← Quay lại trang sách

CHƯƠNG 2 MANH MỐI TRONG TRANH SƠN DẦU

Câu chuyện Quỷ Cốc Tử xuống núi là thế này.

Chuyện này bắt nguồn từ bình thoại thời Nguyên12 Xuân Thu hậu tập - Nhạc Nghị lập mưu làm Tề mất nước: Nước Tề và nước Yên đánh nhau, nước Tề cử Tôn Tẫn cầm quân, dọc đường thế như chẻ tre, đánh cho tướng nước Yên là Nhạc Nghị thua tơi tả. Nhạc Nghị không biết làm sao, bèn vời thầy mình là Hoàng Bá Dương giúp bày trận, vây khốn Tôn Tẫn. Đại phu Đông Tề là Tô Đại đích thân đến núi Vân Mộng, vời thầy của Tôn Tẫn là Quỷ Cốc Tử ra tay giúp đỡ. Bấy giờ Quỷ Cốc Tử mới đi xe xuống núi cứu học trò.

Đồ gốm trước thời Nguyên ít khi thấy trang trí bằng điển tích lịch sử. Bình thoại tạp kịch13 rất phổ biến trong dân gian vào thời Nguyên, rất nhiều nhân vật lịch sử từ đó mà bắt đầu đi vào lòng người, các tác phẩm cùng loại hình cũng ngày một nhiều lên.

Trước kia tôi từng nghe Dược Bất Nhiên nói, vẽ tích cổ là khó nhất trong số các hình thức trang trí đồ gốm sứ. Ví như hoa văn bát bảo, hạc tròn, sen chung gốc, ly uốn mình v.v... đều có khuôn mẫu cố định, không cần động não nhiều. Dù là tranh nhân vật kiểu hai cụ ngắm trăng, năm chàng thi đỗ, bầy trẻ nô đùa... đều có mẫu sẵn, chỉ việc vẽ theo. Riêng những tích lịch sử là cái nào biết cái nấy, Văn vương tìm người hiền bố cục một kiểu, ba lần ghé lều tranh lại bố cục kiểu khác, không thể trùng lặp. Thử thách đặt ra với người vẽ là phải nắm vững từng chi tiết về nhân vật và đồ vật, đồng thời phải xây dựng được bố cục tổng thể, thậm chí còn cần phát huy trí tưởng tượng nữa.

Khó nhất là họ không phải tác nghiệp trên giấy, mà là trên đồ gốm sứ. Sứ thanh hoa thuộc dạng vẽ dưới men, chỉ cần hơi sơ sẩy, để vấy ra mấy giọt men, hoặc chỗ nào đó tráng men quá dày, sau khi nung bị biến dạng thì cả bức tranh sẽ hỏng hết.

Thế nên những chai lọ vẽ hình nhân vật lưu truyền đến ngày nay đều là hàng tinh tuyển, nếu được thợ khéo vẽ giá không dưới trăm nghìn tệ. Lão Từ làm một loạt hàng giả thế này, hẳn là định đánh một mẻ lớn đây.

Bàn về giám định đồ gốm, tôi chỉ thuộc dạng võ vẽ vỡ lòng. Trông qua mười mấy chiếc chóe sứ “Quỷ Cốc Tử xuống núi” này cũng chẳng thấy sơ hở lồ lộ, nếu lấy một chiếc ra bảo tôi xem, có lẽ khả năng phân biệt thật giả chỉ 50-50, chẳng khác gì đoán mò.

Dược Bất Thị tuy xuất thân Huyền môn, nhưng không hoạt động trong ngành này, e rằng kiến thức chuyên môn còn chẳng bằng tôi.

Anh ta cau mày như vậy, hẳn là vì một nguyên nhân khác.

Tôi huých Dược Bất Thị, “Rốt cuộc là sao?” Dược Bất Thị không đáp, chỉ xoa cằm nhìn chằm chằm mấy chóe sứ thanh hoa nọ, gần như dán mắt vào. Chừng hai phút sau, anh ta đi tới trước một chiếc chóe, giơ tay sờ, sau đó vòng ra đằng sau, nhìn phía bên kia, chẳng mấy chốc đã quay lại, ngồi xuống, ghé mắt nhìn gần.

Không biết đầu đuôi còn tưởng anh ta là chuyên gia có thâm niên ấy chứ.

Cảnh sát đảo qua mấy lần, giục rằng chỗ này sắp bị phong tỏa, những người không liên quan phải mau chóng rời đi.

Dược Bất Thị đứng dậy, mặt sầm sì như vừa ngâm vào acid nitric. Anh ta hỏi có ai có máy ảnh không nhỉ, tôi nói trong những tình huống này thường có pháp y ở hiện trường, họ lúc nào cũng mang máy ảnh. Đoạn tôi chạy đi tìm chủ nhiệm Khang, nhờ ông ta làm trung gian cuối cùng cũng mượn được một chiếc máy ảnh.

Dược Bất Thị cầm máy ảnh tanh tách chụp mười mấy cái chóe một chập, sau đó trả lại máy cho tôi, rút trong túi ra một xấp đô la: “Cậu giao riêng cho tay pháp y kia, nhờ anh ta rửa ra rồi đưa thẳng cho chúng ta, không được sao lại, cũng không được cho người khác xem.”

Tôi cảm thấy mình đã thành chân chạy vặt của Dược Bất Thị, nhưng nhìn vẻ mặt nghiêm nghị của anh ta, hẳn đã có phát hiện lớn, tôi đành răm rắp nghe theo.

Dặn dò tay pháp y xong, chúng tôi cũng chẳng còn việc gì ở đây nữa. Sau khi cảnh sát lấy khẩu cung, chúng tôi quay về nhà khách. Chủ nhiệm Khang cũng đi theo, hết sức ân cần. Một phần ông ta lo bị tôi kéo vào vụ bắt cóc, phần nữa là sợ Dược Bất Thị rút lại ý định đầu tư thì khó ăn nói với cấp trên. Tôi và Dược Bất Thị cũng không tỏ rõ thái độ, cứ lập lờ nước đôi nhử ông ta.

Dược Bất Thị rõ ràng đang trĩu nặng tâm sự, sau khi về nhà khách, anh ta chẳng chuyện trò gì với tôi mà giam mình trong phòng, liên tục gọi điện thoại. Tuy tôi lấy làm nghi ngại, nhưng cũng chẳng biết làm sao.

Tôi và Dược Bất Thị vốn không lấy gì làm thân thiết, chỉ hợp tác vì thù hận. Tay này thực ra khá giống Lưu Nhất Minh, có mười chỉ nói một, nếu không muốn nói thì có gặng hỏi mấy cũng vô ích, còn nếu đã muốn nói có bịt miệng anh ta lại cũng chẳng ngăn nổi. Tôi đành gác lại không nghĩ nữa, đi tắm nước nóng rồi gọi điện cho Yên Yên hỏi thăm bệnh tình ông nội cô.

Yên Yên nói ông Vũ đã hồi phục kha khá, nhờ quanh năm tập võ nên thể chất vốn đã tốt, giờ có thể xuống giường đi lại được rồi. Cô hỏi tôi đang làm gì, tôi ngập ngừng giây lát rồi đáp rằng đang theo đoàn làm phim tài liệu về văn vật.

Yên Yên chẳng chút nghi ngờ, chỉ dặn dò vài câu, nhắc tôi chú ý an toàn. Tôi hỏi thăm ông Vũ có tiết lộ tin tức gì không, Yên Yên lặng thinh giây lát rồi hỏi, “Anh vẫn canh cánh trong lòng chuyện Lão Triều Phụng phải không?”

Trực giác của phụ nữ tinh thật. Tôi cười đáp, ấy là thù lớn của anh, sao mà quên được, có điều giờ anh chỉ một thân một mình, cũng chẳng làm được gì nhiều.

Yên Yên nói: “Em nghe nói trong bữa cơm anh đã mở lời nhờ họ giúp đỡ, nhưng chẳng ai đếm xỉa, thảy đều phát hoảng vì một cái bình thuốc con con. Đám người trong Hội lúc nào chẳng mềm nắn rắn buông, thấy tiền sáng mắt, đừng hòng họ vì một người đã chết từ đời tám hoánh mà từ bỏ lợi ích trước mắt.”

“Minh Nhãn Mai Hoa thay đổi rồi.” Tôi khẽ thở dài.

“Không đâu, Minh Nhãn Mai Hoa không hề thay đổi.” Yên Yên nói, “Em mới được ông kể cho nghe một chuyện về ông Hứa Nhất Thành, anh muốn nghe không?”

Nghe nhắc đến ông nội mình, tim tôi thắt lại.

