← Quay lại trang sách

Chương 4 TÌM HIỂU NGỌN NGUỒN

Biến cố bất ngờ này khiến tất cả mọi người đều đờ ra.

Kẻ gần Dược Bất Thị nhất là tôi bước lên hai bước, giày da giẫm lên những mảnh sứ to có nhỏ có thành tiếng lạo xạo, tâm trí trống rỗng.

Chóe sứ thanh hoa quý giá nhường ấy bị rơi vỡ rồi sao? Không phải do Vương Tiểu Mao hay người của Lão Triều Phụng, mà lại do chính Dược Bất Thị, mỉa mai làm sao!

Tôi cố nén kinh hãi, cúi xuống toan đỡ anh ta dậy. Hai tay Dược Bất Thị bị mảnh sứ sắc nhọn cứa lênh láng máu, kính cũng văng ra xa, đầu tóc bù xù, nhưng vẻ mặt anh ta không mảy may kinh hoảng, trái lại như một ngọn giáo vừa tuốt vỏ, sắc bén mà tàn độc.

Còn chưa đứng vững, Dược Bất Thị đã siết chặt cánh tay tôi, gấp gáp nói, “Mặc tôi, cậu mau đi đi. Nhớ giao ước đấy.” Đoạn anh ta giơ tay phải, dúi thứ gì đó vào lòng tôi, ánh mắt đầy nghiêm nghị.

Tôi đang cuống cả lên, bị anh ta trừng mắt nhìn liền tỉnh táo hẳn, nhớ lại giao ước chứng tôi đã đặt ra ở Vệ Huy: “Chỉ cần bắt được Lão Triều Phụng, thì dù phải trở thành vật hy sinh cho người kia, cũng không hối tiếc.”

Thực không ngờ lại phải thực thi giao ước ấy nhanh như vậy.

Dược Bất Thị thình lình đẩy phắt tôi ra, quay người chạy vụt đi, tay nhân viên kinh doanh và hai bảo vệ hối hả đuổi theo. Tôi định thần lại, nhân lúc sơ hở chạy thẳng về hướng còn lại.

Còi báo động trong sảnh triển lãm réo vang, có tiếng giày da dồn dập chạy trên sàn nhà. Chẳng bao lâu sau chuông báo động cũng reo inh ỏi cả gian sảnh. Bảo vệ và nhân viên tràn vào, quát tháo hò hét, mấy lối cổng ra đều có người canh giữ, may nhờ phù hiệu thủ kho, lại không mang gì trên người nên tôi chuồn ra ngoài suôn sẻ.

Tôi chẳng dám nấn ná lâu, chạy thẳng một mạch 250 mét, chui tọt vào ngõ nhỏ rồi mới dám dừng chân, thở hồng hộc.

“Chắc giờ Dược Bất Thị bị bắt rồi nhỉ?” Tôi ngoái lại, thấy trung tâm triển lãm Chiết Giang phía xa đèn đuốc sáng choang, bóng người nhốn nháo. Trong đó chẳng có mấy chỗ lẩn trốn, Dược Bất Thị lại cao kều như thế, hẳn không cách nào thoát nổi tầng tầng lớp lớp truy đuổi lục soát.

Vừa rồi rốt cuộc là sao nhỉ? Tôi tận mắt chứng kiến, Dược Bất Thị chỉ chạm nhẹ vào chiếc chóe, sao lại xô đổ nó được? Bệ đỡ chiếc chóe vẫn được gắn chặt vào giá, bản thân cái chóe cũng to bè thấp tịt, dẫu cố tình xô, cũng chưa chắc đã rơi vỡ được.

Nhưng sự thực rành rành trước mắt, sự cố bất ngờ này đã xáo trộn tất cả kế hoạch của chúng tôi.

Để tôi có cơ hội chạy thoát, Dược Bất Thị đã chủ động dẫn dụ tất cả bảo vệ và nhân viên triển lãm đuổi theo mình. Không, thực ra anh ta nào có để tâm đến an nguy của tôi, cái anh ta quan tâm là tôi có bắt được Lão Triều Phụng hay không.

Nghĩ đến đó, tôi sực nhớ ra thứ anh ta dúi cho mình. Vội cúi đầu rút nó ra xem dưới ánh đèn đường.

Đó là một mảnh sứ, to hơn lòng bàn tay, hình ngũ giác méo mó, mép lởm chởm vết mẻ mới, rõ ràng là mảnh vỡ từ chiếc chóe “Ba lần ghé lều tranh” được Dược Bất Thị nhặt dưới đất. Tôi nhìn kỹ lại, thấy trên mảnh sứ còn có hình vẽ, tuy không đầy đủ, nhưng có thể nhận ra là một phần trên cơ thể Gia Cát Lượng, ống tay áo dài bên trái, phía trên có một vệt trắng mà chúng tôi hằng kiếm tìm.

Giữa lúc ngã nhào, Dược Bất Thị vẫn kịp nhận ra đây là cơ hội tốt để thó mảnh sứ có vệt trắng. Đáng sợ hơn là, anh ta vừa ngã xuống đống mảnh sứ đã nhặt trúng nó ngay. Thế vẫn chưa là gì, kinh khủng nhất là vừa được tôi đỡ dậy, anh ta đã quả quyết đưa ra quyết định hy sinh bản thân, để tôi có thể đem mảnh sứ này rời khỏi trung tâm triển lãm một cách an toàn. Anh ta chẳng cần tôi đến cứu, chỉ cần tôi mau bắt được Lão Triều Phụng.

Con người này... Tôi chẳng biết phải nhận xét ra sao nữa, thâm tâm vừa nể phục lại vừa kính sợ. Anh ta phản ứng quá nhanh, cũng quá tàn nhẫn với bản thân.

Tôi siết chặt nắm tay, lòng bàn tay ấn vào cạnh sứ sắc, bị cắt đau âm ỉ. Chúng tôi trăm phương ngàn kế tìm cách quan sát vệt trắng trên chóe, nhưng chẳng ngờ lại phải trả cái giá thê thảm đến thế này. Một báu vật hiếm có bị hủy hoại, một người bị bắt giam.

“Không được không được, Dược Bất Thị hy sinh bản thân, không phải để mình ngồi đây buồn bã vẩn vơ!” Tôi hạ mảnh sứ xuống, tát mạnh vào má rồi đi thẳng về phía đầu kia con ngõ, cố không ngoái lại nhìn trung tâm triển lãm Chiết Giang.

