Chương 11 Bài Học Lịch Sử
1
Bữa cơm chiều không thấy anh Trung, Phượng hỏi ba:
- Anh Trung hôm nay trực ở nhà thương sao, ba?
- Nó đi Rạch Giá mà.
- Ủa sao con không thấy anh nói gì với con?
- Nó bảo cùng phái đoàn y tế đi tham quan một nhà thương ở Rạch Giá, rồi kế đó đi thăm mấy nhà thương khác cũng ở miền Tây.
- Anh có nói bao giờ anh về không ba?
- Nào tao biết!
Sau khi anh Trung được thả tự do mười lăm ngày, một người bạn đang làm ở nhà thương Phúc Kiến giới thiệu anh với Ban lãnh đạo nơi này, rồi Sở Y tế chấp thuận. Anh từng là bác sĩ giải phẫu hữu hạng, nhờ thiên bẩm cũng có, nhờ hoàn cảnh chiến tranh trước đây cũng có. Thường khi thấy đủ hai đứa em gái (Trang, Phượng) ở nhà, thì điều gì vui buồn đáng nói mà anh gặp nơi nhà thương, anh thuật lại bằng giọng vui tếu của mình. Người Tàu các bang Phúc Kiến, Triều Châu, Quảng Đông tới Việt Nam nắm hết các nguồn lợi kinh tế xuất nhập cảng, thành các ông vua tư bản. Mỗi bang đều có xây nhà thương riêng, vừa để phục vụ người Tàu thuộc bang đó, vừa là cách đáp lễ khổ chủ Việt Nam. Nhà thương bang Phúc Kiến tối tân nhất, đầy đủ tiện nghi nhất, nay không còn là nhà thương tư nữa mà là nhà thương của Nhà nước xã hội chủ nghĩa chuyên chữa cho cán bộ trung và cao cấp.
Thuở anh Trung mới nhận việc thì gặp một toán chừng hai mươi y sĩ Trường Sơn tới thực tập nốt bốn tháng cuối cùng của ba năm bổ túc để được công nhận thành bác sĩ. Danh từ “y sĩ Trường Sơn”, “y tá Trường Sơn” dùng để chỉ giới “y tế Việt cộng”. Những lần gặp nhau, nhất thiết anh Trung mời cái gì họ cũng từ chối. Thì ra họ đã được chỉ thị tuyệt đối tránh… mua chuộc cấp trên, sợ họ một khi đã quen hưởng thụ khó bề tránh khỏi hủ hóa. Tới bữa ăn trưa, họ phải trở về trụ sở - trường Quân y – cùng ăn. Nhiều người vốn là Trưởng ty Y tế bị bẫy đi tu nghiệp, để khi trở về chỉ còn là bác sĩ điều trị, mất hết quyền lợi Trưởng ty cũ. Đã vậy, lương y bác sĩ mới còn mất thâm niên, không bằng lương y sĩ cũ. Vui tính và tếu như anh Trung mà chuyện này đã làm anh suy nghĩ nhiều ngày. Anh thương đám y sĩ Trường Sơn bị bao vây gò bó trong kỷ luật khắc nghiệt phi nhân; anh thương cả lâu đài trí thức miền Nam như con bò mộng bị vít sừng dìm xuống vũng lầy cho sinh lực và tiềm năng tàn lụi dần. Những kẻ đã tốt nghiệp đại học trước 1975 như anh thì hoặc còn ở trong tù, hoặc được dùng với mọi dè dặt. Tại trường thuốc miền Nam, kể cả những kẻ đã học lên đến năm thứ ba, nếu xét lý lịch trong nhà có người đi cải tạo, đều bị gạt khỏi trường tức thì. Trên toàn quốc, nền đại học kỹ thuật khoa học chuyên môn là một ân huệ, không hề căn cứ vào khả năng. Không là đoàn viên Đoàn Thanh niên Cộng sản thì đương nhiên bị gạt khỏi đại học, không được đi nước ngoài. Với đám đoàn viên, đảng viên, thì dù dốt, thiếu khả năng, cũng vơ bèo gạt tép nhận cho vào học mọi ngành. Trình độ chuyên môn xuống cấp thê thảm.
Cũng may mối sầu thời sự của anh – lời anh vẫn dùng – được nguôi đi do những thắng lợi cứu nhân độ thế của anh – lời chị Trang vẫn nói đùa. Vào một buổi sáng, người cán bộ trung cấp đó đèo vợ trên một chiếc Honda đương phóng trên đường đi Hóc Môn thì xe lừ đừ muốn tắt máy vì hết xăng. Người cán bộ vội cúi xuống mở réserve, không may vì sơ ý cúi đầu không nhìn lên mà xe lao ào một càng xe chở đồ để không bên lề đường, càng xe xuyên qua bụng ra đằng sau. Người vợ cuống quýt đưa chồng đến Y tế quận thì lại không đúng… tuyến. Phải mất hai giờ rưỡi sau giấy tờ mới làm xong, chuyển tới bệnh viện Phúc Kiến thì nạn nhân đã ngáp ngáp rồi. Anh Trung lập tức cho lên bàn mổ. Máu đã mất nhiều, phải mổ tươi gấp, rồi mới tiếp dần khoảng hai lít rưỡi, đủ lượng máu để chịu được mũi tiêm Nesdonal – một loại thuốc ngủ - và chụp éther không sợ ngộp. May thay, càng xe xuyên đúng giữa khoảng thận và động mạch chủ. Nếu rủi chạm động mạch chủ thì nạn nhân đã chết từ lâu. Anh Trung phải cắt nhiều đoạn ruột, tổng cộng tới một thước; anh phải khâu dạ dày, rửa vá và khâu vết thủng bên ngoài. Cuộc giải phẫu thập tử nhất sinh kéo dài bảy tiếng đồng hồ. Anh chỉ biết giải phẫu thật thận trọng, từng đường cắt, từng mũi kim khâu, không thể có trường hợp nhiễm trùng, tuy nhiên anh không dám hy vọng quá nhiều ở sự cứu sống. Vậy mà nạn đã được cứu sống. Anh bằng lòng anh, dám có thể ví như ông nhà văn vừa hoàn thành một tác phẩm lớn! Xong cuộc giải phẫu anh muốn té xỉu.
Anh cười giòn tan hỏi hai cô em gái:
- Các cô có biết sau mỗi giải phẫu như vậy, Nhà nước cho lĩnh phụ trội bao nhiêu tiền không?
Phượng lẹ miệng ước đoán:
- Năm chục!
Anh Trung cười lớn hơn, đồng thời giơ hai ngón tay lên:
- Hai đồng! Không đủ để mua một quả trứng gà ăn la-coóc.
Một lần về, anh thuật lại một chuyện bực mình. Anh khám bệnh cho một cán bộ cao cấp, thấy thiếu máu bèn kê toa cho mua Campolon tiêm.
Một tuần sau anh bị Sở Y tế cự nự và nhắc lại là bác sĩ không được biên toa cho mua thuốc ngoài. Nhà thương có gì dùng nấy. Nguyên do: niềm kiêu hãnh của Nhà nước xã hội chủ nghĩa là y tế phục vụ nhân dân miễn phí. Thuốc không đủ, nhưng Nhà nước không chịu nhận điều đó, mất mặt! Hãy dùng thuốc… dân tộc, đặc biệt loại thuốc “bách bệnh”: Xuyên tâm liên! Bệnh gì cũng được cho uống Xuyên tâm liên! Trường hợp anh Trung ghi toa cho người cán bộ cao cấp mua thuốc ngoài, kế đó người cán bộ đã đem toa lại Sở Y tế đòi bồi hoàn phí tổn. Phục vụ nhân dân quá nửa đời người mà phải xuất tiền túi ra mua thuốc sao?! Sở Y tế buộc lòng phải bồi hoàn và… “giũa” ông bác sĩ nào đã theo lương tâm nghề nghiệp cho đơn mua đúng thứ thuốc mà nhà thương không có.
Chị Trang hỏi, vẻ mặt như một người đau quặn ruột:
- Bệnh nào cũng cho uống Xuyên tâm liên, chết thì sao?
Anh Trung đáp:
- Riêng anh, anh đã giải quyết trường hợp mâu thuẫn đó như thế này. Anh nói riêng với cán bộ bệnh nhân: “Bệnh đó phải mua thêm thuốc này mới khỏi.” Anh ghi ra tờ giấy nhỏ cho người đó muốn mua thì mua. Anh không bị lương tâm thầy thuốc cắn rứt mà cũng không sợ trường hợp phản phúc đòi bồi hoàn.
