← Quay lại trang sách

CHƯƠNG 3 CHÓE SỨ THANH HOA “BA LẦN GHÉ LỀU TRANH”

Bốn câu chuyện này kể ra thì không dài, nhưng đều có ý nghĩa riêng.

Trước hết nói về lọ dế vàng da lươn vẽ sóng vờn và hoa cỏ.

Người xưa rất khoái chơi chọi dế, Giả Tự Đạo thời Nam Tống16 còn có biệt hiệu là thừa tướng dế, dĩ nhiên cũng rất chú trọng tới đồ đựng dế. Lọ dế rất khó phân loại, có loại bằng sứ, có cả loại bằng gốm, bằng ngọc. Lọ sứ khá tinh xảo, thường dùng khi chọi dế, còn lọ gốm có hơi đất, lại thấm hơi nước, hợp để nuôi dế.

Chiếc lọ dế vàng da lươn này được đề “Cổ Yến Triệu Tử Ngọc chế tạo”, men vàng miệng tròn, nước men ôn nhuận sáng bóng. Triệu Tử Ngọc là một thợ gốm nổi tiếng dưới thời Khang Hy, lọ dế làm ra đều là hàng tinh tuyển, rất được ưa chuộng, giá trị chỉ sau lọ dế của lò nhà quan thời Vĩnh Lạc.

Dược Lai tìm được báu vật này vào năm 1937. Bấy giờ ông ta vẫn còn trẻ, lần đầu đi xa, một mình tới Thiểm Tây săn hàng, cổ vật ở Thiểm Tây chở hàng xe chẳng hết, riêng đồ gốm hiếm hoi, chỉ có gốm Diệu Châu, gốm Tuần Ấp được coi là có tiếng. Thế nên Huyền môn cử Dược Lai tới Thiểm Tây không phải để săn hàng quý, mà chỉ muốn ông ta rèn luyện thêm.

Đến Tây An, Dược Lai lang thang khắp nơi, vô tình nghe nói một hương thân địa phương có lọ dế Tử Ngọc thì mừng rỡ khôn xiết. Từ sau thời Hàm Phong, lọ dế Tử Ngọc đã rất hiếm trên thị trường, phần nhiều lại tập trung ở kinh thành và Hà Bắc. Giờ nghe nói đến báu vật này ở Thiểm Tây, thực là cơ hội hiếm có. Ông ta bèn hạ quyết tâm phải mua được nó bằng mọi giá, đem về để chứng minh thực lực của mình.

Dược Lai hỏi thăm mới biết, hóa ra tổ tiên vị hương thân này từng làm quan ở kinh đô, khi về quê dưỡng già đem theo rất nhiều đồ đạc, trong đó có cả lọ dế nọ, nghe đâu được mua lại từ một tay con cháu Bát kỳ.

Dược Lai tìm đến nhà hương thân, xin mua lại. Song vị hương thân kia từ chối, nói là vật gia truyền của tổ tiên, không dám đem bán. Dược Lai giở đủ cách thuyết phục mà không sao lay chuyển được, đành từ bỏ.

Thật không ngờ khi ông ta sắp quay về Bắc Bình, vị hương thân kia bỗng dưng tìm tới ngỏ ý bằng lòng bán, nhưng đưa ra một điều kiện lạ lùng, không lấy tiền, chỉ đổi tiền, hơn nữa không phải đổi tiền mới, mà đòi đổi tiền cổ. Người nọ nói rất rõ ràng, phải đổi bằng ba trăm đồng Khai Nguyên thông bảo, còn phải là đồng Khai Nguyên thông bảo thiếu nét.

Dược Lai không sao hiểu nổi điều kiện ấy. Ông ta không hiểu nhiều về tiền cổ, cũng chẳng biết thế nào là đồng Khai Nguyên thông bảo thiếu nét, đành tạm tiễn hương thân kia về, còn mình ra ngoài hỏi han, mới hay đầu đuôi câu chuyện.

Cùng lúc Dược Lai đến Tây An, có một lái buôn Thượng Hải cũng đến đây. Kẻ này hết sức kiểu cách, ở khách sạn Tây An cao cấp nhất trong thành, vung tiền như rác, khiến bao người trông vào. Y đăng tin thu mua tiền Khai Nguyên thông bảo trên tất cả các báo ở Tây An, nhưng chỉ mua tiền thiếu nét.

Tây An là kinh đô thời Đường, từng đào được rất nhiều tiền đồng Khai Nguyên thông bảo ở vùng phụ cận, chẳng có gì đáng giá. Nhưng tiền Khai Nguyên thông bảo thiếu nét thì mới nghe thấy lần đầu. Hỏi tay lái buôn Thượng Hải, y chỉ nói, “Đồng Khai Nguyên thông bảo bình thường, bốn chữ đều đủ nét. Nhưng có một loại Khai Nguyên thông bảo đặc biệt, chữ 'bảo' thiếu một nét. Tôi sẽ mua với giá gấp mười giá thị trường.”

Thấy có kẻ treo thưởng lớn, ai ai cũng động lòng tham, lũ lượt về nhà lục tìm. Có người tìm được mấy đồng trong nhà thật, đem bán cho tay lái buôn Thượng Hải kia, y lập tức trả tiền, không thiếu một xu.

Hành động của y khiến một vài người sinh nghi, trong đó có cả vị hương thân nọ. Y vung tiền ra mua lại như vậy, nhất định có mưu toan gì đó. Họ bèn bày tiệc rượu, mời tay lái buôn Thượng Hải đến. Trong bữa rượu mọi ngươi cụng ly chuốc chén, thay nhau hỏi han, tay lái buôn uống ngà ngà, cuối cùng cũng nói rõ thực tình.

Y vốn là môi giới cho một hiệu buôn Đức ở Thượng Hải, vô tình nghe nói các nhà khoa học Đức đã nghiên cứu ra một kỹ thuật đúc đại bác mới, phải dùng một thứ kim loại đặc biệt. Qua nghiên cứu, chỉ có tiền đồng Khai Nguyên thông bảo thiếu nét của Trung Quốc mới phù hợp yêu cầu nên người Đức chuẩn bị sang Trung Quốc thu mua. Hay tin ấy, y bèn mò tới Tây An gom hàng trước, chờ người Đức tới thì bán sang tay cho họ, ăn lời gấp trăm lần.

Tin tức kiểu này vốn không thể giữ kín, chẳng mấy chốc cả thị trường đều sôi sục. Mọi người không ngu mà bán cho tay lái buôn kia nữa, chỉ âm thầm găm hàng, ra sức mua vào, lăm le chở đến Thượng Hải bán cho người Đức. Vị hương thân kia cũng sinh lòng tham, mới đưa ra yêu cầu giao dịch lạ lùng như vậy.

Dược Lai tuy không am hiểu khoa học kỹ thuật, nhưng vẫn cảm thấy việc này hết sức kỳ lạ. Qua điều tra, ông ta phát hiện loại tiền Khai Nguyên thông bảo thiếu nét này trước kia chưa từng xuất hiện, chỉ khoảng một tháng trước khi tay lái buôn Thượng Hải tới Tây An mới lác đác có người đào được. Tới khi tin người Đức thu mua truyền ra, trên thị trường bỗng dưng lại xuất hiện một lượng lớn tiền Khai Nguyên thông bảo thiếu nét, giờ cứ hở ra ở đâu là bị mua tranh mua cướp, giá tăng vùn vụt. Rất nhiều người bán nhà bán cửa, hòng tìm cơ hội đổi đời.

Dược Lai hiểu ngay đây là trò mèo do một tay bợm bày ra. Ông ta có lòng tốt nhắc nhở vị hương thân kia, song lại bị mắng té tát. Dược Lai cũng chẳng hơi đâu nói nhiều, hủy vé tàu về Bắc Bình, kiên nhẫn ở lại Tây An chờ đợi.

Chẳng bao lâu sau, tay lái buôn Thượng Hải rời Tây An. Cả đám người, bao gồm vị hương thân, đem theo đống tiền đồng phấn khởi kéo đến Thượng Hải. Tới nơi hỏi thăm mới biết, hiệu buôn Đức kia không tồn tại, qua giám định, số tiền đồng nọ cũng đều là tiền mới đúc. Chỉ trong nháy mắt, của cải bao người tích cóp cả đời đã tan thành mây khói, có mấy người phẫn uất tự tử ngay tại đó, những kẻ khác hồn xiêu phách lạc quay về Tây An.

Vị hương thân kia đã vay một món tiền lớn để đầu tư thu mua Khai Nguyên thông bảo. Chủ nợ hay tin ùn ùn kéo tới đòi, Dược Lai cố ý đợi đến lúc này mới tới thăm hỏi, mạnh dạn đề nghị mua lại chiếc lọ dế vàng da lươn ngay trước mặt họ. Vị hương thân kia dù không muốn bán cũng bị đám chủ nợ ép bán lấy tiền trả nợ. Thế là sau một phen trắc trở, cuối cùng lọ dế vẫn về tay Dược Lai.