Giờ không phải lúc cảm khái. Bất luận thế nào tôi cũng phải tiếp tục điều tra việc này, quyết không bỏ cuộc.

Người nhà họ Hứa chúng tôi chỉ hơn người ta ở tính cố chấp ấy mà thôi.

Chắc chắn không thể quay về khách sạn, họ lục soát được chứng minh thư của Dược Bất Thị, ắt sẽ lần ra chỗ anh ta lưu trú. Tay nhân viên kinh doanh biết chúng tôi có hai người, nhất định cảnh sát sẽ truy lùng tôi khắp nơi. Dĩ nhiên Dược Bất Thị sẽ khăng khăng rằng mình lỡ tay làm vỡ, để tôi khỏi rơi vào vòng tình nghi, nên khả năng tôi bị bắt sẽ không cao, nhưng cũng khó tránh phải lấy lời khai các thứ. Chỉ cần tôi tới đó, ắt sẽ bại lộ thân phận.

Tôi bèn ghé vào một cửa hàng quần áo ven đường, mua một chiếc áo khoác và đôi giày thể thao thay cho bộ đồ cán bộ kia. Sau đó tôi lấy chứng minh thư giả do Dược Bất Thị chuẩn bị sẵn - anh ta đã suy xét đến tất cả các tình huống - tìm một nhà trọ bình dân thuê phòng.

Mãi đến khi chui vào căn phòng trọ, tôi thở hắt ra một hơi dài, bấy giờ dạ dày mới bớt đau thắt. Tôi đi tắm, rót một cốc nước ấm đặt lên tủ đầu giường rồi vặn to đèn ngủ, nằm xuống giường, rút mảnh sứ ra.

Dược Bất Thị từng nói, “Mấu chốt quyết định thắng bại sau này rất có thể nằm ở những kiến thức chuyên môn về đồ gốm sứ.” Hiện giờ tôi đã nắm được manh mối duy nhất, cần phải hết sức bình tâm để suy xét.

Trước tiên tôi nhắm hờ mắt lại, cố gạt mọi tác động bên ngoài ra khỏi tâm trí, tựa hồ quay trở lại những tháng ngày dập bia ở núi Tử Kim. Trên đời chẳng còn Lão Triều Phụng, anh em họ Dược hay ân oán của Minh Nhãn Mai Hoa nữa. Chỉ có mảnh sứ trước mặt và bản thân tôi thôi.

Một phút sau, tôi từ từ mở mắt ra, bao nôn nóng đã tan biến cả. Lúc này tâm trí tôi chẳng còn gì khác, hoàn toàn tập trung vào mảnh sứ trong tay.

Tôi đã thấy rất nhiều mảnh gốm sứ vỡ, nhưng đây là lần đầu chứng kiến quá trình một báu vật từ chỗ nguyên vẹn đến chỗ vỡ nát. Cứ nghĩ trên đời vừa mất đi một món đồ sứ quý giá, tôi lại thấy tiếc nuối khôn cùng.

Dù mảnh sứ này không còn hoàn chỉnh, song vẫn đẹp mê người. Tôi đặt nó dưới ánh đèn, ngắm đi ngắm lại. Lúc trước tuy đã nhìn, nhưng trong thời gian ngắn ngủi chẳng thể nào ngắm kỹ, lần này cuối cùng tôi cũng được quan sát ở cự ly gần, có thể nhận ra rất nhiều chi tiết.

Theo phán đoán của kẻ gà mờ như tôi, mảnh sứ có lẽ được vẽ bằng men cô ban thượng hạng nên sắc xanh biếc đậm đà, trong veo óng ánh dưới đèn, chẳng khác nào đá quý. Chẳng trách lắm kẻ điên đảo tâm thần vì đồ gốm sứ, sức hút của nó thực sự quá ghê gớm.

Bột màu cô ban vốn có nguồn gốc từ Qamsar, Kashan, Ba Tư. Là một loại bột màu có hàm lượng mangan thấp và sắt cao, phối hợp với bất cứ loại men sứ nào cũng có thể tạo ra màu xanh lam. Màu sắc bột cô ban đẹp như lam ngọc vậy, rất bắt mắt, đến giờ vẫn chưa ai mô phỏng được y hệt. Bởi vậy màu xanh cô ban là một dấu hiệu tuyệt vời để phân biệt thật giả, dựa theo đó mà suy đoán hầu như trúng phóc.

Thế nên từ cuối thời Nguyên, Trung Quốc đã bắt đầu nhập bột màu cô ban để vẽ hoa văn trên đồ gốm sứ. Về sau Trịnh Hòa đi Tây dương, mang về một lô bột màu thượng hạng từ Samarra, Iraq, nên sứ thanh hoa lò nhà quan thời Vĩnh Lạc, Tuyên Đức đều dùng loại men này. Tiếc rằng từ sau thời Thành Hóa không nhập được số lượng lớn như vậy nữa nên các lò gốm nhà quan đổi sang dùng bột màu xanh nhập từ Tây Vực hoặc hàng quốc nội, đồ gốm xanh cô ban chỉ còn vài món lẻ tẻ, không được sản xuất với số lượng lớn như xưa.

Chiếc chóe “Ba lần ghé lều tranh” này thể hiện rất rõ đặc trưng điển hình của bột màu cô ban, song ở đáy lại đề chế tác dưới thời Vạn Lịch Đại Minh, chứng tỏ nó không phải hàng giả, mà là món đồ sứ thanh hoa hiếm hoi dùng bột màu cô ban dưới thời Vạn Lịch. Nếu muốn làm giả, chẳng bằng viết quách niên đại là thời Vĩnh Lạc, Tuyên Đức có phải hơn không.

Trên mảnh sứ này vẫn còn quá nửa ống tay áo trái của Gia Cát Lượng. Tay trái Gia Cát Lượng hơi gập lại, tạo thành mấy nếp gấp nơi khuỷu tay, họa sĩ đã đi màu rất kỹ chỗ này, men đắp có vệt loang, sờ tay lên có thể cảm giác được lớp men lồi lõm, tạo hiệu ứng nổi khối. Tôi gí mắt lại gần quan sát, thấy sắc xanh nổi hẳn lên mặt men, tạo thành vệt đen rõ rệt ở khuỷu tay nhân vật.