Câu chuyện mới nhất tới với anh vừa buồn vừa vui là chuyện một cán bộ cao cấp được anh mổ ruột dư cho. Thoạt anh chỉ cắt một vết nhỏ vừa đủ thò hai ngón tay vào, nhưng tìm không thấy ruột dư đâu, anh mở rộng thêm vết cắt tới mười ba phân mới tìm thấy đuôi ruột dư dính khoảng sau gan. Anh nói:
- Các cô biết không, với anh, mổ ruột dư trường hợp bình thường, từ lúc rạch mũi dao đến lúc khâu xong vết thương, chỉ cần mười phút. Vậy mà lần “ngựa về ngược” đó phải gần ba tiếng đồng hồ.
Phượng cười hỏi anh:
- Lần đó anh được lĩnh phụ trội bao nhiêu? Anh đáp rất trịnh trọng:
- Mổ ruột dư như vậy được nâng lên hàng trung phẫu, lĩnh thêm… một đồng.
Chị Trang nói với Phượng:
- Mi thấy không, vì vậy mà bao nhiêu lần má giục anh lấy vợ, anh không dám lấy!
Anh Trung cười xòa dễ dãi, nhưng câu chuyện đến đoạn thô bỉ.
Chiều thứ sáu hôm đó, sau một ngày ăn sữa và một ngày ăn cháo thịt, anh cán bộ đói bèn đề nghị với anh Trung xin cho ăn cơm. Anh Trung nhận lời, nhưng vì hôm đó khám nhiều bệnh nhân quá, buổi chiều anh quên khuấy dặn nhà bếp. Trưa thứ bảy thấy vẫn ăn cháo, anh cán bộ sỉ vả cô nữ y tá vừa bước vô phòng:
- Chúng bay là đồ dã man, kể cả từ thằng bác sĩ trở xuống! Chúng bay chỉ biết đùa giỡn nhau suốt ngày, bỏ đói bệnh nhân. Tao sẽ làm đơn tố cáo bọn bay lên Quốc hội.
Cô nữ y tá khóc ròng khi thuật chuyện lại với anh Trung.
Phượng hỏi:
- Cô nữ y tá đó xinh không anh?
- Xinh đó! – Anh đáp – Anh cũng muốn rút khăn tay lau nước mắt cho cổ, nhưng e lọt vào quỹ đạo yêu đương phải cưới cô làm vợ. Đất nước còn nạn Cộng sản, anh chưa muốn lấy vợ!
Dứt tiếng cười của ba, anh Trung kể tiếp khi anh đến khám những người gần đấy, tên cán bộ tiếp tục chửi đổng hết sức thô bỉ, nói cạnh nói khóe. Đợi hắn dứt lời, anh lên tiếng nói chung với toàn phòng:
- Ở đây nếu các anh có điều gì không vừa ý xin nói thẳng với bác sĩ điều trị hoặc phản ảnh với Ban lãnh đạo, đừng nói những lời có hại uy tín đến những cán bộ trung cấp, cao cấp.
Anh nói thẳng với tên cán bộ đó:
- Chiều thứ Sáu vì thăm quá nhiều bệnh nhân tôi quên khuấy không dặn nhà bếp thêm suất cơm hôm ấy. Điều này tôi nhận lỗi. Dù báo hôm trước, hôm sau mới có suất cơm, nhưng tôi bảo đảm với anh là chiều nay anh ăn cơm. Cô y tá không có lỗi gì. Anh làm đơn tố cáo lên Quốc hội xin đề tên một mình tôi: Võ Minh Trung.
Khi anh Trung ra khỏi phòng, đám bệnh nhân bất bình ra mặt về thái độ thô bỉ của tên cán bộ. Có người nói thẳng là y vô ơn bội nghĩa với người bác sĩ đã mổ cứu sống y.
Anh Trung gọi phone xuống nhà bếp nói là bằng mọi giá chiều nay phải có phần cơm cho anh cán bộ phòng đó, nếu không anh sẽ bỏ tiền túi ra mua suất cơm hàng ngay trước cửa nhà thương. Anh phụ trách nhà bếp cũng là dân vui tính, nói:
- Ông thầy cứ yên chí lớn đi! Cơm và canh thì bao giờ cũng thừa, còn món xào thì rút một phần tư miếng thịt của hai trăm phần ăn cũng dư cho cả ông thầy ăn nữa.
Qua đi ngày Chủ nhật, sang ngày thứ Hai, cô nữ y tá nói với anh Trung:
- Thôi bác sĩ ký giấy cho nó xuất viện đi. Ăn cơm rồi khỏe rồi.
Anh Trung bảo cô y tá là không được vì như vậy dễ bị ngộ nhận mình trả thù. Anh để người cán bộ nằm dưỡng bệnh đến cuối tuần rồi nói anh sẽ ký giấy cho y nghỉ ở nhà thêm năm hôm nữa mới phải tới sở làm. Y xin cho gấp đôi số đó nghĩa là mười ngày nghỉ dưỡng sức tại nhà. Anh Trung đồng ý ngay, nhưng anh cũng nửa đùa, nửa thật nói với tên cán bộ:
- Tôi thực tình giúp anh nghỉ cho lại sức, không phải vì sợ anh tố cáo lên Quốc hội đâu nhé.
Ngày anh chàng xuất viện, anh để lại hai bức thư: một gửi ban lãnh đạo viện Phúc Kiến, một gửi Sở Y tế nhờ ban lãnh đạo viện chuyển. Thoạt anh Trung cho là “thằng chả” thế nào cũng chơi mình. Nhưng không, cả hai bức thư đều ca ngợi bệnh viện đã chăm sóc bệnh nhân cực kỳ chu đáo, đặc biệt bác sĩ Võ Minh Trung đã thực hiện đúng lời Bác dạy “lương y như từ mẫu”.
Chị Trang cười:
- Thế cũng là một chuyện cổ tích kết thúc có hậu.
Phượng nói:
- Câu chuyện sẽ thực sự có hậu nếu không có sự hiện diện của lời Bác xía vào!
Anh Trung cười lớn hơn cả:
- Ấy, điều đó mình phải chấp nhận. Trong thế giới này, cái gì Bác cũng xía vào để dính máu ăn phần một tí. Sau vụ thất bại Mậu Thân 1968, không thể dứt điểm chiếm trọn Huế, sang năm 1969 Bác chết uất như tam khí Chu Du. Chỉ tội nghiệp đám môn đệ đã bị Bác hút hết tinh lực, hoàn toàn vong thân, không tên nào trội hẳn lên được để thay thế Bác nắm vai trò lãnh đạo. Chúng thành đám cá mè một lứa, thiên tiên bất túc, tên nào cũng phải lấy Bác làm cái dù an toàn y như thuở Bác còn sống. Bác “vĩ đại” chính ở điểm đó: nọc độc còn hiệu nghiệm sau mười mấy năm trời khuất mặt.
Ôn lại kỷ niệm người anh vắng mặt bữa cơm chiêu hôm đó, tự nhiên Phượng thấy buồn muốn phát khóc. Buổi tối Phượng định lại đằng dì tìm chị Trang thì chị về.
Phượng hối hả nói:
- Chị có biết anh Trung đi miền Tây tham quan một số bệnh viện? Chắc phải một tuần anh mới về. Chị Trang cười chớp mắt:
- Vậy à?
- Thường ngày không sao, đến khi anh chợt vắng nhà, nhớ anh ghê.
- Vậy à?
2
Họa ra đi cùng các bạn trên chiếc tàu Hải quân ngày 29-4. Họa không quên – quên sao được – Phượng, không quên anh Trung, chị Trang và ba mẹ, nhưng thư nào viết về, Họa cũng chỉ đề cho chị Trang. Có lá thư sáu tháng mới tới tay, nhưng đôi khi một tháng mười ngày đã tới tay.
Mười ngày sau khi anh Trung đã đi “tham quan các nhà thương miền Tây” thì chị Trang tay cầm bức điện vừa nhận, nói lớn với cả nhà:
- Anh Trung tới Tân Gia Ba rồi ba má ơi. Má đặt tay lên ngực:
- Nó vượt biên à, mày?