Trở về Bắc Bình, Dược Lai hỏi Hoàng Khắc Vũ, mới biết bí mật trong chuyện này.

Đồng Khai Nguyên thông bảo vốn không có tiền giả, bởi số lượng rất nhiều, công nghệ đúc lại phức tạp nên chẳng bõ làm giả. Có kẻ xảo quyệt lợi dụng sơ hở đó, trước tiên đúc thật nhiều Khai Nguyên thông bảo thiếu nét rồi bán mấy trăm đồng ra thị trường. Sau đó tên bịp bợm giả làm lái buôn Thượng Hải, rêu rao thu mua loại tiền này, cố tình giả say tiết lộ chuyện người Đức muốn thu mua số lượng lớn v.v... tạo nên cơn sốt thị trường. Đồng bọn của hắn thừa cơ đẩy hết hàng tồn ra, những kẻ lăm le đổi đời còn bụng dạ đâu mà phân biệt, cứ thế mua vào. Tới khi đẩy hết đi rồi, tên lừa đảo liền lẳng lặng ẵm cả mớ tiền thật chuồn êm.

Hoàng Khắc Vũ cảm khái nhận xét, trò lừa đảo này thành được không phải nhờ kỹ thuật làm giả cao siêu mà nhờ nhìn thấu lòng người. Đoạn ông ta lại nhìn Dược Lai, nói: “Mày cũng khá nhỉ, biết tát nước theo mưa, dằn lòng mua được lọ dế Tử Ngọc này, có thể coi là lái buôn cổ vật đạt chuẩn, vào nghề được rồi đấy.”

Dược Lai nghĩ đi nghĩ lại, cứ day dứt khôn nguôi, chẳng biết làm vậy có tính là giậu đổ bìm leo không. Ông ta không lừa người, cũng chẳng giăng bẫy, thậm chí còn có lòng nhắc nhở hương thân kia, có thể coi là tận tình tận nghĩa. Nhưng như vậy lẽ nào có thể đoạt lấy báu vật của người khác không chút áy náy sao? Ông ta nghĩ mãi không thông, bao năm nay cũng chẳng tìm được câu trả lời vừa ý. Thế nên ông ta lúc nào cũng giữ lọ dế nọ bên mình. Khi kể cho người khác, là kể về lòng tham của con người; còn kể cho mình, lại là tự hỏi có thẹn với lòng hay không.

Chuyện thứ hai là về chiếc chén con gà chân cao sứ thanh hoa.

Dược Lai tìm được thứ này vào một giai đoạn đặc biệt. Bấy giờ quân Nhật đang chiếm Bắc Bình, kinh tế khủng hoảng nặng nề, thị trường đìu hiu. Thời thái bình phồn vinh, người ta mới chơi cổ vật, giờ thế cuộc loạn lạc nhường này, ai còn bụng dạ nào nghĩ tới mấy thú tiêu khiển đó nữa. Các tiệm đồ cổ chỉ mua vào không bán ra, làm ăn ế ẩm, gần như chẳng buôn bán được gì.

Một hôm, ông ta đang ngồi đập ruồi trong tiệm nhà mình, chợt thấy một người đàn ông vận áo dài đẩy cửa bước vào, vẻ mặt hơi hoảng hốt, đòi gặp đích danh người của Huyền môn trong Minh Nhãn Mai Hoa. Dược Lai đáp tôi đây, ông có việc gì. Người kia lục tìm mãi trong ngực áo mới móc ra một túi vải do nho nhỏ. Mở ra, bên trong có hai thứ, một là chén con gà chân cao bằng sứ thanh hoa, món còn lại là chén con gà đấu thái17.

Dược Lai thoạt trông đã sáng mắt lên. Bấy giờ ông ta vẫn còn trẻ, nhưng nhờ nền tảng gia đình nên đã là chuyên gia giám định có tiếng trong nghề. Hai món này chỉ nhìn qua đã biết không phải tầm thường. Nhưng ông ta không vội vồ vập, mà đợi đối phương lên tiếng. Người đàn ông kia nói, phiền anh xem giúp hai thứ này, Dược Lai hiểu ngay, người đàn ông không định bán, mà đem đến nhờ giám định.

Dược Lai nhận lấy, cầm chén con gà đấu thái lên xem trước, vừa cầm vào tay đã thấy mướt mà ấm, sờ rất thích, rõ ràng là hàng thật.

Chén này hẳn có từ những năm Thành Hóa18, miệng rộng bụng thon, thành ngoài dùng kỹ thuật đấu thái vẽ gà mẹ cùng gà con nô đùa kiếm ăn, ngăn cách bởi mấy hình mẫu đơn và phong lan bên tảng đá ven hồ, chế tác vô cùng tinh xảo.

Chén con gà thời Thành Hóa, đừng nói sau này mà ngay lúc ấy đã được coi là hàng hiếm. Thời Vạn Lịch19, một cặp chén con gà Thành Hóa có thể bán được mười vạn đồng, hoàng đế còn lệnh đem ra làm đồ ngự dụng, đủ thấy quý hóa nhường nào. Trong các loại chén sứ cổ vật thì chén con gà xưng vương, mỗi khi có một chiếc xuất hiện và được mua đi bán lại đều dấy lên sóng to gió lớn.

Thế nên sau khi xác định đây là hàng thật, Dược Lai rúng động khôn xiết.

Chiếc chén con gà chân cao sứ thanh hoa còn lại thì được làm dưới thời Ung Chính, phỏng theo đồ thời Thành Hóa, nhưng mô phỏng rất khéo, nếu không phải dưới đáy có ghi rằng chế tác dưới thời Ung Chính Đại Thanh thì rất dễ nhầm là đồ thời Minh, cũng là một món hàng tinh xảo, nhưng so với chén con gà kia thì kém hơn nhiều.

Dược Lai nói với người kia rằng: “Chúc mừng ông, cả hai đều là thật, ông có được bảo bối rồi.” Ngờ đâu mặt ông ta sa sầm, chẳng có vẻ gì là mừng rỡ, người đàn ông níu tay Dược Lai nói, “Nhờ anh một việc, ngày mai tôi cầm chén con gà này quay lại để anh giám định lần nữa, tới lúc đó anh nhớ nói là giả nhé.”

Dược Lai sửng sốt, xưa nay những kẻ cầm hàng giả tới nhờ ông ta nói thành hàng thật rất nhiều, nhưng đây là lần đầu gặp người cầm hàng thật tới nhờ nói thành hàng giả. Sợ mình nghe lầm, ông ta còn cẩn thận hỏi lại một lượt. Người đàn ông kiên quyết dặn, sáng mai bất luận tôi nói gì, anh cũng cứ khăng khăng là giả hộ cho, chiếc chén chân cao này, coi như thù lao cho anh.”

Dứt lời, ông ta quẩy quả đi ra, để lại một mình Dược Lai ngỡ ngàng ngồi đó. Hôm sau, một đám người kéo tới cửa tiệm, một cảnh sát ngụy, một tên lính Nhật cùng người đàn ông áo dài nọ theo sau. Vừa vào cửa, tay cảnh sát kia đã oang oang đòi tìm Dược Lai. Dược Lai vội vã bước ra đón, người đàn ông áo dài nói “Nhờ anh giám định hộ”, rồi đưa chiếc chén con gà ra.

Minh Nhãn Mai Hoa đã có quy định trừ giả giữ thật, lúc giám định quyết không thể nói giả thành thật, nhưng lại không quy định không được nói thật thành giả. Dược Lai mồm mép lanh lợi, cầm chén con gà bình phẩm một hồi, tay cảnh sát ngụy và tên lính Nhật kia đều là hạng gà mờ, chỉ dăm ba câu đã bị Dược Lai quay mòng mòng. Cuối cùng tên lính Nhật phục sát đất, lên tiếng hỏi rốt cuộc cái chén này là thật hay giả. Dược Lai bèn đưa trả lại chén, cười đáp thứ này trông khí mới.

Gã người Nhật nghe vậy thì đùng đùng nổi giận, cầm chén lên đập mạnh xuống đất, xoảng một tiếng, chiếc chén vỡ nát. Dược Lai trông mà lòng lạnh toát, một báu vật như vậy không ngờ nháy mắt đã vỡ tan. Nhìn sang thì thấy người đàn ông áo dài kia đang đứng đờ ra tại chỗ.

Tới khi tay cảnh sát ngụy và tên Nhật đùng đùng xô cửa bỏ đi, người đàn ông mới run lên bần bật rồi hộc ra một ngụm máu tươi, ngã lăn xuống đất bất tỉnh. Dược Lai vội gọi thầy thuốc cứu chữa, nhưng đã muộn.

