Chương 10 Biển Trời Vằng Vặc
1
Mãi tới khoảng ba giờ rưỡi sáng Phượng mới ngủ thiếp đi, nhưng giấc ngủ say
êm thoải mái, yên tĩnh nên khi Phượng thức giấc – lúc đó khoảng hơn bảy giờ sáng – Phượng thấy khỏe khoắn hẳn, tuy lòng có nhói buốt với ý nghĩ đầu tiên: “Hôm nay phải chăng ngày cuối cùng mình còn được sống trên dải đất quê hương?”
Xuống nhà rửa mặt, gục mặt kỹ vào chậu nước lạnh, rồi trở lên căn gác xép, Phượng thấy yên ổn vô cùng dù hôm nay có là ngày cuối cùng được sống trên dải đất quê hương. Sau bữa ăn sáng, sau bữa ăn trưa, sau bữa ăn chiều, rồi tới mười giờ khuya, ra bãi xuống ghe, ra khơi… Có thể gặp bão thuyền lật, táng thân nơi bụng cá… Có thể chết đói, chết khát, lênh đênh trên mặt biển nhiều ngày trước khi thuyền ụp… Có thể gặp hải tặc, ôi, hải tặc Thái Lan, nỗi hãi hùng của nữ giới Việt Nam khổ nạn khi bước chân xuống ghe vượt biển… Nhưng cả ngày hôm nay Phượng dành cho kỷ niệm những buổi gặp lại, đàm đạo với ông nhà văn. Ông ta được tha sau anh Trung hơn một năm – dĩ nhiên do nhỏ bạn báo cho Phượng hay và nhỏ bạn mang Phượng tới giới thiệu. Nhỏ bạn bao giờ cũng như nhìn thấu tâm can Phượng.
Biển trời vằng vặc gương nga
Long lanh soi tỏ lòng ta lòng mình
Phượng đọc thầm câu thơ của chính Phượng làm ra để tặng thầm nhỏ bạn.
Ôn lại kỷ niệm gặp gỡ và đàm thoại với ông nhà văn thì cũng như đi vào vùng biển trời vằng vặc gương nga, Phượng không còn lo gặp phải những gì dằn vặt, bực bội, nhơ nhớp, nghẹt thở.
Thật phúc đức! Thật phúc đức! Ngày cuối cùng sống trên dải đất quê hương theo đúng thứ tự thời gian, Phượng chỉ còn kỷ niệm với ông nhà văn để ôn lại.
Giai thoại về thời ông ta bị cầm tù thiếu gì, lẫn vào với hàng trăm giai thoại của các văn nghệ sĩ, chính khách khác. Nhiều giai thoại dễ thương đến nỗi Phượng ngờ là hoang đường, những giai thoại làm ấm lòng biết bao người khác, gồm cả những người còn trong tù, những người đã được thả và những người không hề bị bắt giam. Phượng ôn lại chuyện sau cùng về ông ta sát nút với ngày ông sắp được trả tự do. Chuyện đó thoạt Phượng chỉ được nghe loáng thoáng, sau đó được chính ông ta bổ sung với bằng hữu cho có đầu có đuôi khi ông đã được trả tự do.
Buổi sáng hôm đó ông ta cùng toàn thể anh em đã chuẩn bị ra hiện trường lao động, thì cán bộ quản giáo tới cho ông nghỉ, rồi đưa ông lên hội trường. Y lên tiếng trước:
- Có một phái đoàn tìm gặp anh.
- Phái đoàn nào vậy, cán bộ?
- Phái đoàn những người ngoại quốc.
- Tôi nào biết đó là phái đoàn gì.
- Anh được phép gặp nói chuyện với phái đoàn đó.
- Tôi không tới gặp đâu, cán bộ.
- Anh bỏ đặc ân đó à?
- Gặp những người đó tôi nói gì? Là một tên tù không được đưa ra tòa án, không biết mình sẽ bị giam giữ đến ngày nào, tôi làm sao ca ngợi sự giam giữ đó? Còn đứng ra nói xấu chế độ, làm sao cán bộ để cho tôi yên?
Lời qua lời lại, lần này thì rất ôn tồn, nhưng rút cục ông ta cương quyết không chịu gặp phái đoàn ngoại quốc nào đó. Cán bộ quản giáo đành để ông ta về phòng. Buổi chiều ông lại ra hiện trường lao động như thường. Bỗng ông lại được gọi tới gặp cán bộ quản giáo. Y nghiêm giọng: tiếng.
- Anh phải tới gặp phái đoàn ngoại quốc đó!
- Gặp làm gì, vô ích, cán bộ.
- Anh không tới gặp họ, chúng tôi mang
- Đành vậy, cán bộ. Thà như thế còn hơn làm phiền cán bộ về nhiều khía cạnh khác.
Tên cán bộ quản giáo sẵng giọng:
- Thôi anh trở lại hiện trường lao động!
Lần thứ ba vào sáng sớm hôm sau, cán bộ quản giáo tới sẵng giọng hơn:
- Anh theo tôi đi làm việc!
Ông ta lẳng lặng theo y. Quái sao y không đưa ông tới văn phòng mà lại tới nhà gặp thân nhân và nhận đồ thăm nuôi. Y ẩn cánh cửa khép hờ. Phái đoàn ngoại quốc đã có mặt trong đó: ba người Âu – hai nữ, một nam – và một người Ấn Độ thì phải. Chỉ một thoáng giây ông ta hiểu, và cũng chỉ trong thoáng giây đó, ông hoạch định chương trình đối phó, đường lối đóng kịch, v.v… Ông đứng khựng làm bộ hơi lùi lại chút ít, vẻ mặt thản nhiên nhưng nói khẽ:
- Tôi không vào đâu, cán bộ.
Người cán bộ cũng nói khẽ và cũng cố giữ vẻ như không có gì xảy ra dưới bốn cặp mắt ngoại nhân đương từ phía trong chằm chằm nhìn ra:
- Anh hãy vô.
- Không, vô ích, cán bộ.
Người cán bộ ẩn mạnh ông ta tiến lên, nói khẽ hơn, nhanh hơn, nhưng cũng sắc gọn hơn:
- Anh phải gặp, chúng tôi để anh nói một mình mà.