Thì ra bằng thư từ Họa đã giới thiệu chị Trang với Điển, người bạn chí thân của mình trước là đại úy Hải quân từng đi học tập về. Điển khéo tổ chức được một mạng đưa thư tránh kiểm duyệt, tránh ngâm tôm, nên liên lạc thư từ giữa Điển và Họa rất chóng. Họa ân cần nhờ Điển, nếu tổ chức vượt biên, thì cố liên lạc với gia đình chị Trang mang đi tối đa. Mọi phí tổn sang bên đó – Họa định cư ở Hòa Lan – Họa bảo đảm sẽ thanh toán. Chị Trang tự biết mình và ba má chưa thấy cần thiết đi. Chị định gián tiếp hỏi ý kiến Phượng thì Phượng và nhỏ bạn đang tưng bừng sửa soạn gặp một ông nhà văn mới được trả tự do. Chị Trang ngỏ ý xin cho anh Trung đi trước, rồi đầu chạy đuôi lọt. Anh Trung ưng thuận với điều kiện bố trí như thể anh đi tham quan miền Tây cho đến khi chị biết rõ: hoặc anh thất bại, hoặc anh thành công. Anh đã thành công quá ư nhẹ nhàng. Đây là một trường hợp hy hữu, kẻ ra đi có mười ngày mà nhà đã nhận được điện báo tin thành công. Hai tháng sau, lá thư anh viết từ trại tị nạn Singapore tới tay nhà. Chuyến ra đi vừa rồi không phải do Điển tổ chức mà chỉ được mời làm tài công. Điển là đại úy Hải quân từng học ở Mỹ về và đã nhiều lần lắm lái tàu đi đi về về đường Sài Gòn–Singapore. Vì quá rành hải trình như vậy nên khi thoát ra hải phận quốc tế, Điển lái một lèo gần tới Singapore thì được tàu Thụy Điển nhận vớt. Tới trại tị nạn Singapore, cả anh Trung lẫn Điển đều xin được định cư tại Hòa Lan để cùng hợp tác về mọi mặt với Họa.
Cùng hôm nhận điện biết anh Trung đã tới Tân Gia Ba, cả nhà thở phào phúc đức, thì nhỏ bạn cũng vừa tới. Phượng yên tâm hào hứng nữa, cùng nhỏ bạn tới thăm ông nhà văn lần thứ hai. Theo ý kiến nhỏ bạn, nên đến thăm ông ta về chiều, ít khách hơn, có thể nói chuyện được nhiều. Phượng bèn chất vấn nhỏ bạn:
- Ờ giá như gặp dịp nói chuyện được nhiều, mình biết nói khỉ khô gì?!
Nhỏ bạn đáp tức khắc theo phong thái hồn nhiên của nó:
- Cứ nói đại đi chứ, gặp gì nói nấy. Mi nên nhớ ở đời cái gì cũng quan trọng và cũng không quan trọng. Bí quyết sống của tao là như vậy.
Phượng cười đáp vừa lúc hai đứa tới đầu hẻm vào nhà:
- Ờ ta sẽ theo bí quyết của mi!
Tưởng là tới thăm khoảng ba giờ chiều thì không có ai, vậy mà ông nhà văn đương tiếp ba người bạn văn nghệ cùng lứa tuổi xấp xỉ năm mươi. Ông nhà văn nhận ra Phượng ngay. Dĩ nhiên mọi người coi nhau như chỗ thân thuộc cũ. Câu chuyện xoay quanh đề tài lịch sử. Khi Phượng và nhỏ bạn vừa bước vào thì mọi người mới đề cập tới tuổi của trái đất khoảng trên bốn tỉ rưỡi năm, và khoảng một tỉ năm trước đây trái đất mới có những thực vật và động vật đơn bào sống ở dưới nước, rồi tiến hóa dần thành những động vật lưỡng cư Amphibians.
“Cứ nói đại đi chứ, gặp gì nói nấy… cái gì cũng quan trọng và cũng không quan trọng.” Phượng ôn thầm triết lý sống của nhỏ bạn, và thực hành liền:
Phượng: Thưa các anh, em nhớ sau những động vật lưỡng cư là loài bò sát lớn: khủng long. Sau khủng long khá lâu, loài chim và các động vật cao đẳng mới xuất hiện. Con người mới xuất hiện hơn một triệu năm cách đây thôi, thoạt kinh qua thời đại đồ đá mới, rồi đồ đá đẽo.
Ông nhà văn: Người tiền sử dáng đi khom khom, đầu nhô ra phía trước, răng lớn, cằm bạnh, sọ nhỏ, trán thấp.
Người bạn 1: Hãy so sánh người tiền sử với người lính Trường Sơn của Bác Hồ!
Người bạn 2: Nương vào kháng chiến chống Pháp, quy tụ được lòng tin thiêng liêng của toàn thể dân tộc, Hồ Chí Minh lên ngôi thần tượng. Kháng chiến thành công, Bác phản bội, tổ chức khắc nghiệt của Cộng sản giúp Bác giữ thế độc tài, mặc sức sử dụng nhân lực, vật lực phục vụ cho cuộc chiến tiền đồn xã hội chủ nghĩa. Dân chúng miền Bắc vĩ tuyến bị dồn trong u minh, trong thiếu thốn cơ cực, hàng hàng lớp lớp đi theo “đường mòn mang tên Bác”,. Khối óc bị bóp nghẹt xoi mòn, biến thành bầy khỉ Trường Sơn lúc nào không hay, tội nghiệp! Cho đến bây giờ, sau năm năm trời được tắm gội trong ánh sáng văn minh của miền Nam chiến bại, xin các anh chị ôn lại trong trí hình ảnh những người lính con nít gầy còm nhỏ bé, nón cối rộng thùng thình trên đầu, áo quần rộng thùng thình và nhàu nát và cũ kỹ che thân, chân nong dép râu, ngơ ngác đi giữa kinh thành Sài Gòn, tôi thấy họ gần hệt người tiền sử vừa nói trên (lắc đầu), xin các anh chị tha lỗi, tôi đi lạc đề, nhưng… giận quá!
Người bạn 3: Nhân danh cựu giáo sư Sử Địa tôi xin nhắc lại cùng quý anh chị: Kể từ khoảng
4.000 năm trước Thiên Chúa trở đi, sang thời đại đồ đồng, đời sống đã được cải thiện rõ rệt tại Ai Cập, dọc theo sông Nile và miền Tiểu Á vùng Lưỡng Hà – Tigris và Euphrates – thì văn minh nhân loại mới thật đạt tới tiêu chuẩn để bước ra khỏi thời kỳ tiền sử mà sang thời kỳ có sử - historic period – tức là từ văn minh đồ đá sang văn minh duyên giang, biết phát triển chữ viết để ghi chép, biết dùng kim khí, cải thiện giao thông, biết thiết lập một chính phủ hữu hiệu.
Ông nhà văn: Nói theo danh từ Cộng sản là đã có phân chia giai cấp rõ rệt, đã có giai cấp đấu tranh.
Nhỏ bạn Trinh: Nền văn minh Ai Cập bắt đầu phát triển tại sông Nile nổi tiếng về Kim Tự Tháp, nổi tiếng về kênh đào nối sông Nile với Hồng Hải, cống hiến cho cả vùng Cận Đông hệ thống toán học đo lường chính xác, có phải không ạ?
Người bạn 3: Và những công trình kiến trúc có cột trụ nữa, Ai Cập tới đây đã phát triển thành đế quốc, uy quyền bao trùm lên các sắc dân khác xung quanh.
Người bạn 1: Kế tiếp hẳn là văn minh Hy
Lạp? Tôi vốn dốt về Sử.
Người bạn 2: Chưa tới văn minh Hy Lạp đâu, còn phải kể miền Lưỡng Hà nữa, nhưng tôi quên mất rồi, phải cầu cứu giáo sư Sử Địa thôi.
Người bạn 3: Tại miền Lưỡng Hà vào năm
3.000 đến 2.000 trước Thiên Chúa, những người
Sumérians thành lập nền văn minh đô thị - thành phố mà độc lập và có chủ quyền như một quốc gia – sáng chế kiến trúc vòng cung. Sắc dân Hittites, miền
Tiểu Á, mở đầu thời đại đồ sắt. Dân Hebrew cống hiến nền văn minh Do Thái nhấn mạnh chỉ có một vị thần tối cao che chở nhân loại như cha với con, khoảng 1.500 đến 1.000 trước Thiên Chúa. Kế đến thời đại những đế quốc thật mênh mông. Thoạt đế quốc của người Assyrian, Tây Nam Á Châu, kế đến đế quốc của người Chaldeans, miền Nam Babylonia, cả hai đều nặng về khủng bố để giữ an ninh trật tự. Tới đế quốc Ba Tư mênh mông nhất từ thượng cổ tới ngày đó, người Ba Tư chịu ảnh hưởng giáo điều thờ Thần Lửa nên cách cai trị bớt khắc nghiệt và công bình hơn nhiều.
Người bạn 1: Thời gian khoảng này?
Người bạn 3: Khoảng từ 1.000 đến 500 trước
Thiên Chúa.