Câu chuyện Yên Yên kể xảy ra vào thời Dân Quốc. Bấy giờ Trương Tác Lâm sắp thua chạy khỏi Bắc Kinh, một viên cảnh sát tục gọi là Ngô Diêm Vương cho vời người của Minh Nhãn Mai Hoa tới nhà, ép phải giám định đồ giả thành thật để bán cho các phú thương trong kinh thành. Cả Minh Nhãn Mai Hoa ra sức đùn đẩy nhau, chẳng một ai chịu làm việc tự đập bảng hiệu của mình như thế cả, cuối cùng ông Hứa Nhất Thành chủ động đứng ra cáng đáng, mới bình yên qua được nạn ấy.

“Theo lời ông em thì Minh Nhãn Mai Hoa từ thời Dân Quốc đã thế rồi. Bấy nhiêu năm nay vẫn không bỏ được thói hèn nhát an phận.” Yên Yên bình luận đúng giọng Hoàng Khắc Vũ.

Nghe xong câu chuyện, máu nóng trong lồng ngực tôi dâng trào, thế mới là ông nội tôi chứ! Ông Hứa Nhất Thành dám nói dám làm, can đảm gánh vác thế cơ mà!

Có điều nghĩ lại thì, Hoàng Khắc Vũ xưa nay vẫn rất gay gắt với ông nội tôi, về sau ông tôi rửa sạch oan khiên, thái độ ông ta mới đỡ dần, nhưng tuyệt chẳng bao giờ nhắc tới chuyện ngày trước, sao giờ tự dưng lại đổi tính vậy? Giọng điệu còn hết sức tán thưởng và ngưỡng mộ nữa chứ.

Thời đó chắc ông Vũ chỉ tầm mười bảy mười tám, vẫn là cậu nhóc choai choai, đang ở tuổi sùng bái anh hùng. Có lẽ vì sự ngưỡng mộ và thần tượng tự nhiên của kẻ dưới với bề trên nên ông ta mới... Hử? Không đúng!

Tôi siết chặt ống nghe, “Yên Yên, sao ông em lại gọi ông anh là chú Thành vậy? Không phải họ ngang hàng với nhau à?”

Giọng Yên Yên cũng hoang mang không kém, hồi lâu mới ấp úng đáp, “Chắc là ông em nhớ lầm. Ông già rồi, nói năng cũng không được minh mẫn nữa...” Nói tới đây, cô chuyển chủ đề, “Bác sĩ nói ông nghỉ ngơi nửa tháng nữa là ngồi máy bay về Bắc Kinh được rồi. Anh đừng tự ý hành động, có gì đợi em về rồi tính. Dù người của Hội không ai chịu giúp, vẫn có em đứng về phía anh mà.”

Tôi nhất thời cảm động, định tông tốc kể về kế hoạch của mình và Dược Bất Thị với cô. Nhưng chợt nhớ tới gương mặt lạnh tanh của Dược Bất Thị, tôi đành nén lại.

Để tìm được manh mối đã rồi nói, tôi nhủ thầm.

Vừa đặt điện thoại xuống đã thấy lễ tân gọi lên báo có người tới đưa đồ. Tôi xuống xem, ra là tay pháp y chúng tôi nhờ vả ban ngày.

Tiền bạc động lòng người, có cả nắm đô la sặc sỡ mở đường, tay pháp y kia trở về làm thêm giờ một lát, mấy tiếng sau đã rửa ảnh xong. Tôi mở phong bì ra xem, thấy có mười mấy tấm ảnh, trông rất nét, còn cả cuộn phim đi kèm, do tôi đã dặn kỹ.

Tôi tiễn tay pháp y ra về rồi ôm phong bì ảnh lên tầng, gõ cửa phòng Dược Bất Thị.

Dược Bất Thị mở cửa, thấy xấp ảnh trong tay tôi thì sáng mắt lên. Anh ta nhường đường cho tôi vào rồi chẳng nói năng gì, vùi đầu lật xem mấy tấm ảnh. Một lúc lâu sau, anh ta mới ngẩng phắt lên, thở hắt ra một hơi dài.

Lần đầu tiên tôi thấy anh ta để lộ nhiều biểu cảm phong phú đến vậy, chán nản có, giận dữ có, còn cả mấy phần nghi hoặc. Xem bộ anh ta quyết định sẽ nói gì đó.

“Nói đi, tôi nghe đây.” Tôi ngồi chễm chệ trên xô pha, đợi anh ta lên tiếng.

Giọng Dược Bất Thị đầy mệt mỏi, anh ta chìa cho tôi một tấm ảnh và một chiếc kính lúp, “Cậu thử xem tấm ảnh này, thấy Quỷ Cốc Tử có gì đặc biệt không?”

Tôi giương mắt soi kính lúp hồi lâu, chẳng thấy có gì bất thường. Nếu nhất định phải bới móc ra thì là Quỷ Cốc Tử mặc đồ thời Tống, xe ngựa cũng theo kiểu đời Tống, có điều đây không phải vấn đề gì lớn, thợ thuyền ngày xưa không được học hành nhiều nên thường khắc họa cổ nhân theo những gì mình thân thuộc nhất, có sai sót về kiến thức lịch sử cũng là thường.

Ví như Phong thần diễn nghĩa bối cảnh thời Thương Chu, nhưng vẫn mọc ra một Lý Tĩnh tổng binh ải Trần Đường, vốn là chức quan đến thời Minh mới có đấy thôi. Trong giới cổ vật vốn nhan nhản những chuyện như Quan Công đánh Tần Quỳnh14 mà ông Hầu Bảo Lâm kể, cũng không thể vin vào đó mà quy là đồ giả được.

Dược Bất Thị búng ngón tay, ý bảo tôi xem kỹ lại. Tôi thầm nghĩ, tay này vốn không am hiểu về đồ sứ, hẳn là bảo tôi chú ý đến những điểm mà người trong nghề không để tâm, nên tôi cũng chăm chú xem lại dưới góc nhìn khác.

Đã là tranh vẽ người, lúc lên màu ắt sẽ liên quan tới độ đậm nhạt của cả mảng. Ví như ở chiếc chóe này, Quỷ Cốc Tử mặc áo dài tay thụng, lên màu phải dùng màu xanh đậm, đây là khu vực màu đậm nhất trong cả tranh. Những chi tiết như đốm hoặc vằn trên mình hổ báo, quần áo binh lính dẫn đường, giáp trụ của lính cưỡi ngựa và Tô Đại, hoặc cây cối hoa cỏ, đều phải nhạt màu hơn.

Có vậy người ta nhìn vào mới thấy Quỷ Cốc Tử nổi bật hẳn lên, trở thành trung tâm của bức họa. Kỹ thuật này trong hội họa gọi là phối màu đậm nhạt, tôn lên vật thể chính.

Tôi chợt nhận ra trên tay áo Quỷ Cốc Tử hình như có một vệt trắng dài mà mảnh, không nhìn kỹ thì không sao thấy được. Như thể Quỷ Cốc Tử mặc một chiếc áo bông bị rách, lòi bông bên trong ra vậy.

Tôi vội cầm ảnh chụp mấy chiếc chóe khác lên, thấy chóe nào cũng có một vệt trắng ở đúng vị trí đó. Trong tay tôi không có hiện vật, nhìn trên ảnh chỉ thấy mép vệt trắng khá nhẵn, rõ ràng vết lõm ấy có sẵn trên phôi trước khi đưa vào lò, không phải về sau nung ra thành phẩm mới bị xước.

Nói cách khác, vệt trắng này nhất định không phải do sơ ý lỡ tay, mà khi sản xuất với số lượng lớn đã cố tình làm như vậy, mỗi chiếc chóe đều phải nghiêm ngặt tuân theo một tiêu chuẩn nhất định.

Đây có lẽ là sơ hở, nhưng nó có ý nghĩa gì? Chúng tôi đã biết những thứ này là giả rồi mà.

Dược Bất Thị lên tiếng, “Mười mấy chiếc chóe 'Quỷ Cốc Tử xuống núi' này dĩ nhiên là giả, nhưng từ vệt trắng này có thể đoán chắc, chúng được mô phỏng theo một nguyên bản, một món hàng chuẩn!”

Nghe vậy, tôi sực tỉnh. Xưa nay đồ giả không tồn tại độc lập được, hình dạng của chúng chắc chắn phải phỏng theo một món đồ thật nào đó. Thế nên dân chơi# cổ vật có câu rằng, vạn giả quy thật. Một vạn món đồ giả, truy đến ngọn ngành đều bắt nguồn từ một món đồ thật. Hiện giờ trong giới còn có một thuật ngữ chuyên môn, gọi là hàng chuẩn, có nghĩa là lấy một món đồ thật làm tiêu chuẩn cho tất cả các vật phẩm đồng loại cùng thời, nếu đào được món khác thì sẽ dựa trên món hàng chuẩn kia để đoán định thật giả.