Ông ta hỏi thăm một hồi mới biết, hóa ra người đàn ông nọ họ Lâu, có một chiếc chén con gà gia truyền, coi như báu vật. Hàng xóm có kẻ làm cảnh sát ngụy, bèn xúi ông ta dâng cho người Nhật. Người Nhật dăm ngày ba bữa lại tìm đến, nói gần nói xa muốn đoạt cái chén. Họ Lâu kia không dám chọc giận họ, cũng không nỡ đem dâng, bèn nghĩ ra một cách, nói thác rằng đây là do tổ tiên tôi truyền lại, không rõ thật giả, phải vời chuyên gia giám định. Sau đó ông ta chạy đến xin Dược Lai cố tình nói là giả để đám người kia khỏi tơ tưởng.

Ngờ đâu tay người Nhật nọ vốn nóng nảy, nghe nói là giả liền đập nát cái chén. Tính đi tính lại, cuối cùng lại làm chiếc chén con gà quý giá bị hủy hoại, thực chẳng ai ngờ nổi.

Dược Lai cứ nghĩ mãi, nếu mình có sao nói vậy, xác định là đồ thực, liệu có cứu nổi người kia không? Nhưng nếu làm vậy chiếc chén con gà ắt sẽ bị cướp đi, người kia quý nó như tính mạng, cũng chưa chắc đã sống nổi. Nói cách khác, từ khi chiếc chén con gà của ông ta lộ ra thì đã định sẵn số phận rồi.

Dược Lai giữ gìn cẩn thận chiếc chén chân cao được coi như thù lao nọ. Mỗi lần trông thấy nó, ông ta lại nghĩ tới chiếc chén con gà bị đập vỡ kia, lòng xót xa khôn tả. Bất luận là người hay vật, dường như đều khó tránh khỏi số phận an bài.

Câu chuyện thứ ba, là về chiếc thủy trì hình móng ngựa men thiên thanh.

Men thiên thanh bắt nguồn từ lời phê của Sài Thế Tông nhà Hậu Chu thời Ngũ Đại, “Mưa tạnh trời quang mây tản hết, cứ theo sắc ấy chế làm men.” Xanh như da trời, sáng như gương, được gọi là men thiên thanh. Đây vốn là đặc trưng của sứ Sài, nhưng đến giờ vẫn chưa phát hiện được mảnh sứ Sài nào, nên màu thiên thanh vào thời Tống phần nhiều là từ sứ Nhữ, sứ Quân, đều là báu vật hiếm có.

Năm 1948, Dược Lai đến Trường Xuân, đây từng là thủ đô của nước Ngụy Mãn Châu, phần lớn những đồ quý báu trong Cố Cung đều được Phổ Nghi đem tới đây. Sau khi Nhật Bản đầu hàng, không ít báu vật đã lưu lạc trong dân gian vùng Đông Bắc. Nhiều lái buôn cổ vật thích đến Đông Bắc mót hàng, gọi là hàng Đông.

Lần này Dược Lai đến Trường Xuân, thu hoạch không ít, nhưng lúc sắp rời đi, ông ta mới nhận ra mình đã kẹt lại. Hai quân giao tranh, thành Trường Xuân bị vây chặt, một con chim cũng đừng hòng bay lọt. Chẳng bao lâu sau, trong thành bắt đầu xảy ra nạn đói.

Dược Lai là người nhanh nhạy, ngay từ lúc thành bị phong tỏa đã thấy không ổn, bèn lén lút tích trữ lương thực từ trước. Tuy không nhiều, nhưng đủ cho một người cầm cự. Trong thành hiển nhiên là tiếng than dậy đất, ngày nào cũng có người chết đói, tình cảnh vô cùng thê thảm. Dược Lai cũng không dám ra ngoài, chỉ ru rú trong nhà, mong qua được kiếp nạn này.

Hôm ấy, đột nhiên có người tìm đến cửa. Dược Lai nhận ra đó là viên kế toán tên Quách Hành, trước đây từng tiếp xúc. Ông nội Quách Hành làm thị vệ cho Phổ Nghi, trộm được một chiếc thủy trì hình móng ngựa men thiên thanh. Lúc trước Dược Lai muốn mua nhưng Quách Hành ra giá quá cao nên không mua được.

Thấy Dược Lai, hai mắt Quách Hành đỏ ngầu, chân bước liêu xiêu, vừa gặp đã khẩn khoản, “Anh Lai, chiếc thủy trì này anh cứ cầm đi, tôi không lấy tiền nữa, chỉ xin chút đồ ăn thôi, cả nhà tôi sắp chết đói rồi.” Dược Lai đang do dự, chưa biết tính sao thì bên cạnh chợt có một người nhảy ra hét lên, “Từ từ đã, tôi lấy lương thực đổi cho anh!”

Dược Lai quay sang, hóa ra là một tay sưu tầm đồ cổ ở địa phương, tên Trịnh An Quốc. Trịnh An Quốc mê mẩn đồ gốm sứ, còn được gọi là tên cuồng sứ. Sau khi đến Trường Xuân, Dược Lai đã bị hắn phá hỏng mấy vụ làm ăn, đôi bên coi nhau như quân thù.

Quách Hành cũng chẳng quan tâm ai với ai, ra giá ai cho nhiều thì thủy trì thiên thanh thuộc về người đó. Trong tay Dược Lai chỉ có ba chiếc bánh mì, còn Trịnh An Quốc ném đánh “bịch” ra một túi gạo, phải đến năm cân.

Quách Hành khum tay vái Dược Lai, nói một tiếng xin lỗi rồi đưa thủy trì cho Trịnh An Quốc, xách túi gạo lên quầy quả bỏ đi, không mảy may luyến tiếc. Ông ta vốn trân quý thứ này như tính mạng, nhưng đến lúc sống chết, cũng đành phải buông tay.

Trịnh An Quốc vui như mở cờ, ôm thủy trì tung tăng ra về. Dược Lai thực sự thích chiếc thủy trì đó, không nỡ từ bỏ. Ngẫm nghĩ suốt một ngày, ông ta quyết định cố gắng thêm lần nữa, hôm sau lại đi tìm Trịnh An Quốc. Tới cửa nhà họ Trịnh, ông ta đẩy thử, thấy cửa không khóa bèn sải bước đi vào, tức thì chết sững.

Bốn người nhà Trịnh An Quốc đang nằm trên giường lò bất động. Dược Lai lại gần thăm hơi thở, thấy họ đều đã chết đói. Trước khi chết, hai tay Trịnh An Quốc còn nắm chặt chiếc thủy trì kia. Bấy giờ Dược Lai mới biết, cả nhà Trịnh An Quốc đã chịu đói mấy ngày, vừa kiếm được ít gạo cứu mạng thì bị ông ta đem đổi lấy thủy trì thiên thanh.

Tên si cuồng này, vì một món đồ sứ mà dám đánh đổi mạng cả nhà mình!

Dược Lai lắc đầu cảm khái, rồi cũng không chạm vào thủy trì mà quay người bỏ đi. Chợt ông ta nghe thấy một tiếng động rất khẽ từ trên giường lò, như tiếng mèo con kêu vậy. Ông ta ngoái lại thấy phía trong giường lò còn một bé trai nằm co quắp, áng chừng mười tuổi, đang thoi thóp, nhưng mũi vẫn còn hơi thở.

Dược Lai thở dài, nhủ bụng, anh Quốc à, tôi cứu mạng con trai anh, lấy thủy trì này coi như tiền công, cũng không quá chứ? Anh đừng oán tôi nhé. Đoạn ông ta lấy chiếc thủy trì rồi móc bánh mì ra bẻ làm đôi chia cho thằng bé một nửa, nhờ đó thằng nhỏ miễn cưỡng nhặt lại được cái mạng.

Về sau Dược Lai đem cả đứa nhỏ ấy cùng thủy trì, bôn ba vất vả quay về Bắc Bình. Người già trong nhà thoạt trông đã nhận ra chiếc thủy trì này là hàng giả, không phải sứ Tống mà là sứ Thanh, làm ở trấn Cảnh Đức. Dưới thời Khang Hy, lò gốm ở trấn Cảnh Đức có thể phỏng chế được màu thiên thanh gần như hệt hàng thật. Dù là kẻ lão luyện nhiều năm trong nghề cũng rất dễ nhìn lầm.