(Tới đây cô cháu gái của ông nhà văn xuất hiện với khay trà thường lệ. Cả Phượng cùng nhỏ bạn xúm lại giúp một tay để mọi người ai nấy có chén trà nghi ngút giải lao. Câu chuyện lịch sử bao giờ cũng gây bầu không khí nghiêm trang nặng nề.)
Ông nhà văn: Với đế quốc Ba Tư là bế mạc thuở bình minh của lịch sử nhân loại, bước sang thời văn minh cổ điển Hy Lạp La Mã. Việc này lại phải phiền giáo sư Sử Địa.
Người bạn 3: Nền văn minh vùng biển Aegee thoạt phồn thịnh tại đảo Crete rồi tại Mycenac và Troy. Mặc dầu dân Hy Lạp cùng một ngôn ngữ, tập tục nhưng không hợp nhất thành một quốc gia, trái lại hợp thành nhiều đô thị độc lập, trong số có hai đô thị quan trọng hơn cả là Athens với truyền thống dân chủ và Sparta với truyền thống quân kỷ khắc nghiệt.
Người bạn 1: Phải, tôi nhớ ra rồi, khi nền dân chủ Athens sụp đổ, chính quyền rơi vào tay vua
Philip đầy tham vọng xứ Macedonia.
Phượng: Ồ, em n hớ, con vu a Phi lip l à A l e x and e r cũng đầy tham vọng mà còn vượt xa phụ vương về tài năng quân sự và cai trị.
Người bạn 3 (gật đầu): Dùng quân lực Marcedonia và Hy Lạp hợp lại, Alexander đã thành lập một đế quốc thật mênh mông để bành trướng văn hóa Hy Lạp. Đế quốc này gồm cả miền Tiểu Á, Ai Cập, Ba Tư và vượt cả sông Indus sang biên giới Ấn Độ nữa.
Người bạn 2 (cười): Dĩ nhiên khi Alexander chết, đế quốc lại phân chia tàn lụi.
Người bạn 3: Nhưng tặng phẩm của nền văn minh Hy Lạp trải qua khoảng thời gian từ năm
300 đến 100 trước Thiên Chúa thật quý giá. Kinh nghiệm dân chủ của Hy Lạp đã ảnh hưởng khắp thế giới hàng bao nhiêu thế kỷ liên tiếp, cùng với điêu khắc, kiến trúc, kịch, thi ca, triết học, khoa học với những danh nhân tên tuổi chói lọi muôn đời: Socrates, Plato, Aristote, Herodotus… Tiếp nối Hy Lạp là đế quốc La Mã. Vào thế kỷ thứ Tám trước Thiên Chúa, tại hạ lưu sông Tiber, trên khoảng đồi Palatine, một trong bảy đồi của vùng này, một số bộ lạc người La Tinh khởi sự dựng nên một khu lập nghiệp nhũn nhặn thôi, nhưng chính là cái nôi khai sinh ra kinh thành Roma sau này.
Trinh: Em vẫn vô cùng lờ mờ về ranh giới thời gian giữa nền cộng hòa La Mã với đế chế La Mã. điểm này tôi lại nhớ được một chi tiết. Đó là vào thế kỷ thứ Bảy trước Thiên Chúa, những bộ lạc La Tinh bị một giống người hùng mạnh miền Tiểu Á – người Etruscans – đô hộ, có phải không ạ?
Người bạn 3: Đúng vậy! Vào năm 509 trước Thiên Chúa, người dân La Mã lật đổ nên quân chủ của người Etruscans thành lập nền cộng hòa. Chính thể cộng hòa đó kéo dài cho đến năm 31 trước Thiên Chúa.
Người bạn 1: Cuộc nội chiến giữa các cấp lãnh đạo đã chấm dứt chính thể cộng hòa.
Người bạn 3: Sau trận Actium kết thúc cuộc nội chiến giữa các cấp lạnh đạo đã chấm dứt chính thể cộng hòa.
Người bạn 2: Sau trận Actium kết thúc cuộc nội chiến vào năm 31 trước Thiên Chúa, Octavian chiếm được quyền lãnh đạo La Mã, lên ngôi Hoàng đế, tức Augustus, vị Hoàng đế đầu tiên của La Mã. Khoảng 250 năm đầu là thời gian thái bình thịnh trị của đế quốc này dài từ nước Anh phía Tây tới sông Euphrate phía Đông, rộng từ sông Rhine phía Bắc xuống tới Bắc Phi phía Nam. Sử gia Anh Gibbon đã viết trong cuốn Ngày Tàn Đế Quốc La Mã (The Decline and Fall of the Rome Empire): “Trong lịch sử của cả nhân loại thì cả thời gian phồn vinh hạnh phúc nhất của đời người phải kể đến khoảng thế kỷ thứ Hai sau Thiên Chúa dưới quyền cai trị của các nhà lãnh đạo đế quốc La Mã.”
Ông nhà văn: Phúc đức làm sao câu chuyện của chúng ta hôm nay lại xoay quanh đề tài lịch sử, âu cũng là ôn cố tri tân, thử xem hiện tại xoay vần đến đâu.
Người bạn 1: Thuở đó thanh bình thịnh vượng ra sao?
Người bạn 3: Họa chiến tranh hoàn toàn được xóa bỏ, các đô thị không chiêu binh mãi mã, trái lại thi đua nhau điểm trang. Tới đô thị nào cũng chỉ thấy nhà thể dục, giếng nước, cổng xây, đền thờ, cửa hàng, trường học. Toàn cõi, chỗ nào cũng làm dáng làm đẹp như vườn hoa vậy! Người La Mã rất chiêm ngưỡng thán phục văn hóa Hy Lạp cộng thêm những thành tựu của họ thành một nền văn hóa Hy-La. Đế quốc sa sút, các nhà lãnh đạo bất tài đi theo con đường tắt, con đường dễ dãi nhất là sử dụng cá biện pháp chuyên chế, độc tài, cứng rắn, lộ liễu. Hoàng đế Constantine chết vào năm 337, đế quốc sụp đổ, nát bấy. Sang thời Trung Cổ với sự xuất hiện của Cơ Đốc giáo.
Ông nhà văn: Định mệnh luôn luôn trớ trêu như vậy. Mặc dầu người sáng lập ra Cơ Đốc giáo bị xử trên thập tự của đế quốc La Mã dưới thời vua Theodorius, cuối thế kỷ thứ Tư. Tại các tu viện, văn hóa La Mã được giữ gìn, học vấn được khuyếch trương. Tại xứ Gaul, vua Clovis I hùng mạnh đem quân đi mở mang bờ cõi, liên hệ vương quốc mình với giáo hội La Mã, thành lập dòng họ Merovingian. Tôi vẫn khoái nghiền ngẫm lịch sử Trung Cổ, vùng sương mù thời này còn vô cùng gợi cảm và dạy nhân loại những bài học về thần quyền và thế quyền. Các vua kế vị của Clovis bất tài khiến quyền hành rơi là vị vua lớn nhất của dòng này. Năm 800, phải không anh, Đại đế được Đức Giáo hoàng Leo III tấn phong, đặt vương miện lên đầu. Sự nhận tấn phong đó, hẳn quý vị còn nhớ, đã chứng tỏ Giáo hội còn ở trên vương quyền. Kể từ đó luôn luôn có sự tranh chấp về uy quyền tối thượng giữa các vị quân vương và các Đức Giáo hoàng. Sau Charlemagne là thời kỳ phong Hầu kiến ấp phải không anh?
Người bạn 3: Vâng. Charlemagne chết, vương quyền bị phân chia. Bác vị vua cắt đất phong Hầu cho quý tộc với điều kiện đám quý tộc này trung thành với vương quốc, đóng góp về quân lực. Nền kinh tế thái ấp là nét đặc thù của thời Trung Cổ này. Mái thái ấp là một đơn vị tự túc, các nông nô bị cột liền với ruộng đất như gia súc vậy.
Ông nhà văn: (cười lớn, nâng tách trà mời mọi người cùng uống giải lao): Thế nào, hai cô cho biết ý kiến về bài học lịch sử cho tới đây.
Phượng: Cho tới đây bài học lịch sử đã dạy ta thấy rõ lẽ trăng tròn rồi khuyết, triều biển đầy rồi vơi. câu:
Trinh: Và đọc thơ Lý Bạch thấy yêu những
Xử thế nhược đại mộng
Hồ vi lao kỳ sinh.
Ông nhà văn: Đồng ý, đồng ý!