Viên cán bộ sợ ông ta còn làm một cử chỉ gì từ chối gặp mặt khiến “chính quyền cách mạng” mang tiếng nên đã vội khép cửa lại, bước vội xuống sân, đi vội ra xa.
Sự việc đã xảy ra đúng ý ông mong muốn, ông vừa kịp khẽ cúi đầu chào những người bạn ngoại quốc thì người phụ nữ Âu đầu tiên bước tới. Bà ôm lấy ông, khuôn mặt bà giữ nguyên vẻ bình tĩnh nhưng ánh mắt cực kỳ thương cảm, bà cuối xuống hôn nhẹ lên hai bên má ông. Bà nói tiếng Pháp – bà là người Pháp:
- Chúng tôi là phái đoàn của Hội Ân xá Quốc tế gồm một bà Pháp, một bà Anh, một bà Sri Lanka (Tích Lan) và một ông Thụy Điển.
Ông ta giữ nguyên nụ cười lịch thiệp, nhưng bằng cử chỉ lưu ý mọi người chú ý chiếc bình bông miệng lớn đặt giữa bàn cắm cả một cụm cúc rừng, loại cúc mọc đầy dẫy tại địa phương này vào mùa này. Hai tay ông cầm hai bên miệng bình lắc lắc đều: bình không có nước nhưng nghe rào rạo có cái gì ở đáy bình. Nếu quả chúng có đủ phương tiện đặt máy ghi âm - ông nghĩ thầm - ở đáy bình thì cứ nên lắc lắc như vậy.
Ông bê chiếc bình đặt tới trước ông Thụy Điển làm hiệu nhờ ông tiếp tục lắc bình suốt thời gian nói chuyện. Ông ta bắt đầu vào đề ngay, ông nói tiếng Pháp, nói rất nhanh theo thể điện tín, lược bỏ hết những từ rườm rà, những ràng buộc văn phạm. Lời nói hối hả nhưng vì thế mà thật gắn bó, chân thành, ông nói về các tù nhân bị cư xử bất chấp – en dépit de tout sens commun – về thảm cảnh tù nhân luôn luôn từ khổ cực này sang khổ cực khác, tồi tệ hơn, đến mất tinh thần, đành nuốt nhục – tomber de mal en pis jusqu’ à perdre contenance – doivent se contenter d’avaler les affronts. Ông ân cần nhắc rằng phái đoàn đương ở vương quốc điêu ngoa, thường xuyên giả nhân giả nghĩa nhưng chính là nỗi kinh hoàng cho tất cả.
– C’est ici le Royaume de Mensonges, vous y arrivez! Toujours fait – il le bon apôtre. Le régime – la Terreur elle – même de tous! Il vole sa promesse à tout temps…
Cũng bằng một thể Pháp văn điện tín chớp nhoáng tương tự, bà người Pháp cho ông hay là kỳ này Hội Ân xá Quốc tế xin ân xá cho một nhà văn – tức ông ta – một nhà báo và một nhà thơ. Phái đoàn mới tiếp xúc được với nhà văn và nhà báo, còn nhà thơ nghe đâu chết rồi thì phải, vì lời họ giải thích xem ra lúng túng lắm. Bà cho hay thêm: đổi lại với ba người này, sẽ có ba chục người tù Cộng sản Nam Dương được chính phủ Nam Dương phóng thích, một đổi mười, do ông bạn người Thụy Điển đây đã đứng ra làm trung gian dàn xếp xong.
Tới đây ông nhà văn quay sang nói với bà người Tích Lan, luôn luôn bằng tiếng Pháp:
- Thưa bà, chúng tôi tha thiết muốn thốt lời hiếu sinh, khoan hòa, nhưng còn có điều tệ hại hơn cái Ác nữa, đó là biết cái Ác mà không một lời tố cáo!
Bà người Tích Lan dùng hai bàn tay hiền hòa nắm lấy hai cổ tay gầy guộc của ông nhà văn, đáp:
- Chúng tôi biết thái độ tố cáo cái Ác của ông không hề mang ý hướng căm thù mà chỉ là dọn đường cho cái Thiện.
Ông nhà văn tiến thêm một bước cúi chào bà người Anh, tuy nói với bà nhưng vẫn là nói với tất cả:
- Thưa bà, bí quyết của người Cộng sản là họ tự giải thoát khỏi gánh nặng của liêm sỉ và lòng nhân, do đó họ thênh thang thực hiện những điếm nhục, những tội ác hỏa ngục nhưng lại phủ lên bằng những danh từ thiên đường, hoa mỹ.
Bà người Anh ưu ái nắm lấy hai bàn tay ông nhà văn đáp:
- Xin ông yên tâm, chúng tôi biết mà! Dư luận bên ngoài đã mệnh danh những trại cải tạo như thế này là “trại chết mỏi mòn” còn nham hiểm, tàn khốc dã man hơn chế độ diệt chủng tại Cao Miên.
Tới đây ông nhà văn hướng lời đáp lễ tới người cuối cùng của phái đoàn – ông người Thụy Điển – câu nói dài hơn cả, nhanh hơn cả, vì tới đây đã có đà nói và đủ thời giờ sắp xếp tâm tư:
- Thưa ông, chúng tôi vẫn chiêm ngưỡng nền luân lý khoáng đạt của Bắc Âu mà chúng tôi nghĩ phải sang thế kỷ XXI nhân loại mới có thể theo kịp. Vâng, chúng tôi tin rằng yêu con người là yêu Thượng Đế, đồng hóa với Thượng Đế để những quyền năng sáng tạo tuyệt vời nơi Thượng Đế được biểu lộ qua chính mình. Hẳn quý vị cũng như chúng tôi tin tưởng rằng con người khi đã tiến bộ thì không thể thoái bộ…
Ông Thụy Điển không thể ưu ái nắm lấy cổ tay ông nhà văn, vì ông phải thường xuyên lắc bình hoa, nhưng vì thế mà giọng ông càng nồng nàn:
- Vâng vâng, không một cường quyền bạo lực nào có đủ khả năng bắt con người thụt lùi từ tự do trở về nô lệ, từ yêu thương trở về căm thù, từ trí sáng trở về ngu đần, từ khoáng đạt thanh khiết trở về chật chội hôi nồng.