Vậy mới đúng, tôi vẫn luôn tìm kiếm thứ này. Bấy giờ kỹ thuật nghiền còn chưa phát triển, hạt bột màu còn khá to, lại không đều. Lúc vẽ họa sĩ chỉ cần hơi dừng bút, hoặc vận lực không đều, bột màu cô ban có hàm lượng sắt khá cao, một khi nổi lên mặt men sẽ bị oxy hóa, tạo thành vệt men đọng như gỉ sắt. Trong giám định gọi đó là “ánh thiếc”, một trong những đặc điểm nhận biết bột màu cô ban.

Đây cũng là những kiến thức trong Huyền từ thành giám được tôi học đi đôi với hành. Cầm một món hàng thật trong tay, vừa xem vừa kiểm chứng những kiến thức trong sách, hiệu quả hơn chỉ đọc sách suông nhiều, có rất nhiều kiến thức tôi vốn không nhớ nổi, giờ đã thông suốt cả.

Chỉ một mảnh sứ vỡ đã hiệu quả như vậy. Huống chi nhà họ Dược sưu tầm bấy nhiêu đồ thượng hạng, từ nhỏ mắt thấy tai nghe tay sờ nhiều, chẳng trách ai ai cũng là chuyên gia đồ gốm.

Tôi nhìn lại mảnh sứ lần nữa, cuối cùng cũng trông thấy vệt trắng mình tìm kiếm bấy lâu. Nó chạy dọc theo nếp tay áo của Gia Cát Lượng chừng 8 xăng ti mét, như một sợi bông trắng lòi ra. Vì khuỷu tay Gia Cát Lượng gập lại ở chỗ đó nên màu đọng khá đậm, vệt trắng này lõm xuống, sờ vào cảm giác như một rãnh nông giữa lớp men đậm gồ lên.

Tôi không có kính hiển vi nên không sao phân tích được cấu tạo thành phần của nó. Sờ tay chỉ thấy chất men bên mép vệt trắng khá nhẵn, không rõ vết lởm chỏm, chứng tỏ vệt trắng này không phải bị xước mà trước khi nung đã có rồi.

Còn về phần tại sao lại như vậy thì tôi không rõ.

Tôi xem đi xem lại mấy lần, mãi không hiểu nổi. Nhìn vệt trắng này cứ như bị người ta dùng móng tay cào ra, có bí hiểm đến đâu cũng chỉ là một vệt trắng, không phải chữ khắc cũng chẳng phải hoa văn, rốt cuộc nó có ý nghĩa gì nhỉ, chắc không phải để đánh dấu chứ?

Huống hồ niên đại của chiếc chóe này không phải đầu Minh thì là cuối Nguyên, vệt trắng chắc chắn đã có từ khi nung, vì sao lại thành cái gai trong mắt Lão Triều Phụng? Chẳng lẽ lão ta là quái vật sống từ thời Minh đến giờ?

Tiếc rằng giám định cổ vật xưa nay không có đáp án chuẩn mực, mà phải do chính bản thân tìm tòi nghiền ngẫm. Đây là điểm công bằng nhất, song cũng khó khăn nhất. Dường như tôi đã bị mảnh sứ này dồn vào đường cùng rồi.

Không được, khác nghề như cách núi. Vì nước đến chân mới nhảy nên có rất nhiều bí mật về đồ gốm sứ tôi không sao hiểu nổi. Bắt một kẻ ngoại đạo như tôi phá giải bí ẩn này, thật quá khó. Giờ tôi chỉ giận nỗi trong Huyền từ thành giám không có sẵn câu trả lời để tôi chép bài luôn cho rồi.

Tôi đang chăm chú nghiên cứu thì bên ngoài chợt có tiếng loảng xoảng, tiếp đó là một tràng tiếng cãi cọ ầm ĩ, kéo tôi trở lại với hiện thực. Tôi giấu mảnh sứ xuống dưới gối rồi áp tai vào cánh cửa nghe ngóng. Hình như trẻ con nhà nào đánh đổ phích nước nóng nên người lớn hai nhà bắt đầu cãi qua cãi lại.

Thấy không phải cảnh sát tìm mình, tôi mới yên tâm.

Hôm nay nghiên cứu mãi chưa thu được kết quả gì, song những thứ này không phải cứ thức đêm ngẫm nghĩ mà ra được. Tôi ngáp dài, chuẩn bị đi ngủ. Trước khi ngủ tôi còn nhìn ra ngoài cửa sổ, thầm nghĩ chẳng biết bây giờ Dược Bất Thị... có ổn không? Tôi không hiểu nhiều về luật pháp, có điều chiếc chóe kia dù sao cũng là của nhà họ Dược, Dược Bất Thị lại là con cháu họ Dược, chỉ cần nhà họ không truy cứu, chắc cũng chẳng sao đâu nhỉ?

Giấu mảnh sứ đi rồi, tôi rón rén nằm xuống giường. Đám người lớn bên ngoài vẫn cãi nhau ỏm tỏi, đứa bé kia òa lên khóc nức nở, ầm ĩ cả hành lang, đúng là đáng ghét. Giá có Trương Liêu25 ở đây thì tốt, bảo đảm trẻ nhỏ nín khóc ngay.

Trẻ con khóc... Hở? Tôi đang nằm trên giường, chợt vỗ tay đánh đét.

Đúng rồi! Còn Vương Tiểu Mao nữa!

Giờ tôi đang tắc tị không sao lần ra manh mối từ mảnh sứ, nhưng vẫn có thể điều tra từ Vương Tiểu Mao. Nó bị người ta xúi xô đổ chóe, chưa biết chừng hỏi dò nó lại thu được gì đó.

Ban đầu chúng tôi vốn không định lần theo manh mối này, song giờ nó đã trở thành một hướng đột phá mới. Tôi vẫn nhớ kỹ quy tắc Dược Bất Thị đề ra, chỉ tin vào manh mối mình tự khai thác được, manh mối này hợp tiêu chuẩn.