Rõ ràng ở đâu đó trên đời này vẫn tồn tại một chiếc chóe Quỷ Cốc Tử xuống núi thật, tay áo Quỷ Cốc Tử trên chiếc chóe đó có một vệt trắng nên khi làm nhái, những chiếc chóe mô phỏng cũng có vệt tương tự.

Được rồi, chúng tôi đã xác định được trong tay Lão Triều Phụng có một chóe sứ thanh hoa vẽ Quỷ Cốc Tử hàng thật, sau đó thì sao?

Tôi vẫn chưa hiểu phát hiện này có ý nghĩa gì?

Dược Bất Thị từ từ ngẩng lên, gương mặt góc cạnh có phần cứng ngắc. Anh ta bất giác đổ người về phía trước, vẻ bất an. Một lúc lâu sau, anh ta mới nặn ra từng chữ, “Ở nhà chúng tôi cũng có một chóe sứ thanh hoa vẽ tích cổ thế này, là một trong những đồ gia bảo. Ông nội tôi quý nó lắm, thậm chí còn cho bày trong phòng ngủ làm bể cá để được ngắm luôn luôn. Người nhà họ Dược ai cũng biết đó là nguồn sống của ông cụ.”

“Giống hệt cái này ư?” Tôi nín thở.

“Không, không phải Quỷ Cốc Tử xuống núi mà là một tích khác: Lưu Huyền Đức ba lần ghé lều tranh.”

“Ồ, thế thì sao?”

“Từ nhỏ tôi đã thấy chiếc chóe ấy, còn hay chơi quanh nó, có lúc định vớt cả cá vàng nuôi trong ấy lên nữa. Một lần tôi bắc hẳn ghế trèo lên thò đầu vào, suýt nữa làm đổ chóe, may mà ông nội tôi đỡ kịp mới khỏi tan tành. Có điều ông không mách với bố tôi, trái lại còn kéo tôi đến kể cho nghe sự tích ba lần ghé lều tranh. Từ đó trở đi, hễ rảnh rỗi tôi lại tha thẩn lại gần chiếc chóe, ông tôi trông thấy biết ngay là tôi muốn nghe chuyện, liền nhặt một món đồ sưu tầm lên, kể tôi nghe một câu chuyện liên quan.”

Lúc nói những lời này, gương mặt Dược Bất Thị ngời lên hạnh phúc, nhưng chỉ thoáng qua rồi tắt lịm.

“Tiếc rằng tôi không mê cổ vật, cũng không muốn nối nghiệp nhà, lên đến đại học thì đi du học, không chịu về nữa. Ông tôi đổ sông đổ biển bao công sức, mới quay sang bồi dưỡng thằng Nhiên.”

Nói tới đó, Dược Bất Thị lắc đầu rồi quay lại chủ đề chính, “Tôi thuộc nằm lòng hình dáng cái chóe đó, đến giờ vẫn nhớ như in. Tay áo Gia Cát Lượng cũng có một vệt trắng như vậy.”

“Giống hệt nhau ư?” Tôi vội gặng. Đây quả là một phát hiện quan trọng.

Dược Bất Thị day day thái dương, gân xanh trên trán nổi hẳn lên, vẻ rất đau đầu, “Chi tiết cụ thể thì tôi không nhớ, nhưng chắc chắn có một vệt trắng như vậy đấy. Tôi còn hỏi ông nội, có phải ai làm xước không, ông chỉ cười khà đáp không phải, nhưng cũng không giải thích.”

Tôi có thể hiểu được tâm trạng anh ta lúc này. Phát hiện này tuy vẫn chưa rõ ý nghĩa, nhưng từ trong ra ngoài đều chứng tỏ nhà họ Dược không trong sạch, quan hệ giữa họ và Lão Triều Phụng khá phức tạp. Nếu tiếp tục tìm hiểu, rất có thể sẽ dắt dây đến cả người trong nhà.

Đánh hàng giả, đánh qua đánh lại lại đánh trúng người nhà, quả là khó xử.

“Giờ muộn quá rồi, sáng mai chúng ta bàn tiếp nhé.” Tôi xoa dịu.

“Không được, việc này phải nói cho rõ ràng!”

Dược Bất Thị đột ngột xua tay ra hiệu cho tôi đừng đi, sau đó rút trong túi ngực ra một lọ thuốc bằng nhựa, rót nước nóng ra uống một viên, bấy giờ mặt mới bớt tái. Anh ta nhắm mắt chừng ba giây rồi mở ra, gương mặt đã khôi phục lại vẻ thâm trầm lúc trước, “Cậu cứ yên tâm, tôi sẽ không chùn tay vì sợ dính líu đến người nhà đâu.”

“Tôi không có ý ấy...” Tôi định giải thích, nhưng Dược Bất Thị ngắt lời, cặp mắt sắc lẹm, “Nếu nhà họ Dược thực sự là tay chân của Lão Triều Phụng thì cứ để con cháu họ Dược như tôi xử lý họ, còn hơn là hủy hoại trong tay người khác. Cậu không phải nghi ngại.”

Anh ta đã nói đến thế, tôi cũng đành gật đầu tỏ ý không nghi ngại gì, cứ tiếp tục làm theo phương châm đã bàn trước.

Sau khi bàn luận, hai chúng tôi đều nhất trí rằng việc quan trọng trước mắt là quay về Bắc Kinh tìm chiếc chóe sứ thanh hoa “Ba lần ghé lều tranh” của nhà họ Dược.

Việc này càng nhanh càng tốt.

Bởi Lão Triều Phụng chẳng bao lâu sẽ hay tin xưởng làm giả của lão Từ đã sập. Chúng tôi ở Vệ Huy đã gặp gỡ rất nhiều người, lão ta muốn xác định thân phận thực của chúng tôi cũng chẳng có gì khó. Thế nên hai chúng tôi thống nhất ngay ngày mai sẽ quay về.

Trước khi về phòng, tôi thấy Dược Bất Thị ngồi trên xô pha, hai tay đan lại trước bụng, mặt hơi đanh. Lọ thuốc bằng nhựa trắng kia vẫn đặt trên bàn, nhãn viết một hàng chữ tiếng Anh dài, tôi hoàn toàn không đọc được.

Tôi lo lắng hỏi, “Anh... không sao chứ?”

Dược Bất Thị lạnh lùng đáp, “Không liên quan tới cậu.”

Tôi bực bội vặn lại, “Sức khỏe của anh liên quan mật thiết tới việc hợp tác tiếp theo của chúng ta, sao lại nói là không liên quan tới tôi được?”

Câu hỏi này khiến Dược Bất Thị lặng đi giây lát, anh ta cất bình thuốc vào túi rồi đẩy lại gọng kính, mệt mỏi đáp, “Cậu Nguyện này, có một việc tôi phải nói rõ với cậu.”

“Việc gì?”

“Tôi bắt tay với cậu là để tóm Lão Triều Phụng. Nếu buộc phải hy sinh cậu để đạt được mục đích, tôi sẽ không mảy may do dự.” Dược Bất Thị nghiêm trang giơ một ngón tay lên, ngừng giây lát rồi nói tiếp, “Tôi mong rằng cậu cũng vậy.”

Tôi nhìn vào mắt anh ta, nghĩ ngợi giây lát rồi gật đầu, chậm rãi mà kiên quyết.

Hai anh em nhà này tính tình quả là khác nhau trời vực. Dược Bất Nhiên lúc nào cũng nhởn nhơ, trong khi ông anh lúc nào cũng căng thẳng, mọi chuyện đều im ỉm giấu trong lòng. Dĩ nhiên, đối với tôi thì đây là việc tốt, giờ tôi đã hoàn toàn không còn ảo giác Dược Bất Nhiên đang ở bên cạnh mình nữa.

Sáng sớm hôm sau, chúng tôi lên chiếc Mercedes-Benz của Dược Bất Thị chạy thẳng về Bắc Kinh. Chủ nhiệm Khang hay tin chạy đến, hết phân bua lại xin lỗi, nhất quyết không cho chúng tôi đi. Dược Bất Thị hạ kính xe xuống, lạnh lùng nói vọng ra: “Nếu ông có lòng thì săn sóc cho Lưu Chấn Vũ tử tế. Nợ đã vay thì lo mà trả trước đi, bằng không quả báo ập tới không tránh được đâu.”

Chủ nhiệm Khang sửng sốt, bất giác lùi lại mấy bước, không dám sán gần nữa. Dược Bất Thị đóng cửa kính, hờ hững bảo tài xế, “Lái xe đi.”

Tôi nhìn ra phía sau, thấy chủ nhiệm Khang thẫn thờ đứng chôn chân tại chỗ, như thất hồn lạc phách. Năm xưa nhất định ông ta cũng đóng một vai trò quan trọng trong việc lão Từ lừa gạt Lưu Chấn Vũ, pháp luật không định tội được ông ta thì để chúng tôi cho ông ta một bài học vậy.