- Bởi vậy – lời ông nhà văn tiếp ngay – chúng tôi, những người cầm bút phụng sự mọi ngành văn hóa, bất chấp sự kiện đem ngòi bút chọi với súng, chọi với cả guồng máy công an bạo quyền như thể đem trứng chọi với đá, chúng tôi cương quyết duy trì sức vùng vẫy của sáng tạo để góp phần chiếu sáng tâm linh nhân loại. Thái độ chúng tôi luôn luôn thành khẩn giữ vững là: cương nghị, dũng mãnh, nhưng hiền hòa. Chúng ta là những nhà văn hóa mà, thưa quý vị.
Tới đây ông nhà văn cúi xuống bê bình hoa đặt lại chỗ cũ giữa bàn, ông Thụy Điển cũng tiến tới và tiếp tục lắc bình ở tư thế đứng, trong khi ông nhà văn nói:
- Thôi câu chuyện của chúng ta tới đây xét ra tạm đủ, chẳng nên kéo dài bất lợi.
Ba người đàn bà tiễn ông nhà văn ra cửa, ông Thụy Điển tiếp tục lắc bình hoa. Mọi người liên tiếp, liên tiếp nối lời nhau một lần cuối.
Ông nhà văn: Thưa quý vị, không một người Việt Nam nào dù còn trong nước hay đã ở hải ngoại mà không nặng lòng ưu tư và chua xót nghĩ rằng rồi đây phải biết bao thế hệ chung lưng góp sức nhau mới mong xây dựng lại được lâu đài nhân bản truyền thống mà cha ông chúng tôi đã đời này qua đời khác gây dựng nên cho đến ngày dân tộc chúng tôi bất hạnh rơi vào họa Cộng sản.
Bà người Pháp: Xin ông yên tâm, chúng tôi luôn luôn kịp thời tố cáo và phản đối mọi hành động phạm nhân quyền của họ ngoài xã hội cũng như trong lao tù!
Bà Người Anh: Chúng tôi cũng đã kêu gọi quốc tế tích cực lưu tâm tìm mọi biện pháp ngăn chặn hữu hiệu giúp những người khốn khổ vượt biên về nạn hải tặc Thái Lan cướp của, hãm hiếp…
Bà Người Pháp: Ông cũng biết đấy, hơn ba mươi năm trước đây nước Pháp tôi đã có André Gide, nước Hung có Arthur Koestler lột trần mặt nạ Cộng sản. Rồi vào những thập niên 50 và 60, Hung và Tiệp nổi lên.
Bà Người Tích Lan: Sau ngày 30 tháng Tư năm 75, không riêng gì ở Tích Lan chúng tôi, mà cả thế giới đều biết thêm một trại tập trung mênh mông tại Đông Nam Á.
Ông nhà văn (thoạt bắt tay bà người Pháp): Thưa quý vị, mặc dầu chúng tôi không quên cuộc sống chẳng sao tránh được phải pha chút đắng cay, nhưng vẫn xin được lưu ý quý vị chúng tôi đã thụ nạn trên cây thánh giá của sự sống quá một phần tư thế kỷ rồi, tính từ 1945 đến nay. (Ông buông tay bà Pháp để bắt tay từ giã bà Tích Lan.) Vâng, thụ nạn trên một phần tư thế kỷ dưới ách một chính sách độc hại, tồi tệ nhất thế giới, có sức tàn phá, hủy diệt hắc ám nhất thế giới. Nhưng chúng tôi cũng như bất kỳ một đoàn thể nhân loại nào không may sa vào ách thống trị loại đó đều cố chịu đựng tìm cho ra cách đương đầu thích ứng để trường tồn. (Ông bắt tay từ biệt bà Anh.) Khả năng thích ứng và chịu đựng không biết đâu là bờ bến đó, chúng tôi nghĩ rằng không đặc biệt của riêng dân tộc nào, mà là đức tính chung của nhân loại trên bước đường kỳ khu bảo vệ sinh tồn cho chính mình. (Ông hướng vào phía trong, cúi chào ông Thụy Điển.) Chúng tôi hiểu vậy để tự giải cứu, quý vị hiểu vậy để giúp chúng tôi tự giải cứu. Xin chân thành cảm tạ quý vị.
Bà Người Pháp (không dấu niềm xúc động, đôi mắt rưng rưng vẫy chào ông nhà văn lần cuối khi ông bước xuống sân): Thế nào ông cũng được thả tự do, ông bạn yên chí, một đổi mười đó!
Người cán bộ quản giáo đã xuất hiện. Cuộc nói chuyện cô đọng và gấp gáp kéo dài khoảng hai mươi phút là cùng. Ông nhà văn định bụng hễ cán bộ quản giáo hỏi về nội dung cuộc đàm thoại, ông sẽ nói là phái đoàn phỏng vấn về sức khỏe, về thời khóa biểu lao động hằng ngày, sinh hoạt hằng tuần của phạm nhân trong trại. Nhưng suốt trên đường về, y lầm lũi đi, ông lầm lũi theo, không một lời trao đổi!
Hôm sau ông nhà văn được đưa lên bệnh xá gọi là nằm dưỡng bệnh.
Hai tuần sau ông được gọi lên hội trường cùng hai mươi hai người nữa học tập chính trị trước khi được tha. Cán bộ nhấn mạnh: “Đã được chính phủ khoan hồng, về địa phương phải tiếp tục tốt. Vật giá bên ngoài có gia tăng đấy, công cuộc tiến tới xã hội chủ nghĩa có gặp khó khăn, nhưng đó chỉ là nhất thời. Được về đoàn tụ với gia đình, chớ theo bọn phản cách mạng, rủi bị bắt lại thời gian giam giữ có thể tăng gấp đôi.”
Kế đó, mọi người đi cân, đo, ghi dấu vết đặc biệt trên mặt như thể làm thẻ căn cước vậy. Mọi người được phát tờ khai lý lịch mới để điền vào. Kèm với tờ lý lịch là tờ cam kết khai báo thường xuyên với “cách mạng” về những tổ chức “phản động”.
Ngày ông nhà văn cùng số anh em rời khỏi trại, khi quay nhìn lại hiện trường, ai nấy cùng chung cảm giác: quả thực được tha thế này là một may mắn vô cùng hi hữu. Toàn trại khoảng sáu ngàn người, được tha lèo tèo có hai mươi ba người.