Đã có hướng điều tra, tôi lại bắt đầu ngẫm nghĩ xem ngày mai nên hành động thế nào để khỏi xảy ra sơ sót. Kể cũng lạ, tuy tôi vừa thoát khỏi trạng thái chuyên tâm giám định mảnh sứ, song vẫn giữ được sự tập trung, không mảy may nôn nóng. Tôi như thể chỉ là một người ngoài cuộc, lạnh lùng khách quan đánh giá bản thân hệt như đang giám định một món văn vật. Gạt sang bên tất cả cảm xúc, chỉ còn lại những tính toán và quan sát thuần túy nhất.

Có lẽ chỉ những chuyên gia giám định nổi tiếng mới có thể đặt mình vào trạng thái này bất cứ lúc nào. Nghe nói có hai cảnh giới cao siêu trong giám định, một là tâm vô ngoại vật (không để vật và việc bên ngoài làm xáo động tâm trí), hai là tâm ngoại vô vật (nhận thức được vật và việc bên ngoài đều thuộc về thế giới chủ quan trong tâm trí). Thoạt trông chỉ là đảo chữ, nhưng hàm ý bên trong lại khác hẳn nhau. Nhờ cơ duyên đưa đẩy, tôi tạm coi như mấp mé ngoài rìa cảnh giới thứ nhất, còn cảnh giới thứ hai vẫn cách xa lắc.

Trong Huyền từ thành giám có nói: “Dựa vào đó, thì thiên hạ chẳng có chuyện gì không thành được; vận dụng nó, thì thế gian chẳng có vật gì không giám định được.” Đạo lý này đúng là càng nghe càng thấy huyền ảo.

Tôi nhẩm đi nhẩm lại tâm vô ngoại vật, tâm ngoại vô vật, không ngờ lại phát huy tác dụng thôi miên, chẳng mấy chốc đã ngủ thiếp đi...

Sáng sớm hôm sau, tôi tìm đến trường Vương Tiểu Mao. Hôm qua tôi đã nghe cô giáo thằng bé nhắc đến tên trường, hỏi thăm một chút là ra ngay địa chỉ. Trên đường đi, tôi mua một tờ báo, chẳng hề thấy nhắc nửa chữ tới biến cố đêm qua.

Chuyện này cũng dễ hiểu thôi, phải đặt “xã hội ổn định” lên hàng đầu mà. Triển lãm cấp cao được các cấp lãnh đạo thành phố quan tâm lại bị phần tử tội phạm đập vỡ món văn vật quý giá nhất, tin này mà đưa rùm beng thì còn ra sao. Khách đến tham quan triển lãm đều là dân thường, thêm hay bớt một chiếc chóe họ cũng chẳng biết được, đâu cần bới ra khiến lòng người xáo động.

Với tôi đây là một tin tốt, ít nhất cũng giúp giảm bớt áp lực.

Tôi đến trường Vương Tiểu Mao, xin gặp đích danh cô giáo thằng bé. Cô giáo có vẻ rất căng thẳng, tưởng tôi là thanh tra phòng Giáo dục. Tôi không nói dối, song cũng chẳng làm rõ, cứ để cô ta hiểu lầm như vậy lại dễ làm việc hơn. Tôi chỉ nói muốn tìm Vương Tiểu Mao để hỏi vài chuyện.

Cô ta liền gọi Vương Tiểu Mao đến văn phòng, lừ mắt nhìn thằng bé rồi nói: “Tôi phải lên lớp đây, anh cứ từ từ hỏi chuyện em ấy.”

Thoạt trông thấy tôi, Vương Tiểu Mao rụt ngay cổ lại, cúi gằm mặt xuống, đứng trước bàn trông như con chim cút. Tôi cũng chẳng nỡ dọa dẫm nó, tươi cười hỏi lại một lượt xem kẻ xúi bẩy nó xô đổ chóe trông như thế nào.

Lời kể của Vương Tiểu Mao vẫn như hôm qua, song cũng có thêm đôi chỗ khác biệt, điều này chứng tỏ nó không nói dối, cũng không học thuộc lòng câu trả lời.

Tôi lại hỏi, “Robot biến hình người đó cho cháu trông thế nào?”

Vương Tiểu Mao sáng mắt lên, như được gãi đúng chỗ ngứa. Nó kể đó là thủ lĩnh trong bộ phim hoạt hình Robot biến hình: Kẻ đầu não mới chiếu gần đây, tên là Big Mac Ford, có thể biến từ hình người thành một căn cứ hàng không vũ trụ. Con robot này lắp vào phải cao đến 50 xăng ti mét, cực xịn, đám con trai thằng nào cũng sốt lên vì nó.

Có điều theo lời Vương Tiểu Mao, con robot Big Mac Ford này rất đắt, phải đến năm trăm năm mươi tệ. Tôi hít vào một hơi, nếu là đồ chơi thì đắt quá. Nhưng nghĩ lại thì món đồ chơi đắt như thế, các tiệm bán đồ chơi bình thường chắc chắn sẽ không nhập. Kẻ xúi bẩy Vương Tiểu Mao chắc cũng chẳng hơi đâu mua từ Bắc Kinh hay Thượng Hải tới, hẳn là mua ngay ở đây thôi.

Tôi bèn hỏi Vương Tiểu Mao, loại robot này có thể mua ở đâu. Nó mách, cả Hàng Châu chỉ có cửa hàng Bách hóa số 1 mới có một con, mỗi khi rảnh rỗi nó ra đấy ôm tủ quầy ngắm nghía cho bõ thèm.

Tôi hỏi địa chỉ cụ thể rồi đứng dậy định đi. Vương Tiểu Mao rụt rè ngước lên nói, “Chú đừng kể với cô giáo cháu nhé?” Tôi dừng bước, nhìn xuống thấy chiếc giày thể thao trắng của nó đã cũ sờn cả mép, chợt chạnh lòng thương cảm.

Thằng bé này vốn không phải hạng hư hỏng, chẳng qua thiếu người kèm cặp dạy dỗ. Cô giáo kể rằng mẹ nó mất sớm, bố làm tài xế xe tải, đi vắng quanh năm. Tôi cũng mồ côi cha mẹ từ năm mười mấy tuổi nên rất hiểu hoàn cảnh của nó. Tôi ngồi xuống, nhìn thẳng vào mắt Vương Tiểu Mao, hiểu những đứa bé như nó có lòng tự trọng rất cao, điều chúng cần nhất không phải đồ chơi, mà là được tôn trọng.