Đây gọi là “tà không thắng chính”. Bất luận đám làm đồ giả càn rỡ hung hăng tới đâu, trong thâm tâm chúng vẫn biết việc mình làm là không phải. Kẻ ra sức cầu trời khấn Phật, kẻ lại vung tiền làm từ thiện, đều xuất phát từ nỗi sợ hãi gặp quả báo, muốn tìm cách cân bằng công tội. Thâm tâm chủ nhiệm Khang hẳn cũng áy náy về việc ấy, lần này coi như cho ông ta cơ hội bù đắp vậy.

Lòng kính sợ trước cái thực là giới hạn trong sâu thẳm lương tâm mỗi người. Có giới hạn ấy, dù hàng giả nhiều tới đâu cũng không thể át được hàng thật.

Nhưng nếu kẻ làm hàng giả bước qua giới hạn này, sẽ trở thành một con quái vật vô cùng đáng sợ.

Tôi chợt nghĩ, Lão Triều Phụng liệu có phải là một ma vương không bao giờ kiêng dè hay áy náy không? Vậy lão chủ động ra mặt hẹn gặp tôi là vì day dứt lương tâm muốn sám hối hay còn mưu đồ gì khác?

Trên xe có tài xế nên chúng tôi cũng chẳng chuyện trò gì được. Tôi nhìn ra cửa sổ, thẫn thờ nghĩ ngợi miên man. Dược Bất Thị nhíu mày xem ảnh, hai vai cứng đờ, cơ lưng căng ra, lúc nào cũng trong trạng thái căng thẳng cao độ, không sao thả lỏng ra được.

Ba đời nhà tôi đối địch với Lão Triều Phụng cũng chẳng căng thẳng đến thế.

Từ Vệ Huy đến Bắc Kinh chừng sáu trăm cây số, đường không dễ đi cho lắm. Chúng tôi chạy xe mất một ngày, trời tối mới đến nội thành, sắp vào thành phố, tôi chợt nghĩ tới một vấn đề: Chúng tôi vẫn giữ kín hành tung với Minh Nhãn Mai Hoa, nếu thình lình xộc vào nhà họ Dược thế này, há chẳng tự bại lộ sao?

Dược Bất Thị nói: “Chúng ta đến biệt thự nhà họ Dược, chỗ ông tôi ở khi trước, ông thích yên tĩnh nên con cháu không mấy ai ở đó. Sau khi ông mất, nơi đó vẫn bỏ không.”

Tôi sực nhớ, hóa ra là chỗ đó.

Lúc giải quyết vụ án đầu Phật, tôi từng tới căn nhà ở phía Đông thành nọ, nói chuyện với Dược Lai. Ông ta còn nhắc tôi phía sau Minh Nhãn Mai Hoa có một bàn tay hắc ám, dặn tôi phải cẩn thận. Nếu không nhờ ông ta nhắc nhở, e rằng tôi cũng chẳng đi được đến ngày hôm nay.

Ôi, ai mà ngờ về sau chuyện lại ra nông nỗi ấy.

Chẳng mấy chốc xe chúng tôi đã đến biệt thự nhà họ Dược. Căn nhà vẫn tao nhã như vậy, hiên đen ngói biếc, cũng coi như hiếm thấy ở Bắc Kinh hiện giờ. Tiếc rằng cảnh còn người mất, chủ nhân đã qua đời, để lại vườn không nhà trống. Cửa chống trộm khóa trái, chứng tỏ nơi này đã lâu không có người ở.

Kể cũng lạ, rất dễ nhận ra một gian nhà bỏ không đã lâu hay vẫn có người ở; cũng như chỉ thoáng trông đã phân biệt được đồ vật ở trong mộ cổ nghìn năm không ai chạm tới với đồ thường được người sử dụng. Cái gọi là “hơi người” nhìn không thấy, sờ không được, lại có thể cảm nhận được. Gian nhà này vẫn còn hơi người, chỉ là cực kỳ mong manh. Xem ra sau khi ông Dược Lai mất cũng chẳng còn ai lai vãng nơi đây nữa. Hơi người tản mác, trong nhà cũng lạnh lẽo hẳn.

Dược Bất Thị đứng trước cổng, thẫn thờ ngẩng lên nhìn căn nhà lầu. Tôi cứ ngỡ Dược Bất Thị sẽ cảm khái một hồi, nhưng anh ta chỉ nhìn hơn chục giây rồi thôi. Anh ta luôn kiềm chế, lần nào cũng cố kìm nén cảm xúc. Việc này cần ý chí cực mạnh, tôi không làm nổi.

Bên cạnh chợt vang lên tiếng bước chân, tôi quay sang nhìn, hóa ra là Phương Chấn. Phương Chấn đi từ bên kia đường lại, lờ đi như không thấy chúng tôi, tiến thẳng đến trước cửa, rút ra một chùm chìa khóa ném xuống đất rồi lại lùi vào bóng tối cạnh bờ tường.

Xem ra Dược Bất Thị không tiện ra mặt nên đã thông qua Phương Chấn để lấy chìa khóa. Tôi đang định lên tiếng chào thì Phương Chấn đã giơ tay, “Tôi chỉ đi ngang qua, không hề thấy hai người, cũng chưa từng vào nhà đâu đấy.” Đoạn giơ tay nhìn đồng hồ, “Các cậu có ba mươi phút.”

Phương Chấn là công an, nên cũng chỉ có thể giúp đỡ đến mức này thôi. Việc không thể chậm trễ, chúng tôi nhặt chùm chìa khóa dưới đất lên, mở cửa chống trộm, bước vào sân. Trong sân tối om, chỉ lờ mờ trông thấy dưới cửa sổ có một bể cá đắp hòn giả sơn lởm chởm, tiếc rằng nước trong bể đã cạn khô từ lâu. Dăm ba gốc tùng sừng sững trong bóng tối, cành nhánh không được cắt tỉa vươn ra tua tủa, trông như ma quỷ.

Trong nhà có điện, nhưng sợ bị phát hiện nên chúng tôi không dám bật, mỗi người rút ra một cây đèn pin, rón rén dò dẫm bước vào cửa chính. Ở sảnh có một đoạn khá hẹp, ánh đèn pin loang loáng khó mà rọi hết được các ngóc ngách, chỉ thấy rõ vách thạch cao trên trần và hai bên, nói thực, đi qua lối vào chật chội thế này cảm giác cứ như bước vào hầm mộ vậy.

Qua khỏi sảnh cửa là phòng khách, tầm nhìn thoáng đãng hẳn. Mắt chúng tôi bắt đầu quen với bóng tối, có thể thấy rõ cách bài trí bên trong.

Nơi này bày biện rất đơn giản, với phong cách Trung Hoa làm chủ đạo, đồ đạc bằng gỗ trắc, cửa sổ và lan can chạm trổ, bình phong trúc, đôn tròn thêu, còn cả một giá sách ngất nghểu bằng gỗ thịt. Sau khi ông Dược Lai mất, không ai động vào đồ đạc trong phòng nên thứ nào vẫn ở nguyên chỗ nấy.

Dược Bất Thị thuộc nằm lòng đường lối trong nhà, thoăn thoắt dẫn tôi băng qua phòng khách, đi thẳng lên tầng hai. Cầu thang gỗ dẫn lên tầng được làm theo kiểu xoắn ốc, vừa đặt chân lên đã kêu cót két, khiến tôi có cảm giác như nửa đêm đi thám hiểm nhà ma vậy.

Lên tầng hai, hành lang chia làm hai hướng, một đầu là ô cửa sổ Dược Bất Thị nhìn lên hồi nãy, có lẽ là phòng anh ta ở trước kia, còn đầu kia là một khung cửa lớn bằng gỗ thịt, có hai cánh, rộng hơn hẳn cửa bình thường, bên trên dường như còn lắp đệm cách âm, nhưng được trang trí thành hình hai bông sen nổi gồ lên, hết sức tinh xảo.

Dược Bất Thị cho tôi biết ông nội anh ta thích rộng rãi nên cửa rả cũng làm rộng hơn hẳn bình thường, nhìn thoáng đãng dễ chịu. Tới trước cửa, tôi khẽ xoay tay nắm đồng thau vàng rực, “cạch” một tiếng, mở cửa ra.

Mùi ẩm mốc xộc tới, e rằng lâu lắm rồi phòng ốc không được thông khí. Tôi sải bước tiến vào, vừa rọi đèn pin về phía trước đã buột miệng hét lên “ối”, suýt nữa ngã ngồi xuống đất.

Chỉ thấy Dược Lai đang lơ lửng trong bóng tối, mặc áo cổ tàu xanh ngọc, nhìn tôi chằm chằm. Tôi không ngờ lại xảy ra hiện tượng tâm linh siêu nhiên thế này, lẽ nào đây là nhà ma!