2
Riêng với ông nhà văn, trước ngày thả hai hôm, một cán bộ từ Hà Nội vào tìm gặp ông. Đó là người cán bộ duy nhất có tầm vóc trí thức ông được gặp suốt mấy năm bị giam giữ. Ông linh cảm người cán bộ trí thức đó được trung ương ủy tới sinh hoạt riêng với ông để đả thông một số trở ngại tư tưởng trước khi thả, nhưng rồi cuộc đàm thoại được hút sang một quỹ đạo khác, lời lẽ đôi bên thủ thỉ như chuyện tâm tình.
Người cán bộ trí thức: Tôi hy vọng rồi đây khi về với xã hội tự do bên ngoài, anh có dịp đọc kỹ hơn về biện chứng pháp duy vật.
Ông nhà văn: Tôi rất mê, thưa anh, biện chứng pháp, nhưng tôi cương quyết khước từ cái đuôi duy vật gán thêm vào phía sau cho nó.
Người cán bộ trí thức: Anh hiểu biện chứng pháp là như thế nào?
Ông nhà văn: Tôi hiểu là bao gồm, dung hóa được hai chiều có bề ngoài rõ ràng mâu thuẫn, đối lập nhau. Mình sinh ra và sống riêng biệt, nhưng đồng thời cũng là một thành phần không thể chối nhận, chối bỏ được của toàn thể, gần là xã hội quốc gia, xa là xã hội quốc tế, xa hơn nữa là vũ trụ hiện hữu. Mình và tha nhân và vũ trụ hiện hữu ảnh hưởng qua lại nhau trùng trùng điệp điệp. Anh có đồng ý?
Người cán bộ trí thức: Thì anh há chẳng vẫn thường nghe chúng tôi chủ trương: “Một người cho mọi người, mọi người cho một người.”
Ông nhà văn: Đúng vậy, thưa anh, một và tất cả nương tựa vào nhau, hòa hợp với nhau trên dòng sinh tồn biến dịch. Theo tinh thần hai chữ “biện chứng” như tôi vừa trình bày cùng anh thì chúng ta sẽ hoàn toàn tự mâu thuẫn nếu chúng ta ghép thêm cho nó cái đuôi duy tâm hay duy vật. Tâm hay vật có đây nhưng vẫn là một, nương vào nhau, bao gồm nhau, biến hiện nơi nhau, biến hiện thay nhau. Khoa học ngày nay, anh thấy đó, há chẳng đã minh chứng: vật chất là năng lượng ở thể cô đọng tối đa, và năng lượng là hóa thân của vật chất nở dãn trang bùng nổ.
(Cũng là do phản ứng tự nhiên để bảo vệ cái gì cố hữu của lập trường mình, người cán bộ trung ương lái câu chuyện sang một hướng quen thuộc.)
Người cán bộ trí thức: Dầu sao chúng ta cũng phải cảnh giác tránh mọi tự do cá nhân cực đoan có hại đến sinh mệnh tập thể.
Ông nhà văn: Chính vậy, chính vậy! Tôi hoàn toàn đồng ý với anh ở điểm đó và xin phép được nhấn mạnh thêm một lần nữa: cá nhân với xã hội là một. Cá nhân với xã hội tương quan mật thiết với nhau trên dòng sinh hóa biến dịch không ngừng. Không thể hy sinh cá nhân cho đoàn thể, bởi làm gì có đoàn thể không có cá nhân, cũng như không thể hy sinh đoàn thể cho cá nhân, vì cá nhân hiện diện, cá nhân tồn tại là hiện diện tồn tại với đoàn thể, cùng đoàn thể.
(Lại một lần nữa do phản ứng tự vệ bén nhạy, người cán bộ trung ương hướng cuộc đàm thoại sang bất kỳ đề tài nào khác chợt đến trong đầu.)
Người cán bộ trí thức: Mầm chiến tranh, mầm ác độc luôn luôn còn đó, anh thấy không, trướng tức thì. Thói thường cỏ dại vẫn dễ mọc cao hơn lúa, bởi vậy chúng ta không thể không thường xuyên chiến đấu trong nội tâm. Nói một cách khác, chúng ta không thể không thường xuyên tự chết đi, chết con người cũ lạc hậu để tái sinh thành con người mới tiến bộ cho tập thể tiến bộ.
Ông nhà văn: Vâng, mối tương quan mật thiết giữa vạn vật trong nguồn sống bất diệt, như chúng ta đã hiểu, đòi hỏi đúng những điều anh vừa cảnh giác. Tất cả những gì sinh khởi, tồn tại, hủy diệt đều có quá trình với những nguyên nhân xa gần gắn bó của chúng. Thưa anh, cái Ác không tự nhiên mà có, cũng như điều Thiện không tự nhiên mà thành. Anh dạy rất đúng, chúng ta phải sống đi chết lại trong nỗ lực gột sạch khỏi tâm hồn những gì cũ kỹ, lạc hậu, xấu xa, xiêu lên những sai biệt ước lệ thường tình. Đây chính là cuộc chiến thắng khó khăn nhất: mình thắng mình, giúp mình tâm thật rộng, trí thật sáng. Sau cuộc lột xác, mình nào khác gì sâu hóa thành bướm. Sự sống quả là một sự trở thành thường xuyên, anh có điều gì chỉ giáo thêm?
Người cán bộ trí thức: Thì cả hai chúng ta có ai đứng ngoài lập trường vạn vật biến chuyển không ngừng đâu!
Ông nhà văn: Còn định luật mâu thuẫn đẩy sự vật tiến tới?
Người cán bộ trí thức: Thì cũng là hệ luận của định luật trên thôi. Thế giới không mâu thuẫn nội tại là thế giới tĩnh, thế giới chết.
Ông nhà văn: Thành thực cám ơn anh đã đến với tôi bằng cả sự chân thành toát ra từ mỗi cử chỉ, mỗi lời nói. Sau khi chúng ta đã hoàn toàn đồng ý với nhau như trên, xin anh cho tôi phát biểu một câu nghe như có chiều hướng duy tâm: Mọi thắng lợi chói lọi cũng như mọi thất bại chua cay ở bất kỳ không gian nào, thời gian nào, đều không tránh khỏi sự thẩm định và phán xét cuối cùng của Thượng Đế. Thượng Đế đây, thưa anh, là lương tâm nhân loại!