“Chú không kể với cô giáo đâu, vì chú tin cháu là đứa trẻ ngoan. Nhưng cháu không được làm chuyện xấu đâu đấy, ai cho gì cũng không được làm, hiểu chưa?”

Vương Tiểu Mao gật đầu lia lịa.

Tôi nhìn sâu vào mắt nó, thấy có vẻ chân thành, liền nói thêm, “Trưa nay tan học, cháu đi với chú đến quầy bán đồ chơi Bách hóa số 1 được không?”

Vương Tiểu Mao mắt sáng lên đầy hào hứng, dõng dạc đáp, “Vâng ạ!”

Buổi trưa, Vương Tiểu Mao dẫn tôi đến thẳng Bách hóa số 1 như đã hẹn. Bách hóa số 1 là trung tâm mua sắm nhộn nhịp nhất Hàng Châu, đang giữa trưa ngày thường mà vẫn rất đông đúc. Gian hàng đồ chơi nằm ở tầng năm, Vương Tiểu Mao thoăn thoắt dẫn đường, chẳng mấy chốc đã đến nơi.

Trong quầy hàng bày la liệt đồ chơi trẻ con đang thịnh hành, một đám nhóc đang xúm xít trước tủ kính robot biến hình, nói cười í ới. Vương Tiểu Mao chen vào xem rồi lại chui ra bảo tôi, “Big Mac Ford hết mất rồi.”

Ừm, quả như dự liệu. Tôi chen vào trước quầy hàng, cúi đầu hỏi Vương Tiểu Mao, “Ngoài Big Mac Ford ra, cháu thích con nào nữa?” Vương Tiểu Mao đáp ngay không chút do dự, “Optimus Prime!”

Tôi móc ví ra, nói với cô bán hàng, “Đồng chí lấy hộ tôi một con Optimus Prime, đúng rồi, con to nhất ấy!”

Trong ánh mắt ghen tị của lũ trẻ xung quanh, tôi đón lấy chiếc hộp to từ tay cô bán hàng, đưa cho Vương Tiểu Mao. Vương Tiểu Mao vui sướng đến tròn xoe cả mắt, ôm khư khư con Optimus Prime, chẳng biết phải nói gì nữa.

“Chú tặng cháu đấy.” Tôi cười, dựa vào tủ quầy, bắt đầu chuyện phiếm với cô bán hàng. Cô ta còn khá trẻ, thấy tôi rộng rãi nên cũng vui vẻ tiếp lời. Tán gẫu một hồi, tôi mới ra bộ tiếc rẻ, “Ai dà, thằng bé thích nhất là Big Mac Ford cơ, tiếc rằng chỗ các cô bán mất rồi.”

Cô bán hàng nghe vậy liền tặc lưỡi đáp, “Món đồ chơi đó đắt quá nên cửa hàng chỉ nhập đúng một con, trước giờ cũng chẳng ai hỏi mua. Tự nhiên hai hôm trước có người đến, hỏi cái mua luôn. Mọi người ở đây còn xôn xao bàn tán mãi.”

“Mua được thứ đắt đỏ như thế chắc không phải người thường đâu nhỉ, trông thế nào vậy?”

Cô bán hàng nghiêng đầu ngẫm nghĩ, tả đó là một người ngoài năm mươi, mắt tròn má hóp, trán dô ra, đầu như quả dưa úp ngược, nhưng tóc lại chải gọn gàng. Miêu tả của cô ta cũng gần giống với lời Vương Tiểu Mao, chỉ là chi tiết hơn.

Người đó có vẻ cũng chẳng biết robot biến hình là gì, vừa đến đã hỏi món gì đắt nhất, cô bán hàng trả lời xong, ông ta móc ví ra mua ngay. Tôi hỏi người đó có để lại tên họ không, cô ta đáp không, nhưng có viết một hóa đơn. Tôi sáng mắt lên, hỏi có thể cho tôi xem cuống hóa đơn không, tôi rất tò mò không biết đơn vị nào hào phóng đến mức chịu thanh toán khoản này.

Cô bán hàng tỏ vẻ không vui, nói rằng theo quy định khách hàng không được xem sổ sách. Nhưng tôi dù sao cũng lăn lộn kiếm cơm trong giới cổ vật, giỏi nhất là phỉnh phờ người khác. Chỉ đôi ba câu, cô bán hàng đã bị tôi thuyết phục, quay ra đằng sau tủ quầy lật tìm cuống hóa đơn hôm trước, thấy bên trên viết tên công ty thương mại Ngân Chu.

Biết được tên công ty thì những việc tiếp theo chẳng khó khăn gì. Tôi tới Sở Công thương bản địa, chẳng bao lâu sau đã lấy được địa chỉ đăng ký của công ty Ngân Chu. Sau đó tôi tìm tới tận cửa công ty nọ. Đó là một tòa nhà ba tầng theo kiểu Liên Xô, bên ngoài dây leo bò kín tường, cánh cửa chính đã khá cũ, bên cạnh treo biển Công ty thương mại Ngân Chu.

Tôi quan sát một lúc lâu, không hùng hổ xông vào mà lùi lại, bảo Vương Tiểu Mao nấp gần đó, nhìn kỹ từng người ra vào công ty. Có thể nó không miêu tả được tướng mạo kẻ đã xúi bẩy mình, nhưng nếu trông thấy ắt sẽ nhận ra.

Dặn dò xong, tôi lẳng lặng lẻn ra phía sau, quả nhiên tìm thấy nút báo cháy sơn đỏ rực ở cửa sau.

Dạng nhà tầng kiểu này tôi nắm rõ như lòng bàn tay vì hồi nhỏ thường tới chơi. Đây là kiến trúc viện nghiên cứu kiểu Liên Xô điển hình, chuyên dành cho nhân viên nghiên cứu cấp cao nên an ninh rất tốt, thông thường đều lắp hệ thống báo cháy. Nút báo cháy này phải ấn mới được, hồi nhỏ tôi nghịch ngợm đã lén ấn thử một lần, khiến mọi người trong khu nhà hoảng hồn chạy túa ra ngoài còn mình cười ngặt nghẽo. Vì chuyện này mà tôi bị một trận đòn no.