Dược Bất Thị giữ lấy vai tôi từ phía sau, bực bội gắt, “Cậu nhìn kỹ lại đi, trên đời làm gì có ma!”

“Nhưng kia chẳng phải ông anh ư...” Tôi vẫn chưa hết hoảng hồn.

Dược Bất Thị vặn đèn pin lên nấc sáng nhất rọi tới. Bấy giờ tôi mới nhận ra trước mặt mình không phải Dược Lai hiện hồn mà là một bức tranh sơn dầu cực lớn. Bức chân dung bán thân nọ treo ngay đối diện cửa ra vào. Dược Lai mặc áo cổ tàu, tủm tỉm cười ngồi trên đôn tròn thêu khổng tước song sư, tay cầm chén sứ thanh hoa chân cao, đang từ tốn nhâm nhi. Trước mặt ông ta là án thư bằng gỗ trắc, trên đặt một thủy trì hình móng ngựa men thiên thanh, trên cành cây cạnh đó treo lọ dế vàng da lươn hoa văn sóng nước và cây cỏ. Sau lưng là gian nhà tranh, đằng xa có khe sâu cổ thụ, hạc vút tầng mây, trông rõ ra dáng ẩn sĩ núi rừng.

Tranh sơn dầu tả thực lại khắc họa được ý cảnh như tranh thủy mặc, đủ thấy họa sĩ khá tài hoa. Nhưng vấn đề là... ông cụ Dược Lai tự luyến đến đâu mà lại treo một bức tranh sơn dầu cỡ đại của mình trong phòng thế này chứ?

Dược Bất Thị giải thích, “Cậu không biết đấy thôi, thời trẻ ông tôi thuộc dạng lêu lổng chơi bời, tứ đổ tường chẳng thiếu ngón gì, đến hút hít cũng không từ. Sau này có tuổi mới dần bớt lại, nhưng trong cốt cách vẫn không bỏ được tính ăn chơi. Cũng chỉ có ông mới dám cho người vẽ chân dung sơn dầu thôi.” Đoạn anh ta rọi thẳng đèn pin vào mặt ông nội mình trên tường, đăm đăm ngắm nhìn hồi lâu. Ông nội trong tranh và cháu trai ngoài đời thực cứ thế chăm chú nhìn nhau.

Cả căn phòng chợt lặng phắc, tôi cũng không giục giã, bởi hiểu được tâm trạng anh ta.

“Người vẽ bức tranh này là bạn tôi. Bấy giờ tôi đang ở nước ngoài, không về được, bèn nhờ bạn vẽ chân dung cho ông, coi như quà mừng thọ. Cả nhà phản đối kịch liệt, cho là gở, chỉ có ông vô cùng vui vẻ, còn gọi điện khen ngợi, hỏi tôi bao giờ thì về. Nói ra thì, đây cũng là lần đầu tôi được thấy...”

Anh ta không nói hết câu, nhưng tôi hiểu ý. Tranh còn đây mà người trong tranh còn đâu.

“Xin lỗi cậu, làm mất thời gian rồi.” Dược Bất Thị tạm cất đi thái độ kiêu ngạo, đưa tay xoa mặt, rồi lập tức lấy lại giọng điệu bình thản, “Tìm thôi.”

Gian phòng ngủ này rất rộng, phải hơn 30 mét vuông, bên ngoài còn một ban công biệt lập. Chúng tôi rọi đèn pin khắp trong ngoài phòng, thấy rất nhiều món đồ bài trí, chỉ không có chóe sứ thanh hoa vẽ tích “Ba lần ghé lều tranh”. Chiếc chóe nọ khá to, cao gần ba mươi phân, vòng bụng cũng phải hơn hai mươi phân, khó mà bỏ sót được.

“Không có.”

“Không có.”

Mỗi người chúng tôi lại tự kiểm tra một lượt rồi rầu rĩ báo cáo. Tôi hỏi, “Hay là người nhà anh bưng đi rồi?”

Dược Bất Thị quét đèn pin một vòng, nghi hoặc đáp, “Chắc không phải đâu... mấy món quý giá của ông tôi vẫn ở cả đây mà.”

Vừa rồi tôi cũng thấy căn phòng này như một kho tàng gốm sứ, trên bệ cửa sổ, cạnh giường, cửa ban công, trên giá sách, đâu đâu cũng thấy bày đồ gốm sứ. Trên giá là đĩa sứ Định chạm hoa, bên cạnh là chậu rửa bút bằng sứ thanh hoa hoa văn long phượng, bình tròn vẽ hoa sen liền cành đặt trên bệ cửa sổ, trên bàn gỗ chân quỳ thời Minh bày bát vẽ rồng vờn mây hai màu xanh vàng và lọ dế mẫu đơn liền cành, góc tường còn đặt một cái lư hoa vờn hai tai ba chân, thôi thì đủ loại, có bát có đĩa, có lư có chén.

Tôi không hiểu nhiều về đồ gốm sứ, không thể chỉ ra xuất xứ những thứ này, nhưng là một người chơi cổ vật, tôi có linh cảm mọi vật ở đây đều có lai lịch. Có lẽ đây là những món đồ sưu tầm mà sinh thời Dược Lai thích nhất, nên mới bày trong phòng ngủ để tiện thưởng ngoạn. Nếu người nhà dọn dẹp, không lý nào chỉ động tới một món. Còn nếu gặp quân trộm cắp thì càng không thể bỏ qua những chén trà lọ bát, lại đi chôm một chiếc chóe to.

Dược Bất Thị kết luận, “Xem ra tôi phải đi hỏi người nhà xem cái chóe đâu mất rồi. Hôm nay chúng ta tới đây thôi vậy.”

Đã toan rút lui, chợt nghe dưới nhà có tiếng động, chúng tôi giật bắn mình. Dược Bất Thị đi đến bên cửa sổ, ló đầu ra nhìn rồi rụt vào, “Gay rồi, người nhà tôi đến, chắc là bác hai Dược Hữu Quang và anh họ tôi, chẳng hiểu sao họ lại tự nhiên kéo đến đây nữa.”

Tôi nhớ ra hôm tụ họp hai người này cũng có mặt, nhưng chẳng nói lời nào.

“Gay quá, lúc chúng ta đi vào không khóa cửa thì phải?” Tôi vỗ đùi kêu.

Chúng tôi không sợ bị quy là kẻ trộm, nhưng gặp nhau thế này sẽ lộ chuyện tôi bắt tay với Dược Bất Thị mất. Dược Bất Thị trái lại ra hiệu cho tôi cứ yên tâm, không cần lo lắng. Chúng tôi dòm từ ban công tầng hai xuống, thấy bác hai và anh họ Dược Bất Thị đứng trước cửa chống trộm, song không hề tri hô có trộm mà loay hoay móc chìa khóa ra mở cửa đi vào.

Xem ra sau khi chúng tôi vào nhà, Phương Chấn đã khóa cửa lại. Tay này tâm tư kín kẽ, lúc nào cũng im ỉm hành động.

“Nào, sang phòng bên kia đi.” Dược Bất Thị bảo tôi. Bấy giờ tôi mói nhớ ra tầng hai tổng cộng có hai phòng, đối diện với phòng ngủ của ông Dược Lai còn một phòng nữa.

Chúng tôi rón rén đi sang, khẽ đẩy cửa, thấy không khóa, bèn lách người vào trong. Vừa khép cửa lại đã nghe thấy công tắc đèn dưới nhà kêu đánh “tách”, rồi có tiếng chân bước lên cầu thang.

Khác hẳn phòng ngủ bên kia, căn phòng chúng tôi nấp chỉ là phòng dành cho khách thông thường, kê một chiếc giường đôi và bàn trang điểm, ngoài ra không còn gì khác. Nếu hai người kia xộc vào, chúng tôi cũng chẳng biết trốn vào đâu.

May sao tiếng bước chân dừng ngay ở hành lang tầng hai, trước là bật đèn, sau đó giọng một thanh niên vang lên, “Thế này có ổn không bố?”

Một giọng khác đáp ngay, “Có gì không ổn? Chỉ mượn mấy hôm bày biện cho đẹp thôi, có phải cuỗm luôn đem bán đâu.”

“... Nhưng sinh thời ông nội chẳng đã dặn không được động vào đồ trong phòng ngủ ư?”

“Đừng nhắc chuyện ấy nữa làm tao thêm bực. Nếu ông nội mày chết già thì con cháu ắt răm rắp nghe theo di chúc, không ai dám trái. Nhưng mày cũng biết ông mày chết thế nào rồi đấy, còn liên lụy làm cả nhà họ Dược không cất được mặt lên nữa. Ông già đã để lại bao nhiêu phiền phức, còn khư khư độc chiếm những thứ này, định bắt cả nhà hít khí giời mà sống à?” Giọng nọ đầy oán trách.