Dược Lai không lấy thế làm tiếc, dù sao ai chẳng có lúc nhìn lầm? Ông ta chỉ cảm khái rằng, Trịnh An Quốc đánh đổi tính mạng cả nhà, cuối cùng chỉ được một món hàng giả, thực hết sức trào phúng. Vậy nếu chiếc thủy trì này là hàng thật thì sao? Sự hy sinh của Trịnh An Quốc rốt cuộc có đáng không? Dưới mắt người ngoài, hành vi ấy thực sự ngu ngốc, u mê, nhưng trong lòng Trịnh An Quốc chưa chắc đã nghĩ vậy, thậm chí Quách Hành cũng chưa chắc đã nghĩ vậy, chưa chừng sâu trong tâm khảm lại ngưỡng mộ Trịnh An Quốc cũng nên. Cùng là kẻ si cuồng, ai phải ai trái, thực khó phán xét. Thế nên Dược Lai cũng luôn giữ món đồ giả ấy bên mình để kỷ niệm quãng thời gian kinh tâm động phách nọ.

Câu chuyện thứ tư là về đôn thêu khổng tước song sư.

Đôn thêu nói trắng ra là một dạng ghế ngồi hình trống tròn đặt thẳng đứng, bụng phình, trên và dưới thót lại, dễ di chuyển, lúc ngồi phủ tấm vải thêu lên, nên còn gọi là “đôn thêu”, thời cổ cũng gọi là “bục nền” hoặc “móng thuyên”. Đôn thêu có thể làm từ mọi chất liệu, có gỗ, có sứ, có trúc, có sơn khắc, rất nhiều chủng loại, nhưng thông thường đôn sứ là quý nhất.

Đôn thêu chim công và đôi sư tử này là đôn sứ thanh hoa khía bí ngô, trên dưới đều có một đường gờ nổi lên, gần mặt đôn là hoa văn chim công hình tròn, xung quanh là lá nho quấn quýt, mặt đôn vẽ đôi sư tử vờn cầu, dưới đáy còn mấy đóa mây lành như ý. Tay nghề hết sức tinh xảo, hẳn là đồ vào những năm Long Khánh20 triều Minh. Tiếc rằng rìa đôn bị sứt mất một mảnh, không được toàn vẹn.

Đôn thêu này vốn là của một tiệm đồ cổ tên Mô Vấn Trai, nghe nói năm Lộc Chung Lân21 xông vào cung, chủ tiệm đã nhân lúc hỗn loạn cuỗm nó từ Cố Cung ra. Ông chủ Mô Vấn Trai nâng niu nó như báu vật, thường giấu kỹ trong nhà, người thường khó mà thấy được. Chỉ khi tiếp đãi khách quý, ông ta mới đem ra bày.

Theo lời ông chủ, đôn thêu này được tiến cống từ những năm Long Khánh, ở trong cung đã mấy trăm năm, hầu hạ mười mấy vị hoàng đế cả hai triều Minh Thanh, bên trên toàn long khí. Người ta nườm nượp kéo tới hỏi mua, nhưng ông chủ kiên quyết không bán, nói rằng dù nghèo đến phải bán con, cũng không bán báu vật này.

Khoảng năm 1956, các ngành nghề ở Bắc Kinh bắt đầu thực hiện công tư hợp doanh, giới cổ vật cũng không nằm ngoài vòng xoáy đó. Minh Nhãn Mai Hoa cầm cân nảy mực trong lĩnh vực giám định cổ vật, nên đã phối hợp với chính phủ, phụ trách thuyết phục các chủ tiệm đồ cổ ở Bắc Kinh, để họ đem cửa hiệu của mình sáp nhập thành cửa hàng văn vật quốc doanh. Có kẻ hiểu thời thế, ngoan ngoãn giao cả cửa hiệu lẫn những đồ sưu tầm ra, song cũng có người từ chối hợp tác. Như ông chủ Mô Vấn Trai khăng khăng không chịu, còn truyền lời ra rằng ai dám động đến cửa tiệm, ông ta sẽ liều mạng với kẻ đó.

Bấy giờ Dược Lai đang phụ trách khu vực này, ông ta khuyên nhủ hết nước hết cái, song lại bị chủ tiệm mắng chửi đuổi về. Người đại diện được nhà nước cử đến nổi giận đập bàn đòi phải nghiêm trị. Dược Lai nói ngon nói ngọt mãi mói xoa dịu được, ngay trong đêm ấy liền gửi điện báo cho con trai ông chủ Mô Vấn Trai.

Con trai ông chủ đã đi Diên An từ lâu, về sau giữ chức trong quân đội miền Nam. Nhận được điện báo, anh ta lập tức xin nghỉ phép quay về Bắc Kinh. Ông chủ Mô Vấn Trai cứ ngỡ con trai trở về để giúp mình. Chẳng ngờ anh con trai vừa về tới, thái độ hết sức tích cực, chẳng mấy chốc đã bàn bạc ổn thỏa việc sáp nhập với Dược Lai, còn rốt ráo hơn những tiệm đồ cổ khác.

Ông chủ thấy thế thì nổi giận đùng đùng, vác chổi đuổi đánh con. Anh con trai không dám đánh trả, đành chạy trốn. Hai cha con đuổi đánh nhau trong phòng, sơ ý xô đổ cái đôn sứ, xoảng một tiếng, mép đôn mẻ mất một mảnh. Ông chủ xót ruột quá, ôm ngực ngã lần ra đất. Anh con trai không dám chậm trễ, vội đưa cha đến bệnh viện cấp cứu. Tuy cứu được, nhưng sức khỏe ông cụ cũng suy sụp hẳn, việc trong tiệm đành giao cả cho con trai.

Hôm Mô Vấn Trai vào công tư hợp doanh, ông chủ khăng khăng đòi xuất viện, ngồi chễm chệ trên chiếc đôn thêu khổng tước song sư bị sứt ngay giữa cửa. Ông oang oang nói, “Từ khi có được chiếc đôn này, tôi luôn trân quý nâng niu như ông tổ nhà mình, chưa bao giờ dám ngồi. Hôm nay phải đem ghế hoàng đế từng ngồi ra ngồi xả láng một phen cho bõ.”

Ông cụ ngồi trên chiếc đôn thêu nọ, bất động nhìn người ta khiêng từng món đồ trong tiệm đi. Cuối cùng mọi người treo tấm biển công tư hợp doanh lên, pháo nổ râm ran, anh con trai lại gần gọi ông cụ đứng dậy, nào ngờ ghé lại mới thấy cụ đã tắt hơi từ lâu, ngồi trên đôn gấm mà đi. Tay phải ông cụ bấu chặt chỗ mẻ trên đôn, phải hai người mới gỡ ra nổi.

Đôn thêu khổng tước song sư này không nằm trong danh sách hợp doanh của Mô Vấn Trai, coi như là tài sản riêng của nhà họ. Nhưng con trai ông chủ tiệm không dám nhận, bố anh ta đi đâu cũng khoe chiếc đôn thêu này đầy long khí, anh ta muốn thăng tiến, nào dám giữ mấy thứ tàn dư phong kiến này, nên đã bán phắt cho Dược Lai. Lo tang ma xong xuôi, anh ta vội vã về miền Nam, chẳng bao lâu sau thì đón cả gia quyến theo, nhà cũng đem bán, từ đó chẳng hay tin gì nữa.

Xưa nay, Dược Lai vẫn áy náy với ông chủ Mô Vấn Trai. Nếu ông ta không gọi con trai ông chủ về, liệu có phải ông chủ đã không qua đời như thế. Dĩ nhiên, cũng có thể sẽ gặp phải kết cục tàn khốc hơn nữa.

Dược Bất Thị kể hết bốn câu chuyện thì cũng đã sắp nửa đêm. Cao Hưng ngồi thần ra, còn tôi gục gặc cần cổ mỏi nhừ, thở hắt một hơi dài, lòng ngổn ngang muôn mối.

Dược Bất Thị nói, “Bốn câu chuyện này, ông chỉ kể cho tôi. Những người khác có thể từng nghe nói, nhưng mình tôi được nghe đầy đủ nhất. Hồi nhỏ tôi không hiểu, giờ ngẫm lại mới thấy chuyện nào cũng có thâm ý.”

Những con người trong bốn câu chuyện này, kẻ tham lam, kẻ si dại, kẻ vô tình, kẻ bất lực, bề ngoài kể về bốn món cổ vật, nhưng thực ra lại chẳng mấy liên quan đến việc giám định, thậm chí chẳng can hệ đến thật giả, mà chỉ luận về lòng người. Quả như câu nói xem đồ dễ, nhìn người khó. So với các món đồ cổ, lòng người mới là khó lường hơn cả.

Có điều tôi vẫn thắc mắc, cả đời ông Dược Lai từng trải qua vô số sóng gió, sao lại chỉ canh cánh mỗi bốn thứ này?