Người bạn 3: Tuy nhiên lịch sử có thêm nét mới. Vào thế kỷ thứ 10 và 11, nền thương mại đã được phục hồi phồn thịnh, thông thương khắp
Châu Âu, nền kinh tế tiền tệ được thay thế cho nền kinh tế hiện vật. Giới thương gia và thủ công thành lập các phường hội. Những người dân đô thị trở thành giàu có, và do đó thành một giai cấp mới – giai cấp tư sản – có ảnh hưởng định đoạt tới chính quyền đô thị. Sự quyền quý giờ đây không do dòng máu mà do tiền của định đoạt. Các đô thị và thương mại phồn thịnh kích thích nền giáo dục và nghệ thuật tiến triển. Các trường đại học được thiết lập tại Châu Âu kể từ năm 1100 trở đi. Ngôn ngữ địa phương được các thi sĩ, các nhà viết truyện sử dụng. Một hình thức thi ca có sớm nhất của nền văn học Trung Cổ là anh hùng ca. Các nhạc sĩ, kịch tác gia, họa sĩ, điêu khắc gia đều dùng tài năng phục vụ giáo hội. Nhà thờ xây cất theo kiểu Gothic và nghệ thuật họa trên kính màu đặc biệt phát triển vào thời này.
Người bạn 1 (cười): Đã bế mạc thời Trung
Cổ được chưa?
Người bạn 3: Chưa! Suốt thời Trung Cổ còn phải kể tới ba nền văn minh phát triển bên lề Châu Âu: nền văn minh Byzantine, thủ đô là Constantino- ple. Xã hội phồn thịnh, nên văn hóa Hy-La được bảo tồn tuyệt mỹ, quân chủ nhưng không chuyên chế lắm, theo Cơ Đốc giáo nhưng nghịch với Gia Tô giáo Tây phương của Rome, thụ hưởng gia tài La Tinh nhưng lại nói tiếng Hy Lạp. Đó là những điểm mâu thuẫn đặc biệt của văn minh Byzantine, một nền văn minh khá chói lọi còn sống sót tới một ngàn năm sau khi các tỉnh miền Tây của đế quốc La Mã sụp đổ. Bị Thập tự quân tới đánh từ đầu thế kỷ thứ 13, mãi tới hậu bán thế kỷ thứ 15 Byzantine mới hoàn toàn bị khuất phục. Mohammed – giáo chủ Hồi giáo – dường như đã thổi niềm hứng khởi cho đám người Ả Rập kiên trì chinh phục cả lãnh địa Byzantine lẫn lãnh địa Ba Tư kể từ thế kỷ thứ 7 và lập thành một đế quốc Hồi giáo mênh mông gồm Trung Đông, Bắc Phi và Tây Ban Nha. Qua thế giới Hồi giáo, các học giả, các khoa học gia, các nghệ sĩ đã đóng góp những công trình tuyệt mỹ. Cả hai nền văn minh Byzantine và Hồi giáo quả thực đã vượt xa tình trạng bán khai của Châu Âu thuở ban đầu thời đại Trung Cổ và bảo tồn được nền học vấn thời cổ điển. Tại Nga vào thời Trung Cổ, các vị hoàng thân ở Kiev đã duy trì một chính quyền thống nhất không mấy bền vững. Rồi các vị Hoàng thân ở các lãnh địa khác nổi lên tranh quyền hành ngôi thứ, rút cục vào thế kỷ 13 cả dân tộc Nga bị giống người Tartar đô hộ. Phải đợi tới hai thế kỷ sau các vị công tước ở Moscou mới thành công trong việc chiến đấu giành lại độc lập cho nước Nga, chứng tỏ sức sống kiên trì của dân tộc này.
Người bạn 2: Nước Nga theo Cơ Đốc giáo từ bao giờ?
Người bạn 3: Từ thế kỷ thứ 10. Vẫn sống chung với ngoại đạo, các cha cố Nga lại ít biết tiếng La-tinh và Hy Lạp, do đó nền văn hóa Nga dường như biệt lập xa lạ với văn hóa Âu Châu.
Ông nhà văn: Thế giai đoạn chuyển tiếp từ thời Trung Cổ sang thời Phục Hưng thế kỷ 16 rồi thế kỷ 17 có những nét gì đặc biệt nào? Mỗi người góp một ý để khỏi trùng nhau. Lady first, xin mời quý cô trước.
Phượng: Nghệ thuật thời Phục Hưng cực kỳ phồn thịnh, khởi đầu từ Ý, lan dần tới các nước khác tại châu Âu. Họa: Leonardo da Vinci, Raphael, Titian, Holbein, Rubens, Rembrandt. Điêu khắc: Michelangelo. Kịch: Shakespeare dưới triều đại Elizabeth. Văn học Tây Ban Nha có Cervantes với tác phẩm Don Quixote.
Trinh: Thế kỷ 16 và thế kỷ 17 còn là cuộc cải cách tôn giáo khởi sự từ Đức với Martin Luther, rồi lan rộng tới các nước Bắc Âu và Thụy Sĩ với John Calvin. Nước Anh ly khai với nhà thờ La Mã. Phong trào cải cách Tin Lành bỗng thành một yếu tố kích thích tinh thần dân chủ, mở mang giáo dục, khích lệ thương mại. Qua một thời gian chống phá hận thù, nhưng rồi chính phong trào cải cách này đưa tới tinh thần bao dung.
Người bạn 2: Columbus tìm ra Tân Thế Giới cuối thế kỷ 15; Vasco da Gama đi quành Nam Phi châu cũng tới được Ấn Độ; tiền bán thế kỷ 16, Magellan và thủy thủ đoàn mới hoàn tất được điều mà Columbus trước đây tưởng đã hoàn tất: đi về hướng Tây mà rồi gặp lại miền Đông. Đây là đám người thực hiện được cuộc vòng quanh thế giới đầu tiên. Cùng với thời đại khám phá ra đất đai mới này là hình thức tư bản đế quốc chiếm thuộc địa hải ngoại, độc chiếm tài nguyên, độc chiếm thị trường…
Người bạn 1: Tôi xin đóng góp về thời đại của khoa học, của lý trí, của những cuộc cách mạng dân chủ, thế kỷ 18. Tiền bán thế kỷ 16, Copernicus đã đề xướng thuyết mặt trời là trung tâm điểm cho trái đất xoay quanh. Luật các hành tinh chuyển động do Kepler phát kiến rồi những khám phá của Galileo đã chứng minh thuyết của Copernicus là đúng, mặc dầu nhà thờ bắt ép Galileo phải rút lui quan điểm đó. Newton vào hậu bán thế kỷ 17 khai triển luật hấp dẫn lực. Thời đại lý trí lên ngôi với những tiến triển khoa học ở mọi lĩnh vực. Vật lý, hóa học, y học… Hình thức dân chủ thấm dần vào các cơ chế chính quyền. Cuộc cách mạng 1789 Pháp, thuộc địa Bắc Mỹ dành được độc lập. Con người tưng bừng trong kỷ nguyên ánh sáng, tin tưởng khoa học vạn năng, lý trí vạn năng. Locke và Montesquieu chiếu ánh sáng lý trí soi mói chính quyền; Voltaire và Rousseau soi mói và địa phận luân lý, giáo dục tôn giáo. Với bộ Bách khoa Tự điển của mình, Diderot phổ biến sâu rộng những tư tưởng mới của thời đại. Tinh thần nhân bản cựa mình lớn mạnh, kêu gào cải cách tại mọi nơi, mọi ngành. Lý trí sáng chói nơi tác phẩm của Pope, Swift, Molière. Nhạc thể đạt tới khuôn mẫu chặt chẽ nơi Mozart, Haydn. Ngành kiến trúc cũng đạt tới bề thế chững chạc tân cổ điển.
Ông nhà văn: Được lắm, cám ơn anh, chúng ta cương quyết ôn xong bài học lịch sử trong buổi gặp gỡ hôm nay. Sang thế kỷ 19, tinh thần quốc gia càng lớn mạnh, tinh thần dân chủ càng phổ biến. Về các ngành nghệ thuật thì đàn clavecin được thay thế bằng piano có nhiều ưu thế hơn. Nhạc Beethoven là cây cầu nối cổ điển với lãng mạn. Hội họa ấn tượng hiện diện với Monet và Renoir vào hậu bán thế kỷ
19. Khoa học kỹ thuật đã từ máy chạy bằng hơi nước sang máy điện; ánh sáng điện, điện thoại, vô tuyến điện… Khi kỹ nghệ phát triển, thoạt sức lao động bị bóc lột kể cả đàn bà và trẻ nhỏ. Phong trào xã hội phản kháng. Bản Tuyên ngôn Cộng sản năm 1848. Rồi Đệ Nhất Quốc tế. Karl Marx viết xong Tư Bản Luận. Rồi Đệ Nhị Quốc tế. Marx tiên đoán giai cấp công nhân, ngày một nghèo khổ vì bị bóc lột, sẽ nổi dậy lật đổ chế độ tư bản, nắm chính quyền, kiểm soát kỹ nghệ. Nhất định như vậy, không thể khác được! Nhưng mức sống đã được nâng lên, những tiến bộ kỹ thuật giúp công nhân đỡ vất vả nhiều; phổ thông đầu phiếu bảo đảm vũng chắc thể chế dân chủ, giáo dục cưỡng bách ngày một lan rộng, những hiệp hội lao động được công khai thành lập, và chỉ ở những quốc gia nào chính quyền dân chủ yếu kém, ảnh hưởng Marxism mới mạnh mà thôi.