3
Bữa ăn sáng của Phượng do em nhỏ mang lại: xôi đỗ đen với muối vừng đường. Chưa bao giờ Phượng nhai xôi giống trâu nhai cỏ như vậy, nhai thật thong thả, thật kỹ. Vì nhai với ngẫm nghĩ là… một! Ngẫm nghĩ về một câu chuyện đã được ông nhà văn bổ khuyết cho có đầu có cuối với bằng hữu khi ông được thả về.
Khi chấm dứt câu chuyện, hai người – ông nhà văn tù nhân của Cộng sản với người cán bộ Mác-xít trí thức – đã nắm chặt tay nhau từ biệt như đôi bạn chí thiết đương tiễn nhau nơi bến tàu, sân ga hay sân bay.
Ngày ông được tha, tin tức loan đi rất chóng. Ngay buổi chiều nhỏ bạn tới nói với Phượng:
- Để rồi tao đưa mày tới gặp thẳng ông ta tại nhà.
Phượng trợn tròn mắt: đây quen thuộc gì mà tự dưng tới nhà người ta?
Nhỏ bạn cong cớn một cách hợp lý:
- Thiếu gì độc giả tới thăm ông ta, mi ngu lắm!
Ấy sự việc đơn giản như vậy đấy. Nếu có nhiêu khê chăng, chẳng qua mình lại nhiêu khê với chính mình đó thôi. Phượng xuôi giọng hỏi nhỏ bạn:
- Vậy mi định hôm nào đi?
- Để ông ta nghỉ tới Chủ nhật cho thật lại sức. Chủ nhật, khoảng tám giờ, ta tới đón mi đi.
- Ờ được! – Phượng đáp và tính thầm trong trí hôm nay là thứ Năm, còn ba hôm nữa.
Thấy gương mặt nhỏ bạn thoáng lo âu, Phượng chột dạ hỏi:
- Mi có điều gì lo nghĩ?
Thoáng một chút ngập ngừng, nhỏ bạn đáp:
- Có thể cuối tháng này tao và bồ vượt biên. Đến lượt Phượng cảm thấy nhói buốt nơi tim. Phượng nhìn nhỏ bạn mà cảm thấy rầu rĩ tưởng như sớm mai nhỏ bạn đã đi rồi. Phượng nói luôn cho có chuyện để khỏa lấp nỗi buồn:
- Mi ở đây cùng ta làm cơm và ăn cơm chiều, chịu không?
- Đồng ý!
Thế là cả hai cùng vui ngay, quên khuấy mọi mối sầu nhân thế.
- Phượng, bữa chiều nhà có bao nhiêu người ăn? – Nhỏ bạn hỏi.
- Có ba, má, có anh Trung, ta và mi.
- Còn chị Trang?
- Chị Trang ăn cơm đằng dì.
Thế là cả hai sửa soạn làm cơm. Phượng nghĩ về ông nhà văn “tên Cao Kều”, Phượng biết các bạn hữu trong làng văn vẫn gọi đùa ông ta như vậy. Một cô gái nhảy đã sống già nhân ngãi non vợ chồng với ông ta, khoảng ba bốn năm gì đó, sau đành chia tay nhau, vì người đàn bà nào chẳng mong có con bồng, mà ông ta thì cương quyết bảo vệ tự do, thứ tự do của chim đại bàng vỗ cánh, không muốn vướng vào cảnh thê tróc tử phọc. Phượng biết chuyện đó. Thuở ông ta chưa bị bắt, Phượng và nhỏ bạn đã mấy lần ngồi ăn tại tiệm hủ tiếu Nam Vang ngoài đường lớn bắt gặp ông ta từ trong hẻm đi ra – hoặc một mình, hoặc với bạn. Nơi căn nhà lầu trong hẻm rộng và lịch sự đó, ông ta ở với gia đình người anh cả. Ông ta hoàn toàn chiếm căn trệt, gia đình người anh cả hoàn toàn ở trên lầu một và lầu hai, có thang lầu bên ngang hông nhà. Ông ta được toàn thể gia đình người anh cả cưng chiều. Ông ta sống thật thoải mái, thật độc lập – đúng như sở nguyện - ở tầng dưới cùng đó, bằng hữu tha hồ tới lui tán láo, nhậu nhẹt.
Ai muốn đọc sách thì đọc, cả một dãy kệ sách dọc tường đó – sách được xếp thứ tự và phân loại rất khoa học. Ai muốn viết lách gì thì viết – bốn năm chiếc bàn nhỏ và ghế gấp trong phòng đó.
Những điều này nhỏ bạn vừa làm cơm chiều vừa bổ túc cho Phượng hay. Má đã ở đằng nhà dì về. Anh Trung đã từ nơi anh làm việc về - nhà thương Phúc Kiến cũ, đường Nguyễn Trãi. Công việc xào nấu bắt đầu. Đôi lúc giữa công việc tíu tít, Phượng tự bất chợt thấy mình quy tụ ý nghĩ về sáng ngày Chủ nhật sắp tới sẽ gặp ông nhà văn. Có nên quan trọng hóa vấn đề? – Phượng mỉm cười tự hỏi. Trước đây, thuở con gái mới lớn, nương theo ba, Phượng ngẩng nhìn ông nhà văn như một vì sao xa long lanh trong vũ trụ.
Ngày ông ta tới trường diễn thuyết, ngôi sao đã được Phượng nhìn qua viễn vọng kính, thật gần gũi mà vẫn xa xôi. Và ngày nay, ông đi tù về, Chủ nhật tới… Phượng như ngồi trên vệ tinh nhân tạo sắp hạ xuống sao Kim, sao Mộc, thực mục sở thị nhìn đất, nhìn đá những nơi đó. Hẳn cũng như đất đá trên trái đất thôi!
4
Quả nhiên ông ta tiếp Phượng như tiếp một độc giả, không khí cởi mở, thoải mái như từ bao giờ vẫn vậy. Nhỏ bạn thì đã tự coi như người nhà rồi, gọi anh xưng em rất tự nhiên, điều này đã giúp Phượng tránh được bao bỡ ngỡ, lúng túng ban đầu. Cũng theo nhỏ bạn, Phượng gọi ông ta bằng anh xưng em. Ý thức Phượng luôn luôn sáng suốt bám vào hình ảnh Phượng đương từ một vệ tinh nhân tạo bước xuống thám hiểm sao Kim, sao Mộc. Thì cũng đất đá như đất đá trên trái đất thôi! Dù sao ông ta cũng là người mà!