Dược Bất Thị nói như đi guốc trong bụng tôi, “Ông nội tôi vẫn nói, vai chính trong bốn câu chuyện vừa rồi không phải ông, song ông lại nắm trong tay số mệnh của những con người ấy. Nếu lúc đó ông làm khác đi, có lẽ những người những vật đó đã có một kết cục khác. Bởi vậy trong cả bốn câu chuyện, ông đều có một phần hối hận. Hối việc, hối người, hối lỗi, hối lòng.”

Nghe tới đó, tôi thầm rúng động, đây chẳng phải là tên tiệm cầm đồ của tôi đó sao?

Tiệm tôi tên Tứ Hối Trai, đặt theo bốn chữ mà bố tôi trối lại trước khi tự tử. Giờ nghe được những chữ ấy từ con cháu nhà họ Dược, xem ra lai lịch của “tứ hối” phức tạp hơn tôi tưởng. Chẳng rõ giữa ông Dược Lai và bố tôi có mối liên hệ nào đặc biệt không.

Định nghĩ kỹ hơn, nhưng đầu óc tôi đã đặc lại như hồ. Đi suốt ngày đường từ Vệ Huy về, hai lần đột nhập biệt thự nhà họ Dược, còn chạy tới vườn Viên Minh một chuyến, chẳng được nghỉ phút nào, tôi đã mệt lử, mí mắt nặng trịch như Tư Mẫu Mậu đỉnh.

Đừ ra thế này còn nghĩ ngợi gì nổi nữa. Tôi giơ tay ra hiệu, nói hôm nay đến đây thôi, sáng mai chúng ta bàn tiếp được không.

Dược Bất Thị đã thuê cho tôi một phòng cạnh đấy, sau khi tạm biệt, tôi mụ mị về phòng ngả người nằm xuống giường, vùi mặt vào chiếc gối êm ái, ngủ thiếp đi.

Tôi ngủ say tít, đến hơn tám giờ mới tỉnh. Rửa mặt đánh răng qua loa xong, tôi đi gõ cửa phòng đối diện. Cửa mở, Cao Hưng mặc áo ngủ nhung tăm sọc xanh nhạt ló đầu ra. Tôi ngẩn người, vội ngượng nghịu cười trừ để khỏa lấp. Trái lại cô thoải mái nói, “Anh ấy vẫn đang ngủ, chúng ta đi ăn sáng trước nhé?”

Chẳng bao lâu sau, Cao Hưng đã thay sang bộ đồ tối qua, cùng tôi đi lên nhà hàng xoay trên tầng thượng. Mỗi người chúng tôi bưng một đĩa đồ ăn sáng, ngồi xuống đối diện nhau. Tôi tò mò hỏi, “Tính tình hai người khác nhau như vậy, sao lại quen nhau?”

Cao Hưng cầm dĩa xiên một miếng hoa quả, vừa ăn vừa đáp, “Tôi với anh ấy à? Đơn giản thôi, năm lớp mười một, nhân kỳ nghỉ hè tôi đạp xe tới Hương Sơn vẽ tranh, không may bị một tên trấn lột chặn đường, vừa đúng lúc Dược Bất Thị đi ngang qua đó. Có phải anh nghĩ tiếp theo sẽ là một màn anh hùng cứu mỹ nhân không? Ha ha ha, không phải đâu. Dược Bất Thị không hề động thủ mà quay ra nói lý với tên trấn lột, bảo rằng chỗ này cách đồn công an 700 mét, anh trấn lột rồi bỏ chạy với tốc độ bằng này, tôi chạy đi báo công an với tốc độ bằng kia, công an lái mô tô đuổi theo với tốc độ bằng nọ, anh không có cơ hội chạy thoát đâu, vì mấy cây bút vẽ mà phải đi lao động cải tạo thì chẳng bõ, thao thao lên lớp cho hắn một bài. Tên trấn lột nghe mà ong cả óc, bèn chửi đúng là đồ điên rồi bỏ đi.”

Tôi phá lên cười, quả là tác phong của Dược Bất Thị.

“Thấy tôi đứng bên cạnh cười ngặt nghẽo, Dược Bất Thị bực lắm, gắt lên rằng tôi cứu cô mà cô còn cười nữa. Tôi bảo, 'Vậy tôi mời anh ăn kem que nhé.' Anh ấy nói nhất định sẽ đáp lễ, cứ qua lại như thế, cuối cùng chúng tôi phải lòng nhau. Nhà trường cấm yêu sớm, nhưng xưa nay chưa bao giờ tóm chúng tôi. Dược Bất Thị bẩm sinh đã mang gương mặt của học sinh gương mẫu, mỗi lần anh ấy đến trường tôi, trông đều rất nghiêm túc, từ người nhà đến thầy cô giáo đều tưởng rằng anh ấy đến kèm tôi làm bài tập.”

Cao Hưng cười khanh khách, vẻ mặt đầy hoài niệm, sau đó lại lắc đầu, “Hừm, Bất Thị mọi điểm đều tốt, phải cái quá bảo thủ, chuyện gì cũng độc đoán làm theo ý mình. Anh ấy muốn xuất ngoại, tôi không ngăn cản, anh ấy muốn đem cả tôi theo, chuyện đó thì tôi tuyệt đối không chịu. Dựa vào cái gì mà tôi phải trông cậy anh đưa tôi đi? Thế hóa ra tôi là gái bao à? Rời đàn ông ra là chẳng làm được trò trống gì hết? Nếu anh muốn tán gái thì đừng học theo anh ấy.”

Tôi cười gượng, giữa tôi và Yên Yên không tồn tại vấn đề này. Chợt tôi sực nhớ ra một chuyện, “Sao Dược Bất Thị không muốn nối nghiệp nhà?”

Cao Hưng giải thích, “Anh ấy chê giới cổ vật cổ lỗ sĩ, một nửa phải dựa vào quan hệ, nửa kia dựa vào lý lịch. Dược Bất Thị là kẻ cao ngạo, nói muốn làm công việc có thể đạt được thành công nhờ vào cố gắng và trí tuệ. Chính vì chuyện này mà anh ấy đã cãi cọ rất găng với người nhà, ông nội anh ấy ra mặt thuyết phục cũng chẳng ăn thua, cuối cùng đành để anh ấy ra nước ngoài, quay sang bồi dưỡng Dược Bất Nhiên, em trai anh ấy.”

“Cô biết cả Dược Bất Nhiên ư?”

“Quen chứ, anh chàng đó không giống ông anh trai, tính tình hoạt bát, lại có thiên phú văn nghệ. Chính tôi đã dẫn dắt cậu ta làm quen với Rock'n'roll, tiếc rằng cuối cùng cậu ta vẫn bị người nhà bắt kế nghiệp, không tránh nổi,” Cao Hưng mút cái dĩa, nghiêm mặt nói, “Nhưng anh chớ xem thường cậu chàng ấy. Dược Bất Thị ngoài lạnh trong nóng, còn em trai anh ấy thì ngược lại, thường ngày tươi cười hớn hở, gặp ai cũng vồn vã nhiệt tình, nhưng sâu trong lòng luôn giữ khoảng cách, khó mà nhìn thấu được, ngay ông nội họ cũng không hiểu hết...”

“Đừng nói xấu sau lưng người khác.”

Thình lình một giọng nói vang lên ngay bên cạnh, Dược Bất Thị đã sầm mặt đứng đó tự bao giờ. Thì ra anh ta ngủ dậy cũng lên đây ăn sáng. Cao Hưng lè lưỡi, cúi đầu tiếp tục ăn trứng ốp la. Tôi liếc anh ta, “Tối qua anh ngủ ngon không?”

Mi mắt Dược Bất Thị giần giật, anh ta biết tôi đang lôi chuyện Cao Hưng ở lại ra trêu mình, chỉ hừ một tiếng rồi đáp, “Ngon lắm, ngủ thẳng một giấc đến sáng.” Sau đó một mình ra ngồi riêng một bàn, cầm miếng bánh mì lúa mạch lên, lặng lẽ phết bơ.

Có anh ta ở đó, chẳng ai còn tâm trạng tán gẫu nữa, tôi và Cao Hưng đành cắm cúi ăn phần mình. Cao Hưng nhồm nhoàm ăn xong rồi đứng dậy nói, “Tôi phải về đây, sửa lại tranh sơn dầu tốn công lắm.” Dược Bất Thị gật đầu, để tài xế lái Mercedes Benz đưa cô về.

Cao Hưng đi rồi, tôi giải quyết nốt bữa sáng của mình rồi dời mông sang ngồi đối diện Dược Bất Thị, hỏi anh ta tiếp theo định thế nào.

Năm chiếc chóe sứ thanh hoa vẽ tích cổ, đã biết được hai. Chóe “Quỷ Cốc Tử xuống núi” thật đang ở trong tay Lão Triều Phụng, vậy nên việc gấp rút trước mắt là chúng tôi phải tra rõ chiếc chóe “Ba lần ghé lều tranh” nhà họ Dược cất giữ đã bị ai lấy đi.

