khác vai đeo AK đi ngang qua). Các anh nhớ chỉ bệnh nhân mới được hưởng suất ăn ba đồng rưỡi một ngày, tất cả những người khác chỉ có một đồng rưỡi thôi.

Dứt lời, Thuận vội vã trở về văn phòng, không quên giơ tay chào anh bạn đồng ngũ vừa ngang qua.

Ba ngày sau, vào một buổi trưa lại có cuộc họp mặt đột nhiên tương tự. Lần này – và tất cả những lần về sau – Thuận luôn luôn cầm trên tay quyển sổ và chiếc bút chì để ngụy trang là đương làm việc kiểm soát về vấn đề thực phẩm với các phạm nhân. Dịp tâm sự kỳ hai này Thuận hỏi:

- Các anh có đói không? Anh Trung đáp ngay:

- Anh thấy đấy, toàn ăn bo bo với sắn mà cũng không đủ. Đói chứ!

Thuận nói khẽ:

- Tối nay phiên em trực, sớm mai khi mở cửa trại, em đã để cho các anh một gói ở góc hàng rào có bụi cỏ cao đằng kia, một anh nhớ ra mà lấy, thật kín đáo.

Sáng hôm sau, anh Trung tới góc hàng rào khoảng có bụi cỏ cao, quả nhiên thấy một bịch gói rất gọn, mang về mở ra thấy bên trong có khoảng ngót một ký gạo và một hộp sữa.

Lần gặp mặt buổi trưa với Thuận, anh Trung thay mặt anh em cám ơn và trả lại hộp sữa. Thuận gạt đi mà rằng:

- Các anh cứ dùng, đừng lo em mất phần, chả là kỳ này có mấy anh em vệ binh đi phép chưa về nên hàng phân phối dư, em được mua thêm.

Anh Trung bèn đòi trả tiền sữa thì Thuận nói mua giá cung cấp không đáng là bao. Lần đó, Thuận tỉ tê tâm sự với anh Trung là chính Thuận đã bỏ quê trốn lên Hà Nội trù tính tránh nghĩa vụ quân sự, nhưng Bí thư xã đã triệu tập toàn thể xã viên họp và công bố nếu Thuận không về trình diện kịp để thi hành nghĩa vụ thì gia đình Thuận sẽ bị cắt lương thực. Như vậy cũng thành tù giam lỏng vì lẽ không được cấp giấy phép di chuyển tới bất cứ đâu. Thuận đành phải về quê, thoạt đăng ký vào Thanh niên Xung phong tình nguyện đi phục vụ Trường Sơn. Một năm sau Thuận mới chuyển sang quân đội hẳn. Chính vì mấy năm phục vụ dọc theo Trường Sơn, Thuận bị sốt rét nặng. Anh Trung khám cho Thuận và thấy Thuận bị báng. Anh bèn ghi tên thuốc Fansidar trị sốt rét cho Thuận gửi mua tận Biên Hòa, anh tặng thêm Vitamine B12 bổ máu và một thứ thuốc bổ gan.

Quả thực, Thuận cư xử tốt với tất cả mọi người. Kỳ thăm nuôi nào mà anh em tù được Thuận đưa đi thì được nói chuyện thả giàn với người nhà, lĩnh đồ thả giàn, không hạn chế.

Thấy một anh bác sĩ Quân y đi guốc bằng gỗ đẽo lấy, Thuận gửi tặng một đôi dép râu; thấy một anh khác rách mướp, Thuận tặng hai chiếc quần đùi. Lương thực đựng trong bịch, thỉnh thoảng Thuận vẫn kín đáo để sẵn nơi góc hàng rào cỏ cao, có thể là đường, mè, đậu phọng kèm theo với ít gạo. Đồng thời câu chuyện tâm sự càng sâu xa hơn. Ông ngoại Thuận thắt cổ tự vẫn vào năm 1956 vì bị tố là địa chủ. Ít lâu sau, ông cậu Thuận đương là sĩ quan trong bộ đội cũng bị cắt đứt nhiệm vụ gửi trả về quê để chưa đầy một năm sau u uất mà chết. Đứa con gái lớn của ông cậu ngày đó đương phục vụ ngành Vật lý trị liệu tại bệnh viện Việt Đức cũng bị ngừng công tác. Lời Thuận kết thúc câu chuyện:

- Không thể sống tại miền Bắc được đâu, các anh ạ. Em nhất quyết rồi đây khi giải ngũ sẽ sống tại miền Nam. Em sẽ lấy vợ miền Nam, tìm cách đón thầy mẹ vào Nam. Không thể sống tại miền Bắc được đâu các anh ạ.

Ngừng một phút đầy suy nghĩ, Thuận ướm hỏi:

- Sau này em giải ngũ liệu các anh có thể giúp em tiếp tục việc học tại Sài Gòn được không?

Chính anh Trung đoan chắc với Thuận là dư sức giúp Thuận ăn, ở và học tại Sài Gòn. Đôi mắt Thuận sáng lên một cách vô cùng tội nghiệp, nói những lời thật chí lý mà ai cũng biết là Thuận đã suy đi nghĩ lại không biết bao nhiêu ngày tháng rồi:

- Em biết khi được giải ngũ phục viên, em mà về quê thì chỉ có đói, không sao nuôi nổi cha mẹ, mà cha mẹ cũng không sao cưu mang được em. Sức học em còn non kém quá, không học cao như các anh không làm được cái gì ra trò. Em phải học, học cao, các anh ạ. Mà làm sao em sống tại miền Nam, sống tại Sài Gòn có thể học cao cho được nếu không quen biết ai, không được ai giúp đỡ. Em nói thật, ngày sau em sẽ nhờ vả các anh đấy. Bây giờ em có thể giúp các anh, giúp bất kỳ ai, bất kỳ cái gì, là em giúp à!

Lại sắp có một vệ binh ngang qua, Thuận một tay cuộn quyển sổ, một tay giơ cao cái bút chì nói lớn:

- Thôi nhé, số gạo tôi phát cho bệnh nhân hôm nay như vậy là thừa nửa ký đó, ngày mai tôi sẽ trừ số đó.

Khi người vệ binh đi khuất, Thuận nói:

- Các anh cần mua cái gì cứ bảo em, dạo này em đi Biên Hòa luôn mà.

Kể từ đó, Thuận đã mua giúp mấy anh em ở bệnh xá nhiều thứ lặt vặt, như: trà, cà-phê, thuốc lá, kim chỉ… Mua bao nhiêu lấy bấy nhiêu, tuyệt đối không giữ lại tiền lẻ. Anh em ép Thuận lấy một số tiền nhỏ làm tiền uống nước, hút thuốc dọc đường, Thuận cương quyết khước từ. Chuyện tâm sự vẫn tiếp tục. Thuận thú thực thuở còn ở Trường Sơn vẫn cùng một số anh em lén nghe đài Mẹ Việt Nam và đài Gươm Thiêng Ái Quốc. Thuận rất khoái nghe bài “Giọt Mưa Thu” vẫn hát ở đài Mẹ Việt Nam, lời cũ được đổi thành lời mới để chiêu hồi. Một lần Thuận nói riêng với hai người bạn Quân y của anh

Trung, “Hai anh đừng trốn trại nhé, hai anh sắp được tha rồi đó, chính em được đọc danh sách.”