Người bạn 1: Như vậy vì sao Thế Chiến I lại xảy ra vào năm 1914 nhỉ, tôi quên mất chi tiết rồi.
Người bạn 3: Bởi vì cùng với kỹ nghệ bành trướng, đế quốc chủ nghĩa cũng bành trướng theo. Và thiên hạ tranh nhau thuộc địa, tranh nhau nơi khai thác nguyên liệu, tranh nhau thị trường.
Người bạn 1 (cười): Ờ nhỉ, có thế mà cũng… Bảo là trí nhớ nhân loại hay quên cũng được nhưng tế nhị hơn nên bảo là… lười nhớ. Ấy là cuối thế kỷ 19, giải Nobel Hòa Bình đã được thành lập phải không cụ?
Người bạn 2: Tôi nhớ trong khi nước Tàu bị liệt cường xâu xé, nước Nhật nhờ cuộc canh tân kịp thời và khôn ngoan của Minh Trị Thiên Hoàng đã thành cường quốc đánh bại Nga trong trận thủy chiến tại Port Arthur năm 1905 thì phải.
Người bạn 3: Nguy cơ Thế Chiến I hiện dần khi các cường quốc Âu châu tập hợp thành hai phe gầm ghè nhau. Dưới quyền lãnh đạo của Bismarck, đế quốc Đức liên minh với Áo, Hung, Ý. Để đề phòng tự vệ, Anh, Pháp, Nga cũng kết hợp thành khối với nhau. Đó là vào năm 1900. Nhưng rồi mãi tới năm 1914 nhân vụ Serbia – sau này là Nam Tư – muốn mở lớn bờ cõi hơn. Lò thuốc súng của Đệ Nhất Thế Chiến là ở đây. Nga khuyến khích ý đồ của Serbia để tìm đường tới Địa Trung Hải. Đức cũng muốn có ảnh hưởng tại vùng Balkans để rồi với dài bàn tay kinh tế tới Cận Đông. Nhưng tham vọng mở rộng bờ cõi của Serbia trực tiếp đụng chạm tới Đế quốc Áo-Hung, và Anh Cát Lợi thì cũng luôn luôn cảnh giác phản đối Đức và bất kỳ nước nhào khác xía mũi uy hiếp tới con đường giao thông của mình qua nơi này để tới Ấn Độ và Trung Hoa. Vì vậy mà vào năm 1914 khi vị Hoàng tử Áo, Franz Ferdinand, bị một nhân viên hội kín Slave ám sát, lập tức chiến tranh bùng nổ giữa Áo và Serbia, và mang màu sắc thế chiến ngay vì Đức-Áo-Thổ kết hợp thành khối Lực lượng Trung ương chống nhau với khối Anh-Pháp liên minh với 27 nước nữa gồm cả Ý và Hoa Kỳ. Xin lưu ý quý vị chiến tranh kỳ này coi mòi xôm trò hơn nhiều với những vũ khí tân kỳ: phi cơ, xe tăng, tàu ngầm, hơi độc. Anh phong tỏa Bắc Hải để giảm nguồn tiếp tế lương thực tới Đức. Tàu ngầm Đức đánh đắm tàu Đồng Minh quá xá đến nỗi Anh quốc xém chết đói. Cũng lại lưu ý quý vị thêm là năm 1917, Đảng Bolsheviks Nga ký hiệp ước hòa hoãn với Đức, thì cũng vừa may Hoa Kỳ nhảy vô.
Sang năm 1918 mới có sự hiện diện của lính
Hoa Kỳ chiến đấu tại mặt trận Pháp. Khối Trung ương thua, xin nghị hòa. Hiệp ước Versailles ký, một số quốc gia được độc lập, một số khác kém may mắn hơn còn bị ngoại bang thống trị. Chẳng qua là một cuộc chia chác lại thuộc địa, có gì đâu. Dù sao thì sau Hòa ước Versailles, Hội Quốc Liên cũng thành lập do sáng kiến của Tổng Thống Mỹ Wilson với tham vọng giải quyết êm đẹp mọi tranh chấp quốc tế về sau.
Ông nhà văn (tươi cười): Ôn lại lịch sử vốn là công việc mệt nhọc, cám ơn anh đã lãnh cho phần nặng nhọc đó. Bây giờ đến lượt chúng tôi đóng góp về Đệ Nhị Thế Chiến. Lại xin quý cô đóng góp trước.
Phượng: Em chỉ xin nhắc quý vị nhớ lại một vài khuôn mặt lớn của lịch sử quốc tế trước khi Đệ Nhị Thế Chiến bùng nổ. Đó là cuộc tranh đấu bất bạo động của thánh Gandhi tại Ấn Độ. Trung Hoa thức tỉnh với cuộc cách mạng Tân Hợi 1911 – với thuyết Tam dân Chủ nghĩa của Tôn Dật Tiên. Mustafa Kemal canh tân Thổ Nhĩ Kỳ.
Trinh: Vì Nga Hoàng tham dự vào Đệ Nhất Thế Chiến mà chính quyền lỏng lẻo trong nước, dân chúng biểu tình tại thủ đô Petrograd vì thiếu lương thực. Mấy ngày sau quân đội cũng nổi loạn. Cuộc nổi dậy của quân dân biến thành cách mạng. Nga Hoàng Nicholas bị cô lập đành chịu thoái vị nhường quyền cho Hoàng thân Georgy Lvov thành lập nội các gồm những thành phần tự do của giai cấp trung lưu. Những biến cố trên xảy ra vào tháng
3 năm 1917. Tới tháng 7-1917 Luật gia Kerensky lên nắm quyền thủ tướng thay hoàng thân Lvov. Ông là người chân thành, có thiện chí thiện tâm nhưng cũng bất lực trong việc tổ chức và nắm vững quần chúng nên chính quyền chuyển sang tay Lê-nin, lãnh tụ Đảng Bolsheviks. Nhưng đến khi tổ chức tuyển cử tự do những người Bolsheviks được không đầy một phần tư số phiếu với sự yểm trợ lưỡi lê của Đoàn Vệ binh Đỏ, Lê-nin lập tức giải tán Quốc hội và thành lập nền độc tài Cộng sản kể từ đó. Lê-nin chết năm 1924, Stalin lên thay, thanh toán Trotsky và các đồng chí đối lập khác, khép toàn thể nước Nga trong kỷ luật sắt của một nền độc tài mà tới nay chính những đảng viên Bolsheviks Nga, từng là nạn nhân sống sót của Stalin, còn thấy táng đởm kinh hồn. Tuy nhiên Liên bang Xô viết đã nghiễm nhiên thành một thực thể trong cộng đồng quốc tế. Hoa Kỳ công nhận Liên bang Xô viết, và Liên bang Xô viết gia nhập Hội Quốc Liên vào năm 1934. Hình như sau khi Hitler và Mussolini đã lên nắm chính quyền, Liên bang có gõ cửa Anh, Pháp tìm đồng minh nhưng bị ghẻ lạnh, sau đó mới ký Hiệp ước bất xâm phạm với Hitler vào năm 1939 thì phải. Sau đó phong trào phát-xít độc tài như lửa gặp gió. Xin quý vị cho thêm chi tiết về giai đoạn lịch sử trước Thế Chiến Hai này.
Người bạn 1: Tôi nhớ thuở ban đầu nền móng độc tài là Mussolini lên chức Thủ tướng Ý rồi ít năm sau thành lãnh tụ phát-xít. Phe quân phiệt Nhật cũng chịu đậm đà ảnh hưởng phát-xít và nắm trọn vẹn chính quyền Nhật vào năm 1932 nhân vụ kinh tế khủng hoảng. Hitler, lãnh tụ Đảng Quốc xã Đức, cũng mang màu sắc vườn đào kết nghĩa Lưu
Quan Trương lắm chứ! Chỉ có điều khác, đám Lưu Quan Trương tân thời này đã là cả một cuộc thử thách cam go cho nền dân chủ thế giới. Chi tiết đưa đến Thế Chiến thứ Hai tôi quên mất rồi, tôi vốn dốt về Sử mà.