Dược Bất Thị đặt dĩa xuống, “Chuyện này cứ để tôi, dù sao đây cũng là chuyện nhà họ Dược. Tôi không cần ra mặt cũng có cách điều tra được. Cậu còn một nhiệm vụ khác kìa.”

Tôi đã quen với giọng bề trên của anh ta nên chỉ thở dài, “Anh nói đi.”

Dược Bất Thị rút ra một quyển sổ nhỏ, đặt lên bàn. Tôi nhìn bìa, thấy viết bốn chữ phồn thể: Huyền từ thành giám.

Ông nội Hứa Nhất Thành của tôi từng để lại một cuốn bí kíp tên Tố đỉnh lục, tổng kết kinh nghiệm giám định kim thạch và đồ ngọc bao đời nay của nhà họ Hứa. Nhà họ Dược thuộc Huyền môn, chuyên về đồ gốm, trong nhà cũng có một cuốn sách tương tự, gọi là Huyền từ thành giám, nội dung là những kiến giải độc đáo qua bao đời của họ về phương diện đồ gốm sứ.

“Anh... anh lấy đâu ra thế?” Tôi ngạc nhiên hỏi.

“Đây chỉ là bản sao thôi, không phải bản chính.”

“Còn phải nói! Ý tôi hỏi là anh đưa cho tôi làm gì?”

Dược Bất Thị đẩy gọng kính, “Dĩ nhiên là để cậu đọc rồi. Tiếp theo đây trọng điểm điều tra của chúng ta là chóe sứ thanh hoa, mấu chốt quyết định là tay nghề giám định đồ gốm sứ. Những chuyện đó tôi không biết, lại không thể nhờ người nhà giúp đỡ, nên phải trông vào cậu thôi.”

“Chuyên môn của tôi là kim thạch và đồ ngọc, không phải gốm sứ.”

“Không biết thì học, ít ra kiến thức cơ bản của cậu cũng vững hơn tôi, tôi còn hoàn toàn không biết gì cơ.” Dược Bất Thị thản nhiên nói.

Tôi nhăn nhó cười, “Anh tưởng tôi là thiên tài, đọc qua một lượt đã thành chuyên gia hả?”

Tố đỉnh lục hay Huyền từ thành giám tuy gọi là bí kíp, nhưng không giống bí kíp võ công trong truyện kiếm hiệp.

Giám định cổ vật phải dựa vào kiến thức và kinh nghiệm, những thứ như bí kíp chẳng đóng vai trò gì lớn. Huống hồ nội dung sách chỉ là kinh nghiệm của người xưa, theo đà phát triển vũ bão của khoa học kỹ thuật, rất nhiều phương pháp đã mất tác dụng. Hiện giờ kỹ thuật giám định và làm giả đã vượt xa những gì người viết sách có thể tưởng tượng.

Ví như kỹ thuật đo nhiệt phát quang, có thể dùng để xác định niên đại của đồ vật; kỹ thuật kính hiển vi kim tương, có thể thấy cả vết nứt hoặc kết cấu phân tử bên trong đồ vật. Những thứ này vừa ra đời thì 70% phương pháp giám định và làm giả từ trước thời Dân Quốc sẽ thành vô dụng, buộc phải đổi mới.

Thế nên những bí kíp này mang ý nghĩa kỷ niệm hơn là giá trị thực tế, Minh Nhãn Mai Hoa cũng chẳng cố tình giấu giếm mà vẫn cho phép người ngoài đọc và sao chụp lại trong một phạm vi nhỏ.

Tôi thì chẳng ngại xem lén bí kíp nhà họ Dược, bởi đây cũng chẳng phải tài liệu mật. Nhưng rõ ràng Dược Bất Thị hy vọng tôi chỉ cần đọc bí kíp đã thành chuyên gia giám định gốm sứ, đây thực sự là lầm tưởng của người ngoài nghề.

Dược Bất Thị bỏ bánh mì xuống, thong dong nói, “Tôi biết chuyện này rất khó, nhưng nước đến chân mới nhảy, dù chỉ có thể nâng cao 1% tỷ lệ thành công, cũng đáng để chúng ta cố gắng chứ, đúng không nào?”

Anh ta càng nói càng giống một ông giáo đáng ghét, nhưng tôi không nghĩ ra được lý do phản bác, đành bất đắc dĩ nhận lời.

Dược Bất Thị dặn dò mấy câu rồi ra ngoài điều tra. Tôi ở lại khách sạn, bắt đầu đọc cuốn Huyền từ thành giám.

Cuốn này dễ hiểu hơn Tố đỉnh lục, in ấn cũng dễ đọc, thoạt trông đã biết là phiên bản được trau chuốt lại. Lời nói đầu do Dược Tương Tử, ông nội Dược Lai viết, người nhà này đặt tên đúng là kỳ lạ22, đại ý nói rằng cuốn sách này là những kiến thức cốt lõi trong giám định đồ gốm sứ, con cháu nhà họ Dược trước hết phải thành thật ngay thẳng, ghi nhớ lời răn trừ giả giữ thật của tổ tiên, mới có tư cách học tập.

Đây vốn không phải tài liệu nhập môn, không dạy từ cơ sở, ngay mở đầu đã là các loại lý luận giám định và ví dụ thực tế, còn viết bằng văn ngôn. Tôi mất hơn nửa ngày mới đọc qua được một lượt, cảm giác chỉ hiểu lơ mơ. Có lẽ bên trong có rất nhiều điểm quan trọng, nhưng chỉ nhắc qua, cần có thầy chỉ bảo mới hiểu thấu được.

Về phần nạp được bao nhiêu kiến thức vào đầu, rồi lại nhớ được bao nhiêu thì thật khó nói. Tôi đọc đến nhức cả mắt, đành buông sách xuống, đi một vòng quanh phòng, vô tình chân phải đang đi dép lê đá trúng góc tủ kéo, đau đến nghiến răng nghiến lợi. Tôi vội ngồi xuống xô pha, vừa xoa vừa hít hà, buột miệng mắng tủ với chẳng hòm khỉ gì không biết...

Hở? Trong đầu tôi chợt lóe lên một ý nghĩ, cảm thấy cái tên “Dược Tương Tử” trong lời tựa quen quen. Nghĩ kỹ lại thì hình như trong Tố đỉnh lục từng nhắc tới. Cuốn sách ấy là tuyệt học gia truyền, tôi đã thuộc làu như cháo chảy, vội định thần lại, tức thì nhớ ra ngay.

Khi nhắc tới hình dạng cấu tạo các đồ đồng điếu, ông nội Hứa Nhất Thành của tôi còn lưu ý thêm một câu rằng, Huyền môn có một sư thúc tiền bối là Dược Tương Tử, từng so sánh men rạn của gốm sứ với hoa văn rạn trên đồ đồng điếu, nêu ra một quan điểm hết sức mới mẻ, đủ thấy chuyên gia giám định không thể quá chú trọng một môn nào, phải nắm được tất cả tinh túy của các nhà v.v...

Ồ? Hình như sai sai.

Tôi ngẫm kỹ lại mới phát hiện cảm giác sai sai ấy từ đâu ra. Dược Tương Tử là ông nội Dược Lai, mà ông nội tôi là Hứa Nhất Thành lại gọi ông ta là sư thúc Huyền môn. Nói cách khác, ông nội tôi cao hơn Dược Lai, Lưu Nhất Minh, Hoàng Khắc Vũ một bậc. Cứ thế mà suy thì bố tôi bằng vai với ba vị Dược, Lưu, Hoàng kia. Vậy... vậy Dược Bất Nhiên, Dược Bất Thị và Yên Yên, há chẳng phải bề dưới của tôi ư?

Loạn hết vai vế lên rồi...

Minh Nhãn Mai Hoa không có quan hệ huyết thống. Nhưng năm nhà đồng thanh tương ứng, nên rất coi trọng vai vế. Tại sao không ai nói với tôi về chuyện này nhỉ? Chuyện khác không nói, nhưng Yên Yên và tôi đang hẹn hò, đây chẳng phải là chú cháu yêu nhau ư?

Tôi nghĩ mãi, cuối cùng rút ra kết luận: Chắc là ông nội tôi viết lầm, bởi dù sao đó cũng chỉ là bản chép tay. Nếu thực sự chênh lệch vai vế như vậy, những người khác trong Minh Nhãn Mai Hoa đã phải nhắc nhở tôi lâu rồi.

Tôi đọc quá nửa ngày, đang váng đầu hoa mắt thì Dược Bất Thị đẩy cửa bước vào. Nom anh ta mệt mỏi ra mặt, xem chừng hôm nay cũng được phen vất vả. Anh ta đặt chiếc cặp trong tay xuống, thông báo đã điều tra ra chiếc chóe “Ba lần ghé lều tranh” ở đâu rồi.