Cả buổi sáng Chủ nhật đó, mưa gió tầm tã tưởng như có bão rớt và có thể mưa gió mấy ngày liền như vậy. Nhưng không, quá trưa trời hửng nắng, Thuận tới bệnh xá rủ anh Trung sang bên trại Ban chỉ huy chơi, nói là để anh Trung biết số gạo sẽ phát cho bệnh nhân vào sáng mai, thứ Hai, nhưng kỳ thực cùng đi đào khoai mì luộc ăn. Cùng đi đào khoai mì với Thuận và anh Trung, còn thêm Toại, một vệ binh khác cũng là bạn thân của Thuận. Ăn khoai mì xong, ba người rủ nhau tới hội trường đánh ping-pong. Khoảng hai giờ rưỡi chiều, Thuận kêu đói và đề nghị với Toại đi nấu chè đậu xanh ăn, vì sau Tết, Toại còn một ít đậu xanh và Thuận còn một ít đường. Ba người ngừng chơi ping-pong để trở về thực hiện ý định ngay. Đi ngang qua một trạm gác cũ, cả ba thoáng thấy một con rắn khá lớn trườn mình chui vào phần đào sâu dưới đất của trạm gác, bên dưới và bốn bề đều lát loại tôn lợp sóng.

Thuận hăm hở cầm gậy đánh rắn dự định sẽ nấu cháo đậu xanh với thịt rắn thay vì nấu chè. Một tấm ván tôn lâu ngày mục để hở một lỗ lớn, con rắn bèn chui vào lỗ đó để ẩn mình phía trong một nếp sóng lượn của tấm tôn. Toại nói:

- Chúng ta ra gỡ lấy mấy trái lựu đạn trái khói quanh hàng rào kẽm gai ngoài bìa trại, rồi tháo ra lấy thuốc súng đốt hun khói lưu huỳnh, con rắn phải ra, bắt dễ ợt.

Thấy đi chơi chiều Chủ nhật đã muộn, và mình không thể theo đi gỡ lựu đạn, anh Trung từ biệt về trại nói là còn phải lĩnh phần cơm chiều. Khoảng bốn giờ, anh Trung xách thùng ra giếng vục nước tắm nghe có tiếng nổ lớn. Nhìn sang phía trại Ban chỉ huy, anh thấy một cột khói mỏng bốc lên. Tắm giếng về thì vừa có người bên trại chạy sang cầu cứu “bác sĩ ngụy”. Anh Trung theo đi ngay, tới nơi mới hay nạn nhân bị lựu đạn nổ vừa rồi là Thuận và Toại. Quân y đơn vị vẫn chưa có ai tới, Thuận còn nằm oằn oại trên khoảng cỏ, mặt mày cháy đen, tay mặt cụt còn thấy sợi gân dài đong đưa, tay trái đứt mất ngón giữa và ngón đeo nhẫn, đôi mắt mở trắng dã không còn lòng đen, miệng rên la nhưng máu chảy ít; trái lại Toại nằm ngay bên rên la ít, nhưng máu chảy nhiều. Một anh bạn bác sĩ Quân y cũng vừa tới phụ trách Toại. Anh Trung giật vội sợi dây thun đen ở một chiếc xe đạp gần đấy, buộc quanh cổ tay cụt của Thuận để cầm máu. Thuận tỉnh, rất tỉnh, ngừng rên la, mắt vẫn trắng dã hỏi:

- Ai đấy? Ai đấy?

Nghe và nhận ra tiếng anh Trung đáp, Thuận rên la ảo não:

- Em chết rồi anh ơi, hôm nay là ngày hai mươi ba, ngày cuối cùng của đời em. Cha mẹ ơi, ngày hôm nay con sinh Bắc, tử Nam mất rồi. Anh Trung ơi, tay em đâu? Sao em cảm thấy em không còn tay nữa?