Chủ khách nào đã kịp trao đổi câu nào thì một người bạn già của ông ta tới. Người bạn già trạc ngót sáu mươi, hơn ông ta đến cả chục tuổi. Người bạn già dáng gầy, mặc áo sơ-mi sờn vai, đôi chỗ có vài lỗ thủng. Chiếc quần Tây ông mặc cũng đã cũ, có khoảng đường chỉ tuột mất để lộ phần sơ-mi bên trong. Riêng đôi giày ông ta đi khá sang, chứng tỏ một thời vàng son trước 1975. Không khí giữ nguyên vẻ thân mật, tựa hồ ông bạn già ấy đã gặp Phượng ở đây nhiều lần. Mãi về sau này Phượng mới hiểu nếp sống nơi đây là vậy: Bất kỳ ai, hễ qua ngưỡng cửa vào nhà là coi như chỗ quen biết cũ rồi.
Ông nhà văn cười giòn giã nhận xét ngay về đôi giày của ông bạn già:
- Làm gì mà diện giày véc-ni oai thế? Không có sandale phải không?
Ông già hưởng ứng ngay lời nhận xét:
- Đúng!
Chính ông bạn già cũng chưa kịp nói gì thì ngoài cửa có tiếng những bước chân rầm rập của nhiều người, và tiếng một người hỏi lớn:
- Có nhà không tên Cao Kều?
Ông nhà văn lêu đêu đi vội ra phía cửa, bóng đổ về phía trước đáp ngay:
- Có ta!
Vừa lúc ba người ấn cửa vô, hai nam một nữ. Họ ồn ào ngang nhau. Một người nam ôm hộp gỗ lớn sơn đen, đặt xuống bàn, mở ngay ra: bên trong, chiếc saxophone đẹp mượt mà mạ kền sáng loáng của nhạc khí lúc đó mới làm nổi bật màu quần áo cũ rách nữa của hai người nam, cả hai đều khoảng bốn mươi lăm tuổi, riêng người nữ khoảng bốn mươi, áo quần chải chuốt hơn. Các nữ nghệ sĩ bao giờ cũng thận trọng trong cách làm dáng và ăn mặc – Phượng biết.
- Cậu xem, tớ hứa là làm – chàng nhạc sĩ nói với nhà văn – hôm nay đủ bộ ba chúng tớ: sắc-xô sĩ, nam ca sĩ, nữ ca sãi.
- Được lắm, cám ơn các ông bà – ông nhà văn đáp – nhưng để giới thiệu cái đã. Đây là cô Trinh (tên nhỏ bạn) và cô Phượng, hai nữ độc giả tới thăm. Và đây là…
- Hiếu Phang, biết rồi – chàng nhạc sĩ ngắt lời – Hiếu Phang là Khoái Phang người ta phải không đại huynh?
Người bạn già cười hiền lành, điềm đạm, nụ cười của nhà Nho xưa. Nam ca sĩ nói đùa:
- Trông ông anh thì không ai ngờ lại là tác giả những bài thơ thật cay độc phang thiên hạ trong mục Đàn Ngang Cung tuần báo Vịt Trời. Tôi còn nhớ một số thơ phang của anh.
Nữ ca sĩ hỏi:
- Anh Hiếu Phang còn nhớ nhà thơ lão thành Hoàng Lăng?
- Có, có.
- Anh có nhớ bài thơ Hoàng lão hữu đọc tặng anh vào dịp họp tất niên văn nghệ sĩ tại Câu lạc bộ đường Tự Do năm trước giải phóng?
- Nhớ mà… quên rồi.
- Em còn nhớ hai câu thôi:
Người ta hiếu lợi, hiếu danh
Có ai mà lại như mình… hiếu phang.
Tiếng cười vang nhà. Tiếng saxophone cũng vừa òa lên làm thành một dòng âm thanh ánh sáng. Phòng khách rộn rã hẳn, ấm cúng hẳn.
Có tiếng những bước chân xinh vội vã xuống thang lầu bên ngoài, rồi hai đứa trẻ bước qua cửa ngang xông vô phòng, đứa chị gái khoảng 12, 13 tuổi, đứa em trai khoảng 8, 9 tuổi – hai đứa con người anh cả. Em trai đôi mắt sáng ngời nói với chú (ông nhà văn):
- May quá chú ha! Hôm nay cháu được ở nhà ha!
Ông nhà văn vỗ vỗ lên má thằng bé:
- Ờ được, hai đứa bay ngồi nghiêm chỉnh ở đây mà nghe.
Tiếng saxophone dứt câu dạo, vào bài. Dáng chàng nhạc sĩ tấu nhạc say mê, Phượng mỉm cười nhìn rặng râu mép của chàng như con sâu róm rung lên cùng nét nhạc trông thật ngộ nghĩnh.