Hàng Liên Xô có đặc điểm nồi đồng cối đá, phải tội không được đẹp mã, song chỉ cần không có kẻ cố tình phá hoại thì dù không bảo dưỡng cũng vẫn vận hành được.

Tôi giơ tay ấn nút, tức thì chuông báo cháy réo vang khắp ba tầng, chói cả tai. Chẳng mấy chốc tôi đã nghe thấy tiếng chân chạy nhốn nháo, rồi cả đám người túa ra ngoài.

Tôi thản nhiên vòng lại cửa trước, đến cạnh Vương Tiểu Mao.

Vương Tiểu Mao được cho con robot Optimus Prime thì đổi ngay thái độ, nghe lời tôi răm rắp. Nó chấp hành nhiệm vụ tôi giao vô cùng nghiêm chỉnh, như một đội viên thiếu nhi đầy trách nhiệm, mở to mắt nhìn chằm chằm từng người chạy ra ngoài.

Nhân viên trong khu nhà cũng không đông lắm, chỉ thấy khoảng hai ba chục người chạy ra, đủ cả nam nữ già trẻ. Vương Tiểu Mao quan sát kỹ từng người, chợt sáng mắt lên, giơ tay chỉ, “Ông ta kìa!”

Tôi nhìn theo tay nó, thấy một ông già ngoài năm mươi lẫn trong đám người, quay lưng lại phía chúng tôi. Lưng ông ta hoi khòm, nhưng dáng người khá cao, đội một chiếc mũ nồi, cổ hơi nghiêng sang phải theo thói quen, nom có vẻ trí thức.

“Có chắc không đấy?” Tôi cảm thấy bóng người kia quen quen.

“Không sai đâu, chính ông ta đấy ạ!” Vương Tiểu Mao quả quyết.

Tôi đang vắt óc nghĩ xem rốt cuộc mình đã gặp người này ở đâu thì vừa hay ông ta từ từ quay lại, thoạt trông thấy gương mặt ấy, tôi bỗng đờ ra như bị sét đánh.

Giáo sư Trịnh ư?

Sao... lại là ông ta?

Giáo sư Trịnh không biết tôi nấp trong lùm cây, đưa tay phải đẩy gọng kính, ngẩng đầu nhìn lên theo những người khác, muốn xem xem lửa cháy ở đâu. Nách trái ông ta còn cắp cặp táp da bò, tôi rất ấn tượng với chiếc cặp da bò nọ, bởi nó to hơn bình thường, ở góc còn có dây nịt màu bạc, cùng hai vệt cháy sém.

Giáo sư Trịnh rất thích chiếc cặp này, nghe nói là phần thưởng công nhân viên tiên tiến năm nào đó của cơ quan, còn từng cứu mạng ông ta. Đi đâu ông ta cũng mang theo, nên tôi không thể nhận lầm được.

Thấy tôi trầm ngâm không nói, Vương Tiểu Mao tưởng tôi không nghe thấy liền nhắc lại. Tôi chậm rãi ngẩng lên hỏi nó, “Chuyện này rất quan trọng, chú phải hỏi lại cháu lần nữa. Có phải chính người này đã bảo cháu xô đổ chiếc chóe trong triển lãm không?”

Vương Tiểu Mao ngỡ tôi không tin nó thì cuống cả lên, nghển cổ đáp, “Cháu lừa chú cháu là con chó! Chính ông cụ này bảo chỉ cần cháu chạm vào cái chóe ấy, sẽ tặng cho cháu robot Big Mac Ford.”

Tôi chọt nhíu mày, chạm ư?

Không phải xô đổ hay quăng vỡ, chỉ cần chạm vào thôi sao?

Giờ nhớ lại, Dược Bất Thị cũng chỉ chạm nhẹ một cái, chóe sứ thanh hoa đã đổ nhào, song tôi vẫn chưa có thời gian ngẫm kỹ lại những điểm kỳ lạ trong đó. Giờ xem ra, giáo sư Trịnh đã biết chiếc chóe nọ có vấn đề từ trước, chỉ cần đụng nhẹ là đổ, nên mới xúi bẩy Vương Tiểu Mao như vậy.

Sao ông ta biết được? Lẽ nào bên trong chiếc chóe còn bí ẩn gì khác?

Quan trọng nhất là, tại sao ông ta làm vậy?

Tôi gặp giáo sư Trịnh lần đầu ở văn phòng cục trưởng Lưu, ông ta là một chuyên gia giám định khảo cổ trong biên chế. Về sau ông ta dẫn Dược Bất Nhiên tới Tứ Hối Trai, tôi mới biết ông ta cũng xem như người trong Minh Nhãn Mai Hoa, cưới vợ là người họ Dược, một dạng như khách khanh vậy, hơn nữa còn là thầy của Dược Bất Nhiên, về sau trong vụ Thanh minh thượng hà đồ, ông ta cũng đã giúp đỡ tôi rất nhiều.

Trong ấn tượng của tôi, giáo sư Trịnh là một học giả truyền thống, khiêm tốn kín đáo, tư duy bảo thủ, ông có phần bất mãn trước việc thúc đẩy thương mại hóa của Minh Nhãn Mai Hoa, cho rằng đó là đi ngược lại truyền thống. Có điều ông không muốn nói thẳng, chỉ thỉnh thoảng uống rượu với tôi mới tỏ lộ ra mà thôi. Ông hết sức đau lòng về việc Dược Bất Nhiên phản bội, luôn day dứt vì đã không dạy được đứa học trò này.

Một người thành thực như vậy, sao lại thành kẻ xúi bẩy trẻ con xô đổ chóe chứ? Quan trọng nhất là, nếu vậy thì giữa ông ta và Lão Triều Phụng hẳn phải có quan hệ nhập nhằng gì đó.

Tôi không hẳn tin rằng mọi điều giáo sư Trịnh làm trước đây đều là giả tạo. Tuy Hứa Nguyện tôi đã bị phản bội mấy lần, mắt nhìn người cũng chẳng thể coi là tinh tường, nhưng vẫn có thể cảm nhận được tình cảm của một người có phải xuất phát từ đáy lòng hay không.

Vương Tiểu Mao gọi mấy tiếng, tôi mới định thần lại, vội lắc đầu cố gạt bỏ mọi suy nghĩ ngổn ngang. Lúc này đám người chạy túa ra đã phát hiện vụ báo cháy chỉ là giả, vừa càu nhàu vừa quay vào nhà, giáo sư Trịnh cũng vào theo.