Anh họ Dược Bất Thị không hó hé gì nữa, trong khi bố anh ta vẫn càu nhàu không ngớt lời, “Huống hồ tao có phải người đầu tiên mượn đâu, để người ngoài mượn mà không cho tao mượn à?”

Đoạn họ đi tới trước cửa phòng ngủ, xoay tay nắm, mở cửa ra. Dược Hữu Quang có vẻ ngập ngừng không muốn vào, “Mày vào lấy đi, nhớ lấy cái lọ dế vàng da lươn thôi, đừng động vào những thứ khác, kẻo sau này khó ăn khó nói.”

Ông con vâng dạ rồi bước vào phòng ngủ, chẳng mấy chốc lại trở ra. Ông bố kiểm tra cái lọ, tặc lưỡi trầm trồ, “Mày lại đây xem mà học này. Món này nhỏ mà có võ, có thủ bút của Tử Ngọc, toàn thế giới chẳng được mấy cái đâu. Có thứ này bày trong tiệm, bảo đảm bọn nhà quê kia cứng họng.”

Ông con lấy làm băn khoăn, “Vừa rồi con nhìn quanh thấy trong phòng ông nhiều đồ lắm, hàng thượng hạng phải đến bảy tám món, những thứ còn lại tuy cũng tốt, nhưng so ra thì không bằng. Ví như chiếc đĩa gốm Định chạm hoa kia, cũng không quá đặc biệt.”

Ông bố khinh khỉnh, “Ai biết đâu đấy, ông già hay nhớ chuyện xưa, có lẽ là kỷ vật gì đó nên ông ấy mới giữ lại.” Đoạn ông ta lại giục, “Cất vào túi mau, đừng để vỡ, nhanh nhanh mà đi thôi.”

Hai bố con họ vừa nói vừa đi về phía cầu thang. Thình lình anh họ Dược Bất Thị hỏi, “Phòng đối diện là gì thế? Liệu bên trong có gì không?” Vừa nói vừa cầm lấy tay nắm cửa định vặn mở.

Tôi và Dược Bất Thị căng thẳng nhìn nhau, không dám thở mạnh.

Bố anh ta đáp, “Đằng ấy là phòng cho khách, khi nào có khách đến mới dùng thôi, bên trong chẳng có gì đâu.” Nghe vậy, anh chàng ồ một tiếng rồi buông tay nắm ra.

“Mau đi thôi, nơi này nhiều âm khí, không nên ở lâu.” Dược Hữu Quang giục.

Hai người lục tục xuống tầng, rồi lần lượt tắt đèn.

Sau khi xác nhận trong nhà không còn ai khác, Dược Bất Thị mới cười nhạt nói, “Bác hai tôi đúng là quý tử, ông ấy có biệt hiệu là Dùi Sắt, bất luận chuyện gì cũng nghĩ ra được trăm phương nghìn kế để đục lấy chút lợi ích.”

Chúng tôi mở cửa phòng, đi ra hành lang. Qua cuộc trò chuyện vừa rồi có thể thấy, lúc sinh thời Dược Lai đã lập di chúc, dặn con cháu không được động đến những đồ đạc trong phòng. Nhưng sau khi ông ta bất ngờ tự sát, người trong nhà bắt đầu rục rịch dòm ngó. Trước hai bố con nhà này, đã có người ghé đây “mượn” đồ rồi, rất có khả năng còn “mượn” đúng chiếc chóe thanh hoa “Ba lần ghé lều tranh” mà chúng tôi muốn tìm nữa.

Dược Bất Thị giải thích, “Giờ cậu đã hiểu vì sao tôi không tin người trong Minh Nhãn Mai Hoa chưa? Họ làm ra những chuyện như thế, tôi cũng chẳng ngạc nhiên.” Đoạn anh ta lại nhìn quanh một lượt rồi khẽ lắc đầu, “Đi thôi, nơi này không còn gì để xem nữa. Tôi về sẽ hỏi thăm xem ai lấy chiếc chóe đi, chắc sẽ hỏi được thôi.”

Tôi nheo mắt, ra hiệu cho anh ta đợi một lát. Dược Bất Thị đổi sắc mặt, “Cậu phát hiện được gì à?”

“Ừm...” Tôi không vội đáp ngay mà rảo bước đi đến trước phòng ngủ của Dược Lai, mở cửa ra, soi đèn pin khắp phòng rồi chiếu thẳng vào bức tranh sơn dầu. Dược Bất Thị đứng sau lưng tôi, ngơ ngác không hiểu.

“Anh tặng bức tranh này cho ông anh từ khi nào?”

Dược Bất Thị nói thời gian, đúng vào giai đoạn tôi đang điều tra vụ án đầu Phật.

“Ai đề ra chuyện vẽ tranh chân dung vậy? Nội dung tranh do ai quyết định? Anh, ông anh hay là họa sĩ?”

“Tôi làm gì có thời gian, chỉ bảo họa sĩ trực tiếp liên hệ với ông tôi, hai người họ bàn bạc với nhau.”

“Giờ anh còn liên lạc với họa sĩ đó không?”

Dược Bất Thị đáp cụt lủn, “Còn.” Có điều mặt anh ta thoáng vẻ lúng túng, may mà trong bóng tối nên không thấy rõ lắm.

Tôi thầm khoan khoái trong lòng, nghĩ bụng đến lượt anh bối rối rồi đây. Bèn rọi đèn pin hướng lên, “Anh có nhớ vừa rồi bác anh nói gì không? Ông Dược Lai hay nhớ chuyện xưa, nên trong phòng này có những đồ không đáng mấy tiền, chỉ được giữ lại vì là kỷ vật.”

Đầu óc Dược Bất Thị rất nhanh nhạy, chẳng để tôi lên mặt lâu, anh ta đã ngẩng phắt đầu nhìn sang bức tranh.

Trong bức họa ngoài Dược Lai ra, còn có bốn thứ, hơn nữa nguyên mẫu đều ở trong phòng này: đôn thêu khổng tước song sư, chén con gà chân cao bằng sứ thanh hoa, thủy trì móng ngựa men thiên thanh, lọ dế vàng da lươn vẽ sóng vờn và hoa cỏ.

Trong phòng nhiều đồ như vậy, sao chỉ chọn bốn món này để vẽ?

Còn một vấn đề nữa là, bức tranh được vẽ vào đúng khoảng thời gian xảy ra vụ án đầu Phật. Bấy giờ Dược Lai đã tiếp xúc với Lão Triều Phụng và bị lão uy hiếp, ông ta lấy đâu ra tâm trạng chơi tranh sơn dầu?

Vậy ông ta cho người vẽ bức sơn dầu này, phải chăng còn có dụng ý khác?

Cần biết rằng, Dược Lai bị Lão Triều Phụng ép tự sát. Rất nhiều bí mật lúc sinh thời ông ta không thể thổ lộ, chưa chừng sẽ nghĩ cách ghi lại cho người có lòng tìm hiểu. Nhưng Lão Triều Phụng thế lực tày trời, nhất định sẽ ra tay xóa sạch những dấu tích ông ta để lại. Nếu muốn lưu lại tin tức, ắt Dược Lai phải tìm một cách vô cùng kín đáo.

Thế nên lúc sinh thời ông ta đã lập di chúc, không cho con cháu động chạm vào đồ đạc trong phòng ngủ. Thực ra đây là kế tung hỏa mù, khiến Lão Triều Phụng tập trung chú ý vào đồ đạc trong phòng, còn manh mối thật sự, Dược Lai lại gửi gắm vào bức tranh sơn dầu.

Tôi đoán những món đồ gốm sứ xuất hiện trong bức tranh này chứa đựng thông tin mà Dược Lai muốn truyền đạt. Vì sao ông ta lại cố tình chọn tranh sơn dầu? Bởi đó là dạng tranh tả thực, có thể thể hiện rõ các chi tiết trên đồ gốm sứ hơn tranh thủy mặc chỉ tả ý.

“Giờ ông anh đã mất, chúng ta đành tìm họa sĩ kia để hỏi cho rõ thôi.”

Tôi thao thao trình bày phán đoán của mình rồi ngoái lại hỏi ý Dược Bất Thị, nhưng vừa quay sang đã thấy mặt anh ta đỏ gay, hơi thở dồn dập, dường như bao cảm xúc mãnh liệt đang cuộn trào dưới làn da, chỉ chực xé toang gương mặt đổ bê tông kia.

Tôi giật bắn mình, cứ ngỡ anh ta trúng tà hay phát bệnh. Còn chưa kịp hỏi, dưới nhà đã vang lên tiếng đập cửa sắt rầm rầm, hẳn là Phương Chấn nhắc chúng tôi sắp hết giờ.