Tôi vội hỏi ở đâu, Dược Bất Thị cười nhạt đáp, “Kể ra cũng thú vị lắm.”

Thì ra kẻ mượn chóe sứ thanh hoa vẽ tích “Ba lần ghé lều tranh” không phải người nhà họ Dược, mà là nhà họ Thẩm của Thanh môn, còn do chính tộc trưởng Thẩm Vân Sâm mở lời đề nghị. Vì chuyện này mà nhà họ Dược phải triệu tập họp gia đình, cuối cùng nhất trí tạm thời cho mượn. Theo lệ, nhà họ Thẩm đưa đồ thế chấp tới, làm giấy nợ, thậm chí còn đem công chứng, đầy đủ thủ tục.

Thảo nào lúc lẻn vào biệt thự nhà họ Dược, bác hai của Dược Bất Thị lại hậm hực nói người ngoài mượn được, sao người nhà không mượn được.

“Sao Thẩm Vân Sâm lại muốn mượn cái chóe đó?” Tôi hỏi. Thanh môn chuyên về đồ gỗ kia mà, sao lại đi mượn đồ gốm?

Dược Bất Thị đáp, “Thú vị ở chỗ đó đấy. Giờ chẳng phải Minh Nhãn Mai Hoa đang tiến hành thương mại hóa sao? Nhà họ Thẩm là tích cực nhất. Gần đây Thẩm Vân Sâm mở một triển lãm về đồ gia dụng thời Minh Thanh ở Hàng Châu, gióng trống khua chiêng, muốn tiến vào ngành làm đồ gia dụng phỏng cổ, nên đòi mượn chiếc chóe 'Ba lần ghé lều tranh' để bày cho đẹp mắt.”

Xưa nay đồ gốm và đồ gỗ vẫn có quan hệ mật thiết. Việc bài trí đồ gỗ gia dụng cổ đòi hỏi nhiều tinh tế, nếu kết hợp với đồ đồng thì quá âm u, treo tranh chữ cùng lại quá sơ sài, đồ vàng ngọc không thể bày nhiều, chỉ kết hợp với đồ gốm sứ mới là tự nhiên nhất. Trên bàn bày nghiên sứ chén sứ, trên giá bày chóe sứ tượng sứ, lư gốm đặt trên bàn hương, lọ gốm đặt cạnh bình phong, trên giường kê gối sứ, trong tủ để khay sứ. Vì vậy trong giới cổ vật vẫn có câu, “gốm tôn gỗ, gỗ nương gốm”, hai thứ đồ trưng bày, không cái nào tách rời được cái nào.

Nhà họ Thẩm và nhà họ Dược cũng thường xuyên mượn đồ của nhau, lâu dần thành quen, chẳng có gì đáng nghi. Chóe sứ thanh hoa vẽ “Ba lần ghé lều tranh” là báu vật hiếm có, bày ở sảnh triển lãm trông sang cả hẳn lên, đúng là góp thêm không ít thanh thế.

“Ngoài chóe sứ 'Ba lần ghé lều tranh', Thẩm Vân Sâm còn mượn hai mươi mấy món khác, đều là đồ nhà họ Dược sưu tầm. Có lẽ bà ta đã âm thầm đưa ra nhiều điều kiện hấp dẫn nên người nhà tôi mới nhất trí tán thành. Nhưng bà ta cũng chẳng thiệt đi đâu cả, những món đó đều là báu vật giá trị liên thành, giàu tính đề tài, truyền thông chỉ cần khai thác chút chút là có thể thu hút rất nhiều người quan tâm.”

Dược Bất Thị không hiểu về đồ gốm, nhưng lại nắm rõ việc kinh doanh, nhìn qua đã đọc vị được ý đồ của Thẩm Vân Sâm.

Trải qua vụ việc Thanh minh thượng hà đồ, tôi đã thấm thía sức mạnh của giới truyền thông. Trong số những người cùng thế hệ, Thẩm Vân Sâm là người có óc làm ăn nhanh nhạy nhất, bà ta hẳn đã suy tính kỹ càng để phát huy tối đa giá trị của từng món đồ.

“Họ mượn những thứ đó từ khi nào vậy?” Tôi chợt hỏi.

“Nửa tháng trước, giờ chắc đã đưa tới Hàng Châu rồi.”

Ồ, điều này ít nhất có thể chứng minh Lão Triều Phụng không dính dáng gì tới vụ mượn đồ. Nửa tháng trước tôi và Dược Bất Thị còn chưa gặp nhau, càng không biết đến sự tồn tại của năm chiếc chóe vẽ tích cổ. Lão Triều Phụng không thể có tài tiên tri để hỏi mượn chóe khiến chúng tôi vồ hụt được.

Dược Bất Thị gật đầu tán đồng, “Đây cũng chính là nguyên nhân tôi khăng khăng chỉ tin vào những manh mối tự mình tìm được. Cậu cuối cùng cũng bắt đầu suy nghĩ bằng lý trí rồi đấy.”

Hay lắm, đúng là nói xuôi cũng được nói ngược cũng xong.

Sau khi xác định được chuyện Thẩm Vân Sâm mượn chóe không liên quan tới Lão Triều Phụng, những việc tiếp theo hết sức đơn giản. Chúng tôi không cần giành lấy chiếc chóe, chỉ muốn quan sát nó ở cự ly gần nên tới Hàng Châu một chuyến là xong.

“Vậy còn bốn chiếc chóe kia đã biết ở đâu chưa?” Tôi hỏi Dược Bất Thị. Nhà họ Dược quen biết rất rộng trong giới đồ gốm, muốn dò hỏi những tin thế này, đành phải huy động mạng lưới quan hệ của họ.

Dược Bất Thị lắc đầu, “Tạm thời vẫn chưa, nhưng mấy hôm nữa có lẽ sẽ có hồi âm.”

Đã vậy thì phải đi ngay, không thể chậm trễ. Dược Bất Thị lập tức cầm điện thoại lên, nhờ khách sạn đặt cho hai vé máy bay. Vừa hay tối hôm ấy có một chuyến. Hai chúng tôi không dám lề mề, vội vã thu dọn đồ đạc. Tôi rất vừa lòng về hiệu suất công việc hiện tại. Bản thân tôi không# có nhiều tiền dành dụm, may mà được một đồng sự giàu kếch xù, hành động rất tiện.

“Cậu đọc sách thế nào rồi?” Đang dọn đồ, Dược Bất Thị chợt hỏi.

“Đọc xong rồi.” Tôi trả lời cụt ngủn, tránh nhắc tới hiệu quả học tập.

“Cậu tranh thủ mà học đi, tôi linh cảm mấu chốt quyết định thắng bại sau này rất có thể nằm ở những kiến thức chuyên môn về đồ gốm sứ.”

“Nói thì nói vậy, nhưng chuyện này đâu phải ngày một ngày hai mà học được. Chuyên gia người ta một năm xem đến mấy nghìn món, mấy chục năm mới dám nói là giám định, tôi chỉ đọc cuốn sách này, sao bì được với người ta?”

Dược Bất Thị nhíu mày, đoạn giơ tay lên, vẻ giận dữ, “Hứa Nguyện, đây là một cuộc chiến. Những kẻ cà lơ phất phơ nhất định sẽ thất bại.”

Thấy anh ta tỏ ra nghiêm túc, tôi cũng chẳng muốn vuốt râu hùm, vội đáp, “Được rồi được rồi, tôi sẽ cố tranh thủ thời gian nghiên cứu, được chưa nào?” Bấy giờ Dược Bất Thị mới quay đi, tiếp tục xếp va li. Trong va li của anh ta toàn đồ âu phục, chỉ có chiếc áo ngủ kẻ xanh nhạt là ngoại lệ, phải rồi, hình như Cao Hưng vừa mặc chiếc áo này sáng nay.

“À đúng, anh và Cao Hưng rốt cuộc sao rồi?” Tôi bỗng nảy đâu ra tính hóng hớt.

Dược Bất Thị quay lưng về phía tôi, khựng lại một thoáng rồi đáp mà chẳng buồn ngoảnh đầu lại, “Chúng tôi đã là người của hai thế giới, chỉ có thể chúc nhau mọi sự hanh thông thôi.” Tôi tặc lưỡi tiếc nuối, rõ hoài của, Cao Hưng tốt thế cơ mà.

“Người của hai thế giới mà ngủ cùng nhau được à? Anh cố lên, chưa chừng lại cưa đổ được cô ấy lần nữa đấy.” Tôi động viên.

Song Dược Bất Thị gạt phăng, “Lần này đối thủ của chúng ta là Lão Triều Phụng, đừng kéo cô ấy vào.”