“Chú định đi gặp ông ấy một mình ạ?” Vương Tiểu Mao chợt hỏi. Tôi thoáng ngạc nhiên, sao thằng bé này đoán được nhỉ. Vương Tiểu Mao đắc ý đáp, “Nếu không vừa rồi chú đã đứng ra gọi người ta rồi.”

Tôi bật cười, đúng là không thể xem thường trí tuệ của trẻ con. Đoạn vỗ đầu cu cậu: “Cháu mau về trường đi, ở đây không còn việc gì của cháu nữa.” Vương Tiểu Mao bảo: “Không đâu! Giúp người phải giúp cho trót. Cháu sẽ lừa ông ta ra đây cho chú.”

Tôi hơi bực: “Chú đã dặn cháu thế nào? Phải làm đứa trẻ thật thà, đừng có hở ra là nói chuyện lừa người.” Vương Tiểu Mao đáp: “Cháu nhìn ra được chú là người tốt. Cháu học theo Lôi Phong, giúp người tốt làm việc tốt, có được không ạ?”

Tôi nhất thời cứng họng.

Nghĩ ngợi giây lát, tôi mượn một tờ giấy làm bài tập và một chiếc bút chì trong cặp Vương Tiểu Mao, viết vội mấy hàng chữ rồi đưa cho nó, “Chú không muốn xui cháu nói dối, thế này đi, cháu đưa mảnh giấy này cho ông ấy là được. Nhớ đừng nói với ông ấy trông chú thế nào nhé.”

Vương Tiểu Mao cầm mảnh giấy, chạy ù đi. Từ trong lùm cây trông ra, tôi thấy Vương Tiểu Mao chạy thẳng tới trước cửa tòa nhà nọ, chặn đường giáo sư Trịnh đang định bước vào trong. Cầm mảnh giấy, giáo sư Trịnh thoáng ngỡ ngàng, song đọc được mấy chữ thì cả người bỗng run lên. Ông ta cúi xuống luôn miệng vặn hỏi, Vương Tiểu Mao chỉ lắc đầu, rồi quay lưng chạy biến. Nó chạy rất nhanh, giáo sư Trịnh không đuổi kịp, đành đứng yên tại chỗ đọc đi đọc lại mảnh giấy rồi quay đầu trở vào tòa nhà, bước chân hơi loạng choạng.

Thực ra tôi chỉ viết vỏn vẹn một câu: “Muốn người không biết, trừ phi đừng làm”, sau đó ghi thời gian và địa điểm, không ký tên.

Sai Vương Tiểu Mao đưa thư cho ông ta, bản chất đã là ngầm ý bảo: việc ông mua chuộc người khác xô đổ chóe sứ thanh hoa “Ba lần ghé lều tranh” đã lộ rồi. Không cần nhiều lời, chỉ riêng ám hiệu này cũng đủ ép giáo sư Trịnh phải đi đến chỗ hẹn.

Tôi chọn điểm hẹn gần đoạn đường Hàng Hải giáp đường Thu Đào. Đường Hàng Hải có bề dày lịch sử khá lâu đời từ thời Minh Thanh, thoạt tiên là con đường nối liền Hàng Châu và Hải Ninh, nằm trên dải đê chạy dọc sông Tiền Đường, về sau bờ sông dời đổi, dải đê mới thành đường đi. Đến nay dọc tuyến đường này vẫn còn rất nhiều dấu vết của con đê và các công trình liên quan.

Tôi hẹn giáo sư Trịnh ở phía cuối di chỉ con đê. Chỗ đó có một ngôi miếu Đường vương, còn gọi là miếu Ngũ Long. Sở dĩ tôi chọn chỗ này, bởi từng nghe được một truyền thuyết. Lúc Tiền Mậu đắp đoạn đê này, đắp đến đâu sập đến đấy, ông ta phải cắt ngón tay trộn máu mình vào đất mới đắp được, về sau dân bản xứ lập một ngôi miếu Đường vương ở đoạn cuối con đê, nghe đồn linh thiêng hơn hẳn các nơi khác. Dân chúng có tranh chấp gì, đều đến miếu xin Đường vương phán xử, còn linh nghiệm hơn quan phủ. Rất lâu trước kia, nơi này còn treo tấm bảng “Chính đại quang minh” gỡ từ nha môn ra, quan huyện các đời đều không dám đòi về.

Tôi nghĩ giáo sư Trịnh hẳn cũng biết truyền thuyết nọ, nên có thể hiểu được ý châm biếm của tôi khi chọn chỗ này: Tắt đèn tối lửa, chính đại quang minh. Rốt cuộc ông ta có mưu mô gì, cứ để Đường vương phán xét.

Tôi bảo Vương Tiểu Mao quay về trường, chuẩn bị một chút rồi đi đến đường Hàng Hải. Nơi này đã không còn cảnh sắc bờ đê thuở trước, thay vào đó là những công trường xây dựng ngổn ngang, sắp thành một khu đô thị hiện đại hóa tới nơi. Đến gần đường Thu Đào, nhìn từ xa thấy một đống hoang tàn đổ nát, tôi không khỏi sững sờ. Lại gần thêm chút nữa, hỏi han người đi đường mới biết, gần đây nơi này tiến hành cải tạo bộ mặt thành phố, miếu Đường vương và những nhà ở xập xệ xuống cấp xung quanh vừa bị giải tỏa, chuẩn bị xây công trình mới.

Lúc này đúng hoàng hôn, bầu trời ngời ráng đỏ. Di tích miếu Đường vương đã chỉ còn toàn tường xiêu vách đổ, bóng đổ dài dưới ánh chiều tà, càng toát lên vẻ thê lương nương dâu bãi bể. Một chiếc máy xúc lẻ loi sục gầu xuống đất, như một võ sĩ mệt mỏi chống kiếm nghỉ ngơi giữa chiến trường.