Nhìn lại Dược Bất Thị, tôi thấy tâm trạng anh ta đã bình ổn khá nhiều. Anh ta quay lưng về phía tôi, giục tôi đi mau, giọng rất gấp gáp, như muốn che giấu gì đó. Tôi nghĩ có hỏi cũng vô ích, để lát nữa tính vậy.

Cuối cùng, tôi liếc qua bức tranh rồi cùng Dược Bất Thị trở ra. Chúng tôi trả chìa khóa lại cho Phương Chấn, hối hả lên xe rời khỏi.

Về lý tôi vẫn đang thuộc diện “đi công tác” nên không thể về Tứ Hối Trai, cũng chẳng thể ngủ nhờ nhà bạn bè được, Bắc Kinh rộng như vậy, không ngờ tôi lại chẳng có chỗ nào nương thân. Tôi hỏi Dược Bất Thị ở đâu, anh ta trầm ngâm giây lát rồi nói giờ hẵng còn sớm, chúng ta đi tìm tác giả bức tranh kia đã.

Tôi ngẩn người, sao phải vội thế? Nhìn đồng hồ đã gần mười giờ tối rồi mà. Dược Bất Thị cũng chẳng giải thích, chỉ lầm bầm dặn địa chỉ, tài xế gật gù rồi xoay vô lăng, quay đầu xe chạy thẳng.

Xe chạy rất nhanh, ngoài cửa sổ lúc thì cao ốc san sát, lúc lại biệt thự trải dài. Đêm tối như bưng, tôi không phân biệt nổi phương hướng, quay đầu sang thấy Dược Bất Thị nhìn chằm chằm phía trước, hai tay đan vào nhau trước bụng, ngón tay liên tục gõ nhẹ.

Làm nghề buôn đồ cổ, kỹ năng quan trọng nhất là nhìn mặt đoán ý, tôi kiếm sống bằng nghề này nên cũng có đôi chút kinh nghiệm. Bộ dạng Dược Bất Thị hiện giờ gọi là tơ vò muôn mối, căng thẳng cực độ dẫn đến có những động tác vô thức. Ban đầu tôi cho rằng anh ta như vậy là vì bức tranh sơn dầu nọ, về sau mới biết là không phải.

Ông Dược Lai giấu ám hiệu trong tranh sơn dầu, khiến Dược Bất Thị kích động. Nhưng lúc này anh ta lại đang bồn chồn không yên, rõ ràng là căng thẳng trước sự việc sắp xảy đến. Tôi đoán già đoán non mãi không ra, đành nhắm nghiền mắt.

Xe chạy chừng hơn hai mươi phút thì dừng lại. Tôi xuống xe nhìn quanh, không khỏi giật mình! Ô hay, đây chẳng phải vườn Viên Minh đó ư?

Nói chính xác ra là một ngôi làng phía Nam vườn Viên Minh, gọi là làng Phúc Duyên, ngay gần Phúc Hải.

Ngôi làng này khá nổi tiếng ở Bắc Kinh, không phải vì cổ vật, mà vì các trào lưu mới. Mấy năm nay, những họa sĩ tiền vệ, ca sĩ tiên phong, nhà thơ đổi mới v.v... hay tụ lại đây thuê phòng, dần dần hình thành một quần thể nhỏ. Những người này không chạy theo trào lưu, cũng chẳng giàu có gì, suốt ngày quanh quẩn trong làng sáng tác, trút hết nỗi lòng, tìm người thấu hiểu, tương tự như đám hippie phương Tây. Nghe nói còn có cả dân hút xách.

Tôi có gã bạn chơi Rock'n'Roll từng ở đây một thời gian, theo lời gã kể thì nơi này không ít kẻ điên, nhưng cũng chẳng thiếu thiên tài.

Tôi đứng đầu làng nhìn vào trong, thấy đây là một ngôi làng ngoại ô hết sức bình thường, từng dãy nhà gạch có rào giậu bao quanh, bên đường chất đống những củi và gạch, dây điện chằng chéo đan xen như mạng nhện. Nhưng những làng quê khác đến đêm là lặng phắc, còn ở đây lại ồn ào như chợ vỡ. Hơn mười giờ tối mà vẫn nghe thấy đằng Đông vẳng tới tiếng đàn Mandolin, đằng Tây đánh trống thùng thùng, chưa kể tiếng hò hét ầm ĩ, chẳng biết là ca hát hay đánh nhau. Bóng người loang loáng, ánh đèn lập lòe, tưởng như nhà nào đó còn đang mở vũ hội quy mô nhỏ.

Đợi mãi không thấy Dược Bất Thị xuống xe, tôi quay lại gõ vào cửa xe. Dược Bất Thị hạ cửa kính xuống, lúng túng nói, “Tôi cho địa chỉ, cậu tự vào nhé.”

“Hả? Bạn anh cơ mà, sao anh không vào?”

“Bảo cậu đi thì cứ đi đi.” Dược Bất Thị lại nâng kính xe lên, gương mặt lạnh băng từ từ bị tấm kính che khuất.

Tôi nhún vai, đi với tay này mãi cũng thành quen, đành cầm địa chỉ vào làng, dò dẫm như quân Nhật mò đến một căn nhà, gõ cửa hồi lâu mới thấy một bà cụ ló đầu ra.

“Quân Thiên Hoàng không cướp lương... ấy chết nhầm, chào bác gái, Cao Hưng có nhà không ạ?” Tôi suýt nữa cắn phải lưỡi. Đi theo Dược Bất Thị mãi, tôi cũng sắp thành Dược Bất Nhiên rồi.

Có lẽ bà cụ cũng chẳng lạ gì hạng người như tôi, “Nó ra bờ Phúc Hải vẽ tranh rồi.”

“Bây giờ ấy ạ?” Tôi ngước lên nhìn trời, thấy tối đen như mực.

Bà cụ ngó quanh rồi ghé lại gần thì thào, “Đồng chí mau đi tìm nó xem. Con bé Cao Hưng này hơn tuần nay tối nào cũng ra ngoài, nói là phải nhân lúc trời tối để vẽ tranh. Cậu bảo nghe có lọt tai không? Chắc nó mới gặp cú sốc nào rồi. Làng này toàn những đứa quái thai, được con bé ngoan như thế...”

Thấy bà cụ cứ nắm tay mình huyên thuyên mãi, tôi vội vã cáo từ, chạy thẳng đến Phúc Hải.

Phúc Hải gọi là hải, thực ra lại là một cái hồ, giờ thì đến hồ cũng chẳng giống nữa. Nó vốn gọi là hồ Đông, tới thời Ung Chính mới mở rộng quy mô, đổi tên thành Phúc Hải, là hồ lớn nằm ở trung tâm ba khu vườn Viên Minh. Mặt hồ cực rộng, bốn bề còn mười mấy đảo nhỏ vây quanh, cảnh sắc như tranh, là thắng cảnh nổi tiếng nhất vườn Viên Minh. Sau khi liên quân Anh-Pháp thiêu trụi vườn Viên Minh, nơi này cũng dần trở thành đầm lau lách và ruộng lúa, chẳng còn cảnh sắc khi trước nữa.

Mãi tới những năm tám mươi, khu vực này mới được tu sửa lại thành công viên di tích, có điều mặt hồ đã thu hẹp rất nhiều, những cảnh đẹp như “thắng cảnh Phương Hồ”, “Dao đài Bồng đảo” v.v... chỉ còn trơ nền đá.

Hôm nay nhiều mây, trăng lu. Bên bờ Phúc Hải lại không có đèn đường, bốn bề tối om, chẳng một bóng người. Tôi dò dẫm từng bước, qua hết tường đổ đến vách xiêu, tưởng như bất cứ chỗ nào cũng có thể là phim trường quay phim kinh dị. Từng nghe người già kể rằng, Phúc Hải có ma, năm xưa khi liên quân Anh - Pháp đánh vào, đại thần trông coi vườn Viên Minh tên Văn Phong đã nhảy xuống Phúc Hải tự tử. Về sau thường có người trông thấy một bóng đen mặc quan phục triều Thanh ướt sũng nước, hỏi hoàng thượng khi nào mới về.

Tôi nhủ bụng, cô bạn này của Dược Bất Thị không hiểu đầu óc làm sao mà đêm khuya còn mò ra đây?

Sắp đến bờ Phúc Hải, mặt trăng mới thập thò ló ra. Từ xa tôi trông thấy trên bờ đê thấp thoáng bóng một người đang cầm bút hí hoáy bên giá vẽ. Tối thế này cô ta vẽ vời kiểu gì?

Tôi lại gần, ngửa cổ gọi to, “Cao Hưng đấy à? Dược Bất Thị bảo tôi đến tìm cô.”