“Đúng là đồ ngoan cố.” Tôi chế nhạo. Chẳng hiểu sao tôi bỗng dưng nhớ tới Kido Kana, sau khi cô về nước, chúng tôi không còn giữ liên lạc. Chẳng rõ ở Nhật cô giờ ra sao. Tôi bất giác thẫn thờ nhìn ra cửa sổ, thấy ráng chiều bên ngoài đỏ như máu, gương mặt cô tưởng như đang hiện lên sờ sờ trước mắt tôi.

Lần này đến lượt Dược Bất Thị nhìn tôi, nghi hoặc hỏi, “Không phải cậu cũng định tán Cao Hưng đấy chứ?”

“Anh nghĩ gì vậy?!” Tôi suýt nữa hộc máu.

Chúng tôi thu dọn hành lý đi thẳng đến sân bay, bay từ Bắc Kinh đến Hàng Châu trong đêm. Trên đường cũng không gặp trắc trở gì, đúng là điềm tốt.

Có câu rằng “Trên có thiên đàng, dưới có Tô Hàng”. Thời tiết Hàng Châu ẩm ướt hơn Bắc Kinh nhiều. Tôi vừa bước xuống máy bay đã thấy mũi họng dễ chịu hẳn. Gió mát hây hẩy thổi đến đem theo hơi ẩm, cả người khoan khoái khôn tả. Người xưa đã có thơ rằng, “Gió ấm lâng lâng bước khách qua”, miêu tả thực chỉ lý, đúng là rất dễ lâng lâng.

Với người trong ngành, Hàng Châu là một nơi vô cùng đặc biệt. Từ thời Đường tới thời Tống, từ thời Nguyên Minh tới thời Thanh, cả dải Tô Hàng này đều nức tiếng phú quý phồn hoa, phát triển mạnh đời sống vật chất phong phú tinh tế, là đại diện cho văn hóa Giang Nam. Bởi vậy Hàng Châu là đầu mối cổ vật then chốt trong địa vực văn hóa Giang Nam. Trong đó nhiều nhất là đồ dùng trong sinh hoạt và văn hóa của các danh gia vọng tộc thời Minh, Thanh. Tranh chữ hoành phi, đồ gia dụng gốm sứ, tượng Phật tiền xu, châu báu trang sức, thứ gì cũng vô cùng tinh xảo. Nếu đòi phải đạt đến đẳng cấp cung đình thì có lẽ không nhiều, nhưng mặt bằng chung ắt cao hơn hẳn các khu vực khác, người Giang Nam rất biết hưởng thụ, bằng không sao các vua Chính Đức, Càn Long cứ hở ra là muốn xuống Giang Nam.

Có câu rằng, “Vàng Dự bạc Thiểm gạo Giang Nam”. Hà Nam, Thiểm Tây là những vựa cổ vật, nên được gọi là vàng, bạc; còn gạo Giang Nam tuy rẻ, nhưng lại nhiều, bán được nhiều chưa chắc đã ít lợi nhuận hơn hai nơi trên. Bởi vậy những lái buôn cổ vật giỏi kinh doanh nhất định phải tới Hàng Châu.

Nhà họ Thẩm tổ chức triển lãm đồ gia dụng thời Minh, Thanh thì lựa chọn Hàng Châu thực hợp vô cùng.

Vào đến nội thành Hàng Châu, tôi hỏi Dược Bất Thị, “Làm sao hỏi thăm được nơi tổ chức triển lãm bây giờ?” Dược Bất Thị nhìn tôi đầy thương hại, “Chuyện này còn phải hỏi thăm? Cậu cần rèn luyện óc tư duy nhiều vào.” Đoạn anh ta ghé lại sạp báo ven đường, mua một tờ Báo chiều Sông Tiền số ra hôm nay, ngay bìa bốn có một bài quảng cáo chình ình: “Phong vận thuở xưa - triển lãm đồ quý hiếm và gia dụng thời Minh, Thanh”, địa điểm tổ chức ở trung tâm triển lãm Chiết Giang cạnh Thương Hà Hạ, bắt đầu từ ngày kia.

Dược Bất Thị giũ tờ báo, “Thẩm Vân Sâm tổ chức triển lãm này để tạo thanh thế, nhất định đã vung tiền tuyên truyền qua nhiều kênh, mong được nhiều người biết đến. Nếu chúng ta còn cần cất công nghe ngóng hỏi thăm thì chiến lược truyền thông của bà ta chẳng hóa ra quá thất bại hay sao.”

Tôi thừa nhận anh ta nói có lý, nhưng vẫn nhắc nhở, “Hành tung của chúng ta phải giữ kín đấy. Anh đã nghĩ ra cách làm sao để không đánh động người nhà họ Thẩm mà vẫn đến gần được cái chóe chưa?”

Dược Bất Thị lấy làm khó hiểu nhìn tôi, “Triển lãm mở cửa tự do, ai cũng vào được. Chúng ta mua hai vé rồi vào xem như khách tham quan thông thường không được à?”

Tôi đỏ bừng mặt, quyết định câm nín.

Chúng tôi kiên nhẫn đợi thêm hai ngày. Không được tới vào hôm khai mạc, bởi quá đông người, hơn nữa trong lễ khai mạc, các bề trên của hai nhà Thẩm, Dược nhất định sẽ xuất hiện, chúng tôi rất dễ bị nhận ra. Sang hôm thứ hai khách tham quan đã bớt đông, tinh thần cảnh giác hạ thấp, chúng tôi sẽ dễ bề hoạt động hơn.

Tôi vốn định nhân lúc rảnh rỗi hiếm có này tới bảo tàng Hàng Châu hoặc Tây Hồ du ngoạn một phen. Ngờ đâu dưới sự giám sát của Dược Bất Thị, tôi đành ngoan ngoãn ngồi trong khách sạn, tiếp tục vùi đầu đọc Huyền từ thành giám.

Tin về lễ khai mạc triển lãm được phát trên ti vi, quy mô có vẻ rất rầm rộ. Cờ đỏ phấp phới, chiêng trống rộn ràng, các cấp lãnh đạo thành phố Hàng Châu đều tham dự, thị trưởng còn lên phát biểu một bài. Thẩm Vân Sâm đứng bên cạnh, vỗ tay không ngớt, vẻ mặt rạng rỡ. Bà ta là người tích cực hưởng ứng việc Minh Nhãn Mai Hoa chuyển sang thương mại hóa nhất, cũng là người đầu tiên được hưởng trái ngọt từ đó.

Có điều tôi nhìn lướt một vòng theo ống kính máy quay mà không thấy ông Lưu Nhất Minh. Lý ra là chưởng môn Minh Nhãn Mai Hoa, lại là người đứng sau xúc tiến việc thương mại hóa, ông cụ nên xuất hiện trong dịp trọng đại này mới phải. Thiết nghĩ có lẽ do tuổi tác đã cao, những người già thế hệ đó đều từ từ lùi khỏi vũ đài này, năm tháng chẳng tha người.

Bản tin chỉ ngắn ngủi hai mươi mấy giây, tôi vừa xem xong thì Dược Bất Thị quay về, còn xách theo hai bộ đồ đại cán mới mua: một chiếc màu xám nhạt, một chiếc xanh sẫm.

“Sáng mai ta mặc hai bộ này đi, sẽ không bị phát hiện đâu.”

“Hay lắm, mặc bộ này vào trông phải già đi mười tuổi là ít.” Tôi lầu bầu rồi chọn ngay bộ màu xám nhạt, “Nếu anh kiếm thêm được cái mũ nồi thì trông giống hệt cán bộ chính trị.”

Chưa nói dứt câu, Dược Bất Thị đã lấy trong túi áo ra hai chiếc mũ nồi xám tro, làm tôi tái mặt.

Hôm sau, từ sáng sớm chúng tôi đã đến trung tâm triển lãm Chiết Giang, xếp hàng đợi vào xem triển lãm.

Trung tâm triển lãm Chiết Giang được xây phỏng theo đại lễ đường Nhân dân Bắc Kinh, có một sảnh chính, hai sảnh phụ, tổng cộng ba tầng, bố cục đối xứng, cao rộng, hai mặt Nam Bắc đằng trước và sau có hai quảng trường thênh thang, bề thế nguy nga. Trên đường đi nghe tài xế nói, trung tâm triển lãm này hoàn công vào cuối những năm 60, bấy giờ tên gọi rất dài, “Trung tâm triển lãm Tư tưởng Mao Trạch Đông mặt trời đỏ trong lòng chúng ta thắng lợi vạn tuế”. Vì cái tên này quá dài nên người Hàng Châu thường gọi tắt là trung tâm Vạn Tuế.

Trên nóc trung tâm triển lãm ban đầu còn một kỷ niệm chương Mao Trạch Đông cực lớn với gác chuông phía sau. Cứ m?