Miếu Đường vương trước sau đã được trùng tu mấy lần, bên trong chẳng còn cổ vật gì nữa, không thể coi là di tích văn hóa được bảo vệ, dĩ nhiên có thể bị tháo dỡ bất cứ lúc nào. Tôi chậm rãi băng qua những tàn tích, dừng bước ở một nền đất phẳng. Nơi đây trước kia có lẽ từng là đại điện, tôi ngẩng lên, hình dung ra cảnh hương hỏa thịnh vượng năm xưa rồi lại nhìn bầu trời đang tối dần, như trông thấy tấm biển “Chính đại quang minh” treo ngay chính giữa điện. Sơn đen chữ vàng, uy nghi rõ ràng.

Mấy trăm năm trước, nơi này vẫn còn là dải đê nằm ngay bên bờ sông, vậy mà giờ chỉ loáng thoáng nghe tiếng nước Tiền Đường rì rào đằng xa. Bãi bể nương dâu, sự đời biến đổi khôn lường, trước năm tháng phôi pha, chẳng có gì trường cửu. Núi sông còn như thế, huống hồ lòng người. Giờ đã là thập niên chín mươi của thế kỷ hai mươi rồi, bất luận là lòng người hay cách nghĩ, cũng đều thay đổi. Dẫu tấm biển kia vẫn còn, e rằng Đường vương cũng chẳng cách nào phán định được thật giả thiện ác giữa biển đời cuồn cuộn này đâu nhỉ?

Đang trầm tư, chợt nghe sau lưng vang lên tiếng chân giẫm lên gạch ngói lạo xạo, tôi ngoái lại, mỉm cười, “Chào giáo sư Trịnh.”

Quả nhiên người đến là giáo sư Trịnh, mắt ông ta trợn tròn, tưởng chừng muốn lồi ra khỏi tròng, “Hứa Nguyện à?” Ngay sau đó, ông ta chợt vỡ lẽ, “Cậu sai Vương Tiểu Mao đưa mảnh giấy cho tôi đấy ư?”

Tôi gật đầu không nói, chỉ lặng lẽ nhìn ông ta. Ông ta tới một mình, không dẫn theo ai cả. Khu vực này đã bị tháo dỡ gần hết, bốn bề trống trải, có người muốn nấp cũng khó.

“Sao lại là cậu?” Giáo sư Trịnh né tránh ánh mắt tôi, giọng điệu có phần chột dạ.

“Tôi cũng đang muốn hỏi câu ấy đây, sao lại là ông?”

Hai câu hỏi giống hệt nhau, nhưng hàm nghĩa lại khác hẳn.

Câu hỏi ngược của tôi khiến giáo sư Trịnh lùi lại mấy bước, hổ thẹn ra mặt, như học trò quay cóp bị tóm tại trận. Tay phải ông ta mấy lần định ôm lấy ngực trái, nhưng cuối cùng vẫn buông thõng. Ngay sau đó, ông ta cau mày, thốt lên, “Hóa ra tên đồng bọn mất tích của Dược Bất Thị chính là cậu!”

Giáo sư Trịnh chắc chắn đã lập tức hay tin chóe sứ thanh hoa bị vỡ. Dĩ nhiên ông ta cũng biết Dược Bất Thị bị bắt. Giờ tôi thình lình xuất hiện ở Hàng Châu, lại nắm rõ chuyện Vương Tiểu Mao. Giáo sư Trịnh là kẻ thông minh, lập tức xâu chuỗi mọi việc lại. Vậy là tốt nhất, tôi đỡ mất công giải thích. Tôi dấn thêm một bước, nhìn chằm chằm giáo sư Trịnh, không cho phép ông ta né tránh.

“Giáo sư Trịnh, tôi vẫn luôn coi ông là bậc bề trên đáng kính, dốc gan dốc ruột với ông. Hôm nay, mong rằng ông cũng có thể thật lòng mà trả lời tôi.”

Giáo sư Trịnh nhận ra giờ đây chẳng còn cách nào phân bua và che giấu nữa. Ông ta nhếch môi cười gượng, “Không sai, chính tôi đã xui Vương Tiểu Mao đập vỡ chóe sứ thanh hoa.”

“Nói vậy ông là người của Lão Triều Phụng ư?” Tôi từng bước dồn ép.

Giáo sư Trịnh lặng thinh, không phủ nhận cũng không thừa nhận.

“Trong vụ Thanh minh thượng hà đồ, ông đã giúp đỡ tôi rất nhiều, vừa cung cấp tư liệu, vừa giới thiệu Thư Viện với tôi, tôi vẫn luôn biết ơn. Giờ xem ra tôi quá ngây thơ rồi, không phải ông giúp tôi, mà là giúp Lão Triều Phụng.” Tôi lạnh lùng nói tiếp. Lần ấy tôi và Lão Triều Phụng hợp tác với nhau, cùng chung chiến tuyến. Thảo nào giáo sư Trịnh nhiệt tình như vậy.

Giáo sư Trịnh vẫn làm thinh.

“Trước mặt tôi ông nói cái gì mà phải giữ truyền thống, giữ tinh thần, không muốn thấy Minh Nhãn Mai Hoa bị thương mại hóa, té ra toàn những lòi dối trá đáng ghê tởm.”

“Không, không phải dối trá đâu!” Cuối cùng giáo sư Trịnh cũng không kìm nổi, giận dữ giơ cao hai tay, quai hàm run rẩy vì kích động, “Quan điểm của tôi vẫn là như vậy, chưa bao giờ thay đổi.”

“Ông ôm lý tưởng cao đẹp như thế, vì sao lại làm tay sai cho một tên tội phạm chuyên làm hàng giả hai tay đầy máu?” Tôi xẵng giọng nói to, “Ông có dám cao giọng nhắc lại bốn chữ 'trừ giả giữ thật' trước cả Minh Nhãn Mai Hoa không?”

Mặt giáo sư Trịnh đỏ bừng, gân xanh nổi đầy cổ, mấy lần ông ta định lên tiếng, song lại thôi. Dường như nội tâm ông ta đang đấu tranh dữ dội, hai luồng tư tưởng trái ngược không ngừng giằng co đối kháng.

“Cậu Nguyện à, mọi chuyện không đơn giản như cậu nghĩ đâu...” Cuối cùng ông ta chỉ nặn ra được câu này.

Tôi cười nhạt, “Trước kia ông cũng dùng lý lẽ này để lôi kéo Dược Bất Nhiên nhúng chàm phải không?”

Sự phản bội của Dược Bất Nhiên là cái dằm trong tim tôi, đồng thời cũng là một bí ẩn. Chẳng