Bóng người nọ gác bút, bật nhảy từ triền đê xuống nhanh như sóc. Tôi định thần nhìn kỹ, thấy cô gái này khá cao ráo, tóc cắt ngắn, mặc áo choàng cánh dơi hoa nhí và quần bò xắn gấu, chân đi dép xỏ ngón.

“Dược Bất Thị á? Anh ấy về rồi à?” Cô gái tên Cao Hưng hào hứng hỏi. Cặp mắt tròn to khiến cô luôn toát lên vẻ cao hứng, đúng là tên sao người vậy15.

“Ừm, có điều anh ấy đợi ở đầu làng không vào, bảo tôi tới tìm cô hỏi vài việc.”

Cao Hưng cười thích chí, “Bao nhiêu năm rồi anh ta vẫn cả thẹn thế à. Anh ta không muốn gặp tôi thì tôi càng phải đi ngó mặt coi sao, đi thôi.” Nói rồi cô ta vỗ vai tôi, không cho phép từ chối. Tôi đành theo cô ta đi ra đầu làng, dọc đường không kìm được hỏi, “Cô vẽ cái gì thế?”

Cao Hưng giơ tay miêu tả, “Tôi đang thử để không bị phụ thuộc vào ánh sáng. Không cần dựa vào mắt nhìn, để linh cảm theo cánh tay lan đến ngọn bút. Anh hiểu không? Nếu bịt mắt lại, thính giác và xúc giác của con người sẽ nhạy lên gấp mấy lần, những bức tranh vẽ ra theo cách ấy sẽ vô cùng thuần túy.”

Cô ta diễn giải rất nhiệt tình, song tôi không hiểu thể loại nghệ thuật mới này, đành chuyển chủ đề, “Cô là người quen của Dược Bất Thị nhỉ?”

Cao Hưng điềm nhiên đáp, “Trước kia chúng tôi từng yêu nhau, nhưng về sau tính tình không hợp nên chia tay. Anh ta lúc nào cũng lo vớ lo vẩn, còn nói muốn giúp tôi xuất ngoại. Tôi có tay có chân, có chứng minh thư có hộ chiếu, cần gì đến anh ta?”

Tôi chẳng lấy gì làm bất ngờ, tính tình hai người này như vậy, thành đôi mới là kỳ tích.

“Anh ta lúc nào cũng thế đấy!” Tôi gật gù đồng tình.

“Chia tay thì cũng chia rồi, có gì đâu, còn không chịu gặp tôi nữa. Được thôi, để tôi đi gặp anh ta là được chứ gì?” Cao Hưng nói.

Cô nàng tên Cao Hưng này thật phóng khoáng cởi mở. Trong mắt cô, trên đời chẳng có chuyện gì đáng lo nghĩ, cũng chẳng bắt buộc phải dựa vào ai cả. Như một nàng mèo lang thang, đi đến đâu cũng không quấn người, trò chuyện với cô đúng là thoải mái.

Hai chúng tôi vừa nói chuyện vừa đi ra đầu làng. Thấy Cao Hưng đi đến, Dược Bất Thị không khỏi luống cuống, mặt thuỗn ra còn hơn cả cái bình cổ dài. Tôi xòe hai tay vẻ vô tội, “Con gái nhà người ta khăng khăng đòi đến, tôi không ngăn nổi.”

Cao Hưng khom người, tì trán vào cửa kính xe, “Dược Bất Thị, mau hạ kính xuống đi. Anh dám hỏi thăm địa chỉ của tôi mà không dám gặp tôi à?”

Dược Bất Thị ngượng nghịu hạ kính xuống, nhưng không chịu xuống xe, “Vương Sinh cho tôi địa chỉ đấy. Sao em lại... ở đây?”

“Ai dà, tốt nghiệp xong không xin được việc, giá thuê phòng ở đây lại rẻ, được bạn giới thiệu nên tôi vào ở thôi.”

“Nếu em cần, tôi có thể...”

“Lại thế rồi, tôi không cần.” Cao Hưng lườm anh ta, “Anh muốn làm gì hả? Thấy tội nghiệp tôi nên định bố thí à? Tôi giờ rất ổn, muốn vẽ gì thì vẽ. Ghét nhất cái kiểu của anh đấy, lúc nào cũng cho rằng người ta phải như mình thì mới coi là hạnh phúc.”

Dược Bất Thị xưa nay thâm trầm quyết đoán, vậy mà trước mặt Cao Hưng lại nhũn như chi chi. Anh ta đành vào thẳng chủ đề chính, “Chúng tôi đến tìm em để hỏi về chuyện trước kia em vẽ chân dung cho ông nội tôi.”

Nghe vậy, Cao Hưng rút trong túi ra một điếu thuốc, quẹt diêm châm lửa rồi nhả ra một vòng khói tròn, “Nói đi, các anh muốn hỏi cái gì?”

“Toàn bộ quá trình.”

Lúc bấy giờ Cao Hưng chưa tốt nghiệp Học viện Mỹ thuật Trung ương, tuy đã chia tay Dược Bất Thị nhưng cô vẫn vui vẻ nhận lời vẽ tranh. Theo lời cô thì hết tình còn nghĩa, ông Dược Lai cũng rất mến cô nàng thẳng thắn cởi mở này, cả già lẫn trẻ đều được tính không câu nệ, ông cụ gọi cô là “cháu dâu”, cô nàng gọi ông là “cụ khốt”.

Cao Hưng hỏi ông cụ muốn vẽ thế nào. Ông cụ nói muốn theo phong cách Tây, vẽ tranh sơn dầu, vừa hay đúng chuyên ngành của Cao Hưng, đôi bên tâm đầu ý hợp.

Nhưng về vấn đề vẽ cái gì và vẽ ra sao, hai người họ lại cãi cọ. Ông Dược Lai yêu cầu rất cặn kẽ, chỗ này vẽ cái gì chỗ kia vẽ cái gì. Song Cao Hưng lại thấy gò bó, cho rằng đó không phải công việc của họa sĩ, muốn tỉ mỉ như thế sao không kiếm cái máy ảnh chụp cho xong? Cô không muốn làm nữa. Nhưng ông Dược Lai nhất quyết đòi cô làm.

Cao Hưng tuy thoáng tính nhưng suy cho cùng chẳng thể lão luyện trải đời được như Dược Lai, cuối cùng đành miễn cưỡng nhận lời. Nhưng cô khăng khăng không chịu ký tên, nói rằng mình chỉ làm mỗi việc phết sơn lên mà thôi, bức tranh này là của ông, không phải của cô.

Nghe đến đó, tôi hỏi Cao Hưng sao ông cụ lại chọn bốn món là đôn thêu khổng tước song sư, chén sứ thanh hoa chân cao vẽ con gà, thủy trì móng ngựa men thiên thanh, lọ dế vàng da lươn vẽ sóng vờn và hoa cỏ, ông cụ có giải thích gì không?

Cao Hưng đáp mình cũng không biết. Theo bố cục thì những vật trang trí này không phù hợp, nhưng ông cụ nhất quyết đòi dùng.

“Chà, có lẽ lúc đó tâm trạng ông cụ cũng không được ổn định lắm. Cứ hôm nay thế này, ngày mai lại thế nọ. Bốn món này không phải chốt ngay từ đầu đâu, vốn dĩ ông cụ chọn thứ khác cơ, rồi đùng một cái bảo tôi phải sửa, tôi đành xóa đi, thay vào bốn món này.” Hút hết điếu thuốc, Cao Hung búng đớt thuốc bay xuống rãnh nước cạnh đó, như một ngôi sao băng đỏ rực.

“Ban đầu ông cụ định vẽ cái gì?”

“Một chiếc chóe thì phải, tôi không nhớ rõ lắm.”

Tôi và Dược Bất Thị đồng thời sững người, Dược Bất Thị bèn lôi ảnh chụp chiếc chóe của lão Từ ở Vệ Huy ra hỏi, “Có phải thế này không?”

“Hình dạng giống nhưng hoa văn thì không.”

Tôi và Dược Bất Thị bàng hoàng nhìn nhau. Tôi túm cổ tay Cao Hưng kéo cô lên xe, Dược Bất Thị cũng hiểu ý, mở ngay cửa xe ra. Cao Hưng giật mình, “Các anh làm gì đấy?” Dược Bất Thị đáp, “Em theo chúng tôi đi đến chỗ này, có việc quan trọng lắm.” Cao Hưng trừng mắt nhìn anh ta, “Có ai nhờ vả người ta như anh không?” Nói vậy nhưng vẫn tự động chui vào xe.

Xe từ vườn Viên Minh quay lại nhà Dược Lai. Cửa khóa chặt, giờ tìm Phương Chấn thì muộn quá. Hai chúng tôi đành nghiến răng bảo Cao Hưng cùng trèo tường vào. Cô hào hứng, “Gọi tôi đến đây làm kẻ trộm à? Mới mẻ đấy.”

Có lẽ trướ