Người bạn 2: Năm 1931, Nhật xâm lược Tàu. Hội Quốc Liên khiển trách. Nhật rút lui khỏi Hội. Cóc cần! Mussolini nắm được nhược điểm đó bèn tấn công Ethiopia vào năm 1935. Hitler yểm trợ cho ông bạn vàng Mussolini, rồi cả hai cùng yểm trợ cho lực lượng phát-xít trong cuộc nội chiến Tây Ban Nha (1936-1939). Ba nước tiêu biểu cho truyền thống dân chủ là Anh-Mỹ-Pháp thì đành cắn răng chịu đựng, có hòa hoãn để duy trì hòa bình cho dân chúng sau bao năm ròng kinh tế khủng hoảng. Biết vậy Hitler sát nhập béng nước Áo vào Đức. Bình nước chịu đựng đến đây quả thực vừa… tràn đầy. Chỉ cần một giọt nhỏ thêm vào đủ tràn bờ, huống chi lại cả một gầu nước. Đó là vụ Hitler đem quân vào Ba Lan năm 1939. Lập tức Anh, Pháp tuyên chiến với Đức. Xin nhà Sử học cho biết thêm vài nét chi tiết cơ bản về giai đoạn này.
Người bạn 3: Phải, chúng ta đừng nên quên sự kiện Stalin cũng đã gõ cửa đồng minh Anh, Pháp; vì thất bại nên mới ký thỏa hiệp bất xâm phạm với Đức. Khi Anh-Pháp tuyên chiến với Đức, nhân thuở ban đầu bối rối này, Nga lấn đất của Phần Lan, bắt mấy nước miền Baltic – Latvia, Lithuania, Estonia – phải cho mình đặt căn cứ Hải quân và Không quân. Chiếm xong Ba Lan, Hitler chiếu cố tới các nước Bắc Âu. Xong Bắc Âu, Hitler xua quân đánh vào sườn chiến lũy Maginot và tràn vào Pháp, bức Pháp phải đầu hàng. Còn lại một mình, Anh tiếp tục đương đầu với Đức. Tại vùng Balkans khối Trục cũng đạt được những thắng lợi lớn thuở ban đầu. Mặc dầu Mussolini thất bại ở Bắc Phi, nhưng giữa năm 1941 đã uy hiếp được vùng kênh Suez. Ma đưa lối quỷ dẫn đường, Hitler tấn công Liên Xô vào ngày
22 tháng 6, 1941, nhưng “Đại tướng mùa Đông” của Nga – với cái rét băng giá khốc liệt đã yểm trợ rất hữu hiệu cho cuộc phản công ác liệt của quân lực Nga. Hitler còn thua Napoléon ở điểm không được nhìn thấy Moscou. Cũng lại do một quyến rũ khắc nghiệt của định mệnh, Nhật tấn công Trân Châu Cảng của Mỹ vào cuối năm 1941, buộc Mỹ phải chính thức nhảy vô tham chiến. Phe Trục càng bành trướng, mức sản xuất chiến cụ của Mỹ càng đạt tới những cao điểm mới đủ để thỏa mãn nhu cầu chiến trường. Quân Nhật bị thiệt hại nặng tại vùng biển San Hô và vùng quần đảo Midway khi phải đương đầu với Hải quân Mỹ. Khối Trục bắt đầu xuống dốc lẹ. Đức thất trận nặng nề tại Stalingrad ngay từ đầu năm 1943, kế đó tại Bắc Phi nữa. Tại Casablanca và Tehran các lãnh tụ Đồng Minh đã họp bàn cả những vấn đề hậu chiến. Tháng 8-1944, Paris được giải phóng. Quân đội Đồng Minh tiến vào đất Đức, khai quật các trại giam Đức, cả thế giới thất thần trước tội ác Quốc xã thủ tiêu Do Thái. Roosevelt, Churchill và Stalin gặp nhau ở Yalta, tháng 2-1945. Đầu tháng 5-1945, quân lực Đồng Minh hoàn toàn thắng tại Âu Châu. Tại mặt trận Á Châu, tổng thống Truman quyết định thả hai trái bom nguyên tử tại
Hiroshima và Nagasaki. Rồi! Đệ Nhị Thế Chiến kết thúc vào ngày 2-9-1945.
Ông nhà văn: Thế giới nhân loại hiếm khi được diễm phúc do người, thật người dìu dắt, thường thì cứ do các đấng siêu nhân! Trên căn bản cực kỳ khoa học, căn cứ vào số thuốc an thần của một đấng siêu nhân đã tiêu thụ trong cơ thể, các bác sĩ đã hốt hoảng báo động với toàn thể thế giới rằng: Số lượng thuốc an thần như vậy, cụ thể dùng cho một người như vậy, thì người đó chắc chắn thành tên khùng rồi, chắc chắn bất bình thường rồi, không còn hồ nghi gì nữa.
Người bạn 1: Thôi thì đắm đò ta giặt mẹt luôn thể, xin nhà sử học cho hay nốt viễn tượng Sử nhân loại năm 2000 sắp tới.
Người bạn 3: Bốn vấn đề sinh tử cho nhân loại năm 2000: vấn đề tăng dân số; vấn đề năng lượng; vấn đề nguyên liệu; và vấn đề môi sinh.
Phượng: Phải chăng với khoa tương lai học này, nhân loại đã có thể hoạch định tương lai, tiên liệu mọi bất trắc?
Người bạn 3: Với điều kiện chúng ta phải dũng cảm nhập cuộc, tích cực góp phần chuyển hóa, định hướng lịch sử, đùng làm những khán giả thụ động, ươn lười hoặc tệ hại hơn nói một đằng làm một nẻo!
Ông nhà văn: Tôi muốn thường xuyên nhắc nhở hai điểm chính yếu: luôn luôn nhạy cảm về giá trị con người. Một vì sao nhỏ bé chuyển vần, cả vũ trụ tinh tú, tinh vân, thiên hà cùng nhịp nhàng chuyển vần theo luật hấp dẫn đại đồng; thực tại là sự trở thành thường xuyên của “một là tất cả, tất cả là một”.
Người bạn 1: Y học năm 2000 chắc chắn bảo vệ hữu hiệu thể chất con người; nhưng còn tinh thần, còn trí tuệ?
Người bạn 2: Dĩ nhiên tinh thần và trí tuệ con người tùy thuộc nơi giáo dục.
Người bạn 3: Muốn thật chính xác có lẽ chúng ta nên nói tinh thần và trí tuệ con người tùy thuộc nơi hai yếu tố chủ quan và khách quan. Yếu tố chủ quan là tinh thần và trí tuệ con người có được tiềm năng dồi dào hay èo uột do hoàn cảnh nó được đản sinh; yếu tố khách quan là chất lượng giáo dục mà xã hội dành cho, để nó hoàn thành những phần vụ, chức năng được giao phó. Chất lượng giáo dục phong phú – yếu tố khách quan – nhưng tinh thần và trí tuệ èo uột, không gánh vác nổi, không theo kịp – yếu tố chủ quan – thế quân bình chới với đó có thể khiến cá nhân suy nhược thần kinh, gục ngã trong tuyệt vọng bi thảm. Thế giới tự do đi từ chỗ nô lệ cho vật chất thắng vượt dần những khó khăn trói buộc của vật chất để tiến dần sang kỷ nguyên trau chuốt thăng hoa trí tuệ tinh thần; ngược lại Cộng sản cố dìm, cố níu giữ vùi dập nhân loại trong nô lệ vật chất để chứng minh chân lý duy vật “muôn đời ngời sáng trong vũ trụ trần hoàn.”
Ông nhà văn: Thoát khỏi sự triền phọc của vật chất, nhân loại như cây vươn cao lên vùng sáng chói lòa, cợt mây rỡn gió, chim bướm vây quanh. Dìm nhân loại xuống vũng bùn nghèo đói, giật gấu vá vai, nô lệ vật chất, nhân loại thành cây sa mạc thấp lùn, cằn cỗi, gai góc với những đầu lâu quắt quéo cắm trên cành khô, những bộ xương người, xương thú, nhỏ thó, héo hon treo lơ lửng lơ đu đưa với gió.
Trinh: Vậy hoàn cảnh tuyệt hảo là một xã hội trong đó con người được quan tâm nâng đỡ, khích lệ, cải thiện cả vật chất lẫn tinh thần.
Ông nhà văn: Và phải theo chiều hướng tạo sự tiến bộ cho cả loài người, không thể cho riêng một dân tộc độc quyền ưu việt, có nghĩa là độc quyền khống chế. Muốn người khác tự do là chính mình được giải phóng!