Phượng nhận ra ngay “Bài Ca Sao” của Phạm Duy. Tiếng sắc-xô độc tấu tình tự, nỉ non, kể lể. Rồi người nữ ca sĩ cất tiếng trước – rất điêu luyện, dĩ nhiên – giọng người nam dập dìu theo sau, điêu luyện không kém, lúc ẩn lúc hiện:
Sao Tua chín cái (ối a) nằm kề
Thương em từ thuở mẹ về (là về) với cha
Sao Vua sáu cái (ối a) nằm xa
Thương em từ thuở người ra (ối a) người vào
Giọng nam, giọng nữ cùng quấn quýt nhau vào điệp khúc như hai con rắn quấn nhau trong lười lĩnh dìu dịu sau phút ái ân:
Sao mơ sáu cái (ối a) nằm chầu
Sao Khuê mấy cái (ối a) nằm đâu
Chàng nhạc sĩ ngửa cổ, đôi mắt nhắm lại, những ngón tay bấm nốt run lên, chiếc sắc-xô như con trăn bạc ngẩng đầu, âm thanh thoát ra tựa như vì thế mà thiết tha lên bội phần. Cặp nam nữ nghệ sĩ đã cùng dìu nhau ra đứng giữa phòng như thuở nào cùng đứng trước chiêc micro trên sân khấu. Giọng người nữ vút lên còn thiết tha hơn tiếng kèn vì đây là tiếng người:
Sao đôi hai cái (ối a) nằm chồng
Giọng nam thực rõ như ôm lấy người tình lẳng lơ:
Thương em từ thuở mẹ bồng… (mẹ bồng) mát tay
Cả đôi thân hình nam nữ cùng thoáng gợn một nét uốn éo, đôi cặp mắt cùng liếc tìm nhau ỡm ờ, nụ cười tình tứ, đôi giọng hòa quyện:
Sao hoa ba cái (ối a) nằm xoay
Thương em từ thuở được vay (ối a) nụ cười
Rồi lại vào điệp khúc với hình ảnh hai con rắn lười lĩnh dìu dịu sau phút ái ân:
Sao băng bay vút (ối a) vào đời
Sao sa rơi xuống (ối a) lòng vui
Điệp khúc cuối cùng, Phượng cúi xuống theo dõi lời ca, không dám ngẩng nhìn, vì nước mắt rưng rưng:
Sao Vân muôn cái (ối a) mịt mùng
Thương em từ thuở nghìn trùng (nghìn trùng) cách chia
Sao quanh theo gót (ối a) người đi
Thương em chỉ có trời khuya (ối a) nhìn về
Lần này điệp khúc thật dịu… thật dịu… như nức nở trong thoi thóp:
Sao ơi! Sao hỡi! (ối a) Buồn gì? Sao ơi! Sao hỡi! (ối a) Buồn chi?
Bài ca rõ ràng muốn ca ngợi niềm vui của tình yêu, nhưng tình yêu sao mong manh trong cái yên tĩnh mênh mông của vòm tinh tú xoay vần. Mọi người đều vỗ tay trừ hai đứa nhỏ. Thằng bé nhìn chằm chằm nơi ba người trình diễn, miệng xinh há ra, thán phục. Một con mèo xinh tam thể đã từ trên gác xuống nhảy lên đùi cô bé. Cô bé ôm lấy mèo, tay lơ đãng vuốt ve, nhưng cũng như em, hướng nhìn về ba người trình diễn, chờ đợi. Vừa lúc một cô gái khoảng 20 tuổi, khuôn mặt thông minh, hiền, bưng một khay lớn trên bày sáu tách trà, một bình đường thỏi, tất cả cùng màu sứ trắng nõn điểm những hoa và đường viền trang trí màu xanh cẩm thạch. Rất thành thạo cô gái rót trà vào sáu tách nước rồi mời:
- Xin mời cô, bác xơi nước. Ông nhà văn gật đầu hài lòng:
- Tốt lắm. Đây là cháu lớn con ông anh tôi, chị của hai đứa nhóc này. Nó còn thằng anh nữa, vượt biên trước ngày tôi về sáu tháng, hiện đã định cư ở Canada, đã gửi được một thùng quà về rồi, coi mòi có thể mỗi tháng một thùng. Thế là đủ cho cả nhà tiêu dùng đấy các cụ ạ.
Cô gái nói nhỏ với hai em, cả ba cùng rón rén ra khỏi phòng.
Ông nhà văn phân phát sáu chiếc muỗng nhỏ đặt ở góc khay trà cho mỗi người, giọng sang sảng:
- Nào mời quý vị uống trà đã, rồi chương trình văn nghệ tiếp tục sau. Đây là trà ướp hoa nhài, Hồng Kông sản xuất, một ông bạn mới cho tôi hôm qua. Đường thỏi đây là quà Canada thằng cháu mới gởi về cho gia đình. Ông anh tôi về thăm quê hương miền Bắc được ba tuần rồi, tiện thể cải táng cho cụ thân sinh ra chúng tôi, chắc chỉ tuần sau anh tôi trở vô.
- Thế được tha về ông chưa gặp ông anh à? – Nhà thơ Hiếu Phang hỏi.
- Nào đã được gặp! Chuyến này trở vô thấy tôi đã lù lù ở nhà ông ấy sẽ mừng phát khóc. Cứ dự đoán của ông thì cỡ tôi là tù “mút mùa”. Uống trà đường đi, quý vị. Tôi khoái trà đường.
Mọi người quậy đường, uống trà, nói chuyện vui, không phân biệt bạn mới, bạn cũ đã đành, không chú ý đến cả tuổi tác nữa.
Chàng nhạc sĩ lại ôm lấy chiếc saxophone trước, một dòng âm thanh điêu luyện vang lên ngọt ngào. Chàng dừng lại nói với ông nhà văn:
- Thôi bọn tôi trình diễn tặng ông một bản nữa rồi còn phải đi làm ăn, xin hẹn lần sau.
- Ủa, thế các ông bà còn đi đâu? Nữ ca sĩ cười khanh khách:
- Đã bảo đi làm ăn mờ lị. Bộ anh tưởng vẫn còn thời vàng son cũ hay sao? Năm năm “xã hội chủ nghĩa tiến nhanh, tiến mạnh, tiến vững chắc” rồi ông ơi…
Và nàng vào bài ca ngay vì tiếng sắc-xô vừa dứt câu dạo. Nàng hát bản “Xuân Ca” cũng của Phạm Duy. Bài ca cũng có vẻ ngắn gọn như “Bài Ca Sao” nhưng âm hưởng cũng dằng dặc u hoài:
Xuân trong tôi đã khơi trong một đêm vui Một đêm, một đêm gối chăn phòng the đón cha mẹ về
Xuân âm u lắt leo trong nguồn suối mơ
Bừng reo rồi theo nắng lên từ cha chói chang lòng mẹ.
Điệp khúc là lời kêu gọi chới với… thiết tha… níu kéo…
Xuân, xuân ơi! Xuân ới! Xuân ơi! Xuân, xuân ơi! Xuân ới! Xuân ơi!
Nhưng lần này chính tiếng sắc-xô lên ngôi. Tiếng sắc-xô ôm lấy giọng ca thuần thục như bóng theo hình. Nhưng khi giọng ca ngưng nghỉ, hình như biến đi, bóng bỗng vô cùng sinh động lên ngôi thực thể. Tiếng sắc-xô vẫn nương theo nét nhạc
Phạm Duy nhưng góp phần tái tạo theo ngẫu hứng sinh động, nhởn nhơ, uốn éo, đùa cợt. Chợt cao lên như tiếng yêu tinh động cỡn hú lên một tiếng khát tình, rồi lại hốt hoảng rơi hẫng xuống thành tiếng khóc nấc của lòng tự hối trong đêm khuya, vừa kể lể vừa thấm nước mắt. Từ vùng thung lũng âm u vướng mắc đó, tiếng kèn vang lên lần nữa như nụ cười sượng sùng ngơ ngác, vẫn ngẩng nhìn vùng tinh thần cao khiết, vẫn khao khát nhục cảm níu kéo.