Anh Trung vội nắm lấy tay trái Thuận đương muốn chụp lấy tay mặt. Vừa lúc người ta khiêng hai tấm phản tới, một cho Thuận, một cho Toại. Trong khi khiêng cả hai về Tiểu đoàn Quân y K16 của họ, anh Trung luôn luôn đi sát bên tấm ván cáng

Thuận, luôn luôn trấn an, nói dối tay mặt Thuận còn nguyên, anh Trung sẽ đích thân săn sóc, Thuận sẽ khỏi, không phải sinh Bắc, tử Nam đâu. Tới Tiểu đoàn Quân y K16, anh Trung sửa lại, băng lại vết thương cho Thuận trong khi Thuận không ngừng nhắc đi nhắc lại xin anh Trung đừng bỏ Thuận. “Em chết, em chết hôm nay, anh ạ. Em đã quá vụng dại mở trái lựu đạn rỉ.”

Anh Trung đề nghị bên Quân y đưa Thuận và Toại đi Biên Hòa để tiếp máu tức khắc, nhưng phải qua những thủ tục chuyển thương binh, thủ tục chẩn đoán, làm bệnh án, nên máu mất nhiều đã tới mức Thuận hôn mê. Xe từ Biên Hòa vô, trời vừa chợp tối. Từ lúc hôn mê tới lúc đưa lên xe dời khỏi trại Quân y, Thuận chỉ còn rên rẩm kêu cha, gọi mẹ.

Dĩ nhiên anh Trung và người bạn bác sĩ Quân y không được theo đi Biên Hòa. Hôm sau hay tin Thuận chết, còn Toại có cơ cứu sống.

Hai tháng sau Toại bình phục nhưng thành tật tay phải. Hai người bạn Quân y của anh Trung được thả, đúng như Thuận đã báo cho hay trước. Sau đó ít bữa, anh Trung được chuyển tới trại Xuân Phước, Tuy Hòa...

Đồng hồ dưới nhà rãi rệ điểm ba giờ sáng, Phượng còn ôn lại vài chuyện vui bông lơn anh Trung kể xen kẽ vào tấn bi kịch về cái chết của Thuận. gác:

Có người đứng nghiêm nói lớn trước chòi

- Báo cáo anh, tôi đi cầu.

Anh vệ binh không rõ sinh trưởng nơi nào miền Bắc ngẩn người hỏi lại:

- Làm gì có cầu mà đi!

- Báo cáo anh tôi đi ngoài!

- Ai cho phép anh đi ra ngoài!

- Báo cáo anh tôi đi… đi ỉa.

- Đi!

Sau vài vụ kế tiếp “Báo cáo anh tôi đi ỉa” nghe không thích hợp với nếp sống văn hóa mới, các anh em vệ binh “cán ngố” sau một buổi họp đả thông bèn đồng ý ra lệnh mỗi khi phạm nhân xin “đi ỉa” thì nói “Báo cáo anh, tôi đi ngoài”.

Một buổi trưa oi nồng, anh vệ binh mệt mỏi đương ngủ gà ngủ vịt trong chòi canh thì có tiếng một phạm nhân vừa tới:

- Báo cáo anh tôi đi ngoài.

Anh vệ binh vẫn ngủ gà ngủ vịt.

- Báo cáo anh tôi đi ngoài.

Nắng chính ngọ đổ xuống chói chang. Anh vệ binh vẫn ngủ gà ngủ vịt. Cả vùng nóng hừng hực.

- Báo cáo anh tôi đi ngoài.

Anh vệ binh giật mình sực tỉnh:

- Gì?

- Báo cáo anh tôi đi vô.

- Sao? Vừa xin đi ngoài mà.

- Báo cáo anh, tôi… ị ra quần rồi.

Nguyên do dạo đó trại đương có dịch kiết lị, có anh một ngày đi ngoài đến hai mươi lần...

Phượng đã thiếp ngủ khoảng ba giờ rưỡi sáng. Phượng chìm vào giấc ngủ thăm thẳm không khác gì Thuận đi vào giấc ngủ thăm thẳm của sự chết, nhưng kẻ ngủ cũng như người chết cùng yên tâm, vì quả thực, hơi mát thăm thẳm của tình người vĩnh viễn còn đó bao phủ lấy sự sống – dù hiểm nguy, dù khắc nghiệt đến mấy!