3
Em gái nhỏ mang lên căn gác xép bữa cơm trưa có canh bí đỏ ngọt như chè và sườn xào chua ngọt. Trời, bữa ăn này sao tương tự bữa ăn chiều đó sau bài học lịch sử?! Phượng đã từng có lần vừa sực nghĩ đến một chữ khó và lơ đãng mở tự điển thì rơi đúng vào trang có chữ đó. Theo xác suất, trường hợp tương tự, đời người gặp được mấy lần? Bữa ăn trưa nay cũng là một trùng hợp hi hữu tương tự. Phương còn nhớ sau khi ông nhà văn vừa dứt câu “Muốn người khác tự do là chính mình được giải phòng,” thì cô cháu gái lớn bưng từ trên gác xuống một mâm đầy: có cơm nếp và sườn xào chua ngọt. Ông anh nhà văn cũng xuống theo với xoong chè bí đỏ nấu với đậu xanh. Ông ở lại ăn uống với mọi người, chỉ cô con gái trở lên gác. Ông cỡ sáu chục tuổi nhưng còn trẻ, có lẽ vì tính tình vui hồn nhiên, lông mày có vài sợi trắng rõ, nhưng mái tóc chưa bạc nhiều. Ông đã quen với mọi người, kể cả nhỏ bạn, trừ Phượng, vì vậy mà ông cười với Phượng y như với những người kia, rất thân thuộc. Có khi hai đề tài khác nhau hẳn nhưng khi chính ông khai mạc đề tài hai, Phượng có cảm tưởng như ông vẫn tiếp tục đề tài cũ. Vẻ hăm hở chân tình hồn nhiên của ông thu hút Phượng nơi bề sâu. Nhiều lời với người khác có thể là hơi thô, nhưng qua ông lại là cách tả chân trong sáng. Đặt xoong chè xuống mép bàn, sát mâm cơm nếp và sườn xào chua ngọt, ông nói ngay:
- Quý vị tưởng sớm sao? Nhìn ngoài kia kìa! (Ai nấy nhận ra trời đã về chiều.) Thấy quý vị còn say mê thảo luận tôi vội sai con cháu cấp tốc thổi nồi cơm nếp, còn sườn xào chua ngọt đã làm từ trưa. Ấy xin quý vị thưởng thức gạo nếp quê tôi thuộc huyện Gia Lâm. Đứng ở cánh đồng quê, tôi nhìn thấy những lò gạch Bát Tràng.
Trên thời có đám mây xanh
Ở giữa mây trắng xung quanh mây vàng
Ước gì anh lấy được nàng
Để anh mua gạch Bát Tràng về xây.
Ha ha! Nhớ lại buổi nói chuyện với chú
Vĩnh, Phượng hỏi:
- Nam nữ thanh niên Hà Nội bây giờ… bình đẳng lắm phải không ạ?
Ông cười lớn:
- Tôi mới ở ngoải trở về được ba ngày nè. Có thể nói chính con trai Hà Nội bây giờ nhiều khi như phải giữ… trinh tiết. Nam thanh niên cũng quần loe, tóc dài đúng kiểu híp-pi, nữ thanh niên cũng quần jean, áo pull hoặc những áo mặc mùa lạnh hợp thời trang, rất nhiều cô cả xinh lẫn đẹp rất quyến rũ, nếu như chỉ có thế, nghĩa là chịu khó ngậm miệng. Chết nỗi, các cô nói nhiều và nói lớn rất tục một cách cực kỳ say mê. Cách ăn nói tục tằn công khai đến nỗi một dân biểu đã phải đọc một bản tham luận trước Quốc hội tố cáo và phê bình gay gắt hiện trạng văn hóa giáo dục thể hiện nơi nam nữ thanh niên thủ đô.
Người bạn 1 ướm hỏi:
- Anh có thể dẫn chứng cụ thể hơn cho chúng tôi chia xẻ kinh nghiệm?
Ông nhìn Phượng, Trinh hơi ngần ngại chút ít rồi mới quyết định:
- Một trong muôn vàn tỉ dụ: Hôm đó tôi đương ngồi ở một quán cà-phê cóc, có một thiếu nữ thật xinh đẹp ngồi gần đấy đã từ lâu. Rồi người bạn trai của cô đạp xe tới. Lời cô gái văng tục rất đàng hoàng, rất tự nhiên, “Đ. mẹ, hẹn người ta tám giờ mà bây giờ gần chín giờ mới tới.” Người con trai đáp, “Đ. mẹ, nhưng mà xe hỏng giữa đường biết là đ. thế nào!” Người con gái tiếp ngay lời hằn học, “Hỏng cái con c.” Quả thực các cụ nhà ta xưa nói chí lý: Cái nết đánh chết cái đẹp! Từ lúc nghe cô gái văng tục ngon lành, tôi thấy ngao ngán cho đạo đức xuống dốc quá bi thảm của quê hương miền Bắc mình. Đây là một sự kiện phổ biến – khổ thế! Một gia đình tam đại đồng đường, cha con ông cháu trao đổi câu chuyện thường nhật, lời lời văng tục, hàng hàng xổ nho, mình thấy bi thảm và xót xa không thể chịu nổi. Đó là một sự kiện phổ biến, khổ thế! Quý vị cứ nhìn ngay trong Nam này cũng thấy ngay những yếu tố văn hóa miền Bắc chiến thắng đã mang vào miền Nam: tham lam, ti tiện, xảo quyệt.
Lời ông nói rõ ràng thao thao bất tuyệt mà sao Phượng thấy lẩn quất nghẹn ngào, đôi khi như có cả tiếng nấc nữa. Có lẽ cũng thông cảm điều đó, người bạn 2 muốn chuyển hướng đề tài:
- Anh thấy sao về nạn mãi dâm ngoài đó? À! Các anh đây, trừ hai cô này, đều là B.54 – Bắc kỳ di cư năm 1954 – cả chứ gì? Các anh nhớ Hồ Bảy Mẫu? Hồ Bảy Mẫu được lấp đi ba phần tư làm Công viên Độc Lập thời gian nội chiến, đất nước phân đôi. “Cách mạng” thắng, đất nước thống nhất, cần lấy lòng đàn anh Liên Xô vĩ đại để tranh thủ một số viện trợ kiến thiết xã hội chủ nghĩa, Công viên Độc Lập bèn đổi thành Công viên Lê-nin. Xin thưa với các cụ, trước đây tôi đã nổi khùng khi thấy Hồ Chí Minh mệnh danh cho ngọn núi cao nhất gần Pác Bó là núi Mác, dòng suối chảy ngang Pác Bó là suối Lê-nin, tinh thần phủ phục quì mọp nô lệ quá ư là đê tiện và lộ liễu! Nhưng kỳ vừa qua tới thăm Công viên Lê-nin ăn tối, tôi ứa nước mắt thương cho dân tộc mình, và thương cho cả Lê-nin. Cả khu công viên lốm đốm những điểm sáng đèn dầu, mỗi điểm sáng là một nơi bán dâm. Lịch sử sai một ly đi một dặm. Ấy chết, cả nhà ăn cơm nếp với sườn xào chua ngọt đi chứ. Đói rồi còn gì! Ăn xong có chè bí ngô đét-se!
Ông nhà văn cười, rồi vừa mời mọi người cầm bát đũa gắp xôi, gắp thức ăn vừa nói:
- Ông anh tôi có tật mải nói, quên ăn, thiệt là ngược lại với tôi thường mải ăn, quên nói.
Người bạn 3 lên tiếng trong bữa ăn:
- Anh vừa rồi nói lịch sử sai một ly đi một dặm là đúng quá. Và hậu quả không biết đâu mà lường. Chẳng hạn sử gia Pháp René Grousset đã nêu trường hợp quân đội Trung Hoa đời Hán dồn một số Hung Nô về một miền biên giới Siberia và Turkestan. Họ thành dân tộc Tây Hung Nô, rồi mãi tới bốn thế kỷ sau, do Attila chỉ huy, mới xâm chiếm phương Tây làm đế quốc La Mã hoàn toàn xụp đổ. Hồ Chí Minh về ở Pác Bó, Cao Bằng, năm 1941. Năm 1945
Cộng sản cướp được chính quyền. Rồi kháng chiến, rồi nội chiến. Bốn mươi năm trôi qua. Đất nước thống nhất nhưng dân chúng Việt Nam bản tính bám chặt lấy quê hương mà đành phải vượt biên tị nạn cả triệu người, gửi thây dưới đáy biển khoảng mấy chục vạn đấy?! Phụ nữ khoảng 10.000 người biệt tích ở Thái Lan, nạn nhân của hải