Chính ông nhà văn ôm lấy chàng nhạc sĩ khi bản nhạc vừa chấm dứt:
- Tình dục đã được âm thanh của cậu vũ trụ hóa cho đẹp đến não nề.
Nhạc sĩ cười hô hố, xếp kèn vào hộp, đậy nắp lại, lắc lắc cái đầu:
- Cám ơn, cám ơn lời khen của ông.
- Tôi hiểu – vẫn lời ông nhà văn – vì sao trước đây, một lần cũng trong cuộc họp bằng hữu như thế này, cậu đã toan trình tấu rồi lại thôi, chỉ vì nhìn thấy ảnh Hồ Chí Minh trên tường.
Nhạc sĩ lại lắc đầu cười hô hố to hơn:
- Tính tôi nó vậy ông ơi. Tôi thổi điệu nhạc là chân thành dâng lên cái Đẹp, cái Thiện. Làm sao thổi được kèn khi nhìn thấy hiện thân của cái gian dối, cái xấu, cái ác?! Như ý ông đã nói với phái đoàn Ân xá Quốc tế đó, đất nước bất hạnh này ngót ba mươi năm tan nát, văn hóa băng hoại. Suốt dòng lịch sử ngót năm ngàn năm, chỉ có những tên bán nước, riêng hắn bán tới linh hồn đất nước. Đúng là tên giặc già vô tiền tuyệt hậu của lịch sử dân tộc!
- Chúng ta nhất định tạm ngừng ở đây hả? - Ông nhà văn hỏi lại lần nữa.
- Mần ăn mà! – Nam ca sĩ đáp.
- Mần ăn gì? – Nhà thơ Hiếu Phang hỏi. Chàng nhạc sĩ tự chỉ mình, rồi chỉ nam ca sĩ:
- Tôi với thằng này hợp tác làm xe củi cung cấp cho một số anh em văn nghệ sĩ nhà. Tôi không thể không hợp tác với thằng này, vì tôi thì què, mà anh em văn nghệ sĩ thì có tên ở tận lầu ba lận, phải có nó khuân củi lên chứ!
Lúc ấy Phượng mới chú ý tới dáng đi tập tễnh của chàng nhạc sĩ với chiếc quần nhà binh gấu sờn và khoảng đầu gối lạt màu sắp rách.
Nữ ca sĩ tiếp lời chàng nhạc sĩ:
- Còn ngu muội thì phải ra góc đường Lê
Thánh Tôn–Nguyễn Trung Trực: chợ trời thuốc Tây.
Dĩ nhiên nhỏ bạn và Phượng cũng từ biệt ông nhà văn ra về với mọi người. Hai đứa đi sau cùng. Phượng thấy lòng rưng rưng ngắm nhìn các bậc trưởng thượng đi trước. Nhà thơ trào phúng gầy gò, hiền lành, áo sờn vai, giày véc-ni bóng loáng một cách khôi hài, quần sứt chỉ để hở màu vải sơ-mi bên trong. Chàng nhạc sĩ ôm hộp kèn đi tập tễnh, chàng ca sĩ cao lớn nương bước chậm hơn một chút để chờ bạn, quần áo cả hai cùng bạc thếch màu thời gian cũ kỹ. Nàng ca sĩ diêm dúa hơn một chút như một bông hoa le lói chấm phá cho một vùng vừa bị bão tàn phá. Họ mãi mãi là những vì sao trên biển trời vằng vặc. Phượng thấy yên lòng, thấy kiêu hãnh vì họ. Phượng hiểu vì sao trên thế giới, bất kỳ nơi đâu, những kẻ nắm chính quyền không bao giờ quên ve vãn những con thiên nga tuyệt vời đó. Chỉ có một điều khác:
Ở thế giới tự do những người làm văn nghệ có toàn quyền muốn giao thiệp với chính khách nào họ ưa; trái lại ở thế giới Cộng sản – hãy nói thế giới Cộng sản Việt Nam của Hồ Chí Minh – những cánh chim đại bàng được tháp thép cho hết đường bay bổng. Chúng cấp lương tháng như vãi cơm cho bầy thú ngoan ngoãn nuôi trong nhà. Những trái núi tiền chiến đã bị xoi mòn hủy diệt cho thành những hòn giả sơn hèn mọn. Có những cánh đại bàng lồng lộn vùng bay, bị lưới thép chụp, bị tên đồng xuyên nát cánh, rụng xuống sân nát bấy như những trái ủng. Triều biển lên. Cửa sông rềnh. Ếch nhái hòa ca: “Hãy trông Bác muôn vàn kính yêu lùa biển vào sông, nhốt biển vào đầm!” Và khi nước ròng ra khơi để lại vũng lầy nông cạn, ếch nhái ca ngợi vũ trụ trăng sao Bác, Đảng: “Ba mươi năm đời ta có Đảng…” “Trong đầm gì đẹp bằng sen, trên đời đẹp nhất có tên Bác Hồ…”, “Về thăm quê Bác…” “Rừng cây ru Bác ngủ ngon lành…”
Vài bài học đầu tiên Phượng học được trong buổi gặp mặt đầu tiên này là: Nghệ thuật không có tuổi. Những con người phục vụ nghệ thuật thật sự, họ trẻ mãi không già, họ có thể què quặt, có thể đui điếc, có thể rách rưới, nhưng họ vẫn giữ được cái đẹp riêng không một đạo luật đui mù nào hủy diệt nổi. Phượng thấy ông ta – ông nhà văn – lẫn vào làm một với cả dòng lịch sử bi thảm não nề đầy thua thiệt của đất nước. Tiếng sắc-xô lẳng lơ khiêu khích không xóa nổi cảm giác đó của Phượng.
Đã ra tới đường lộ chính thênh thang, nhỏ bạn nắm lấy tay Phượng, còn Phượng thì ngẩng nhìn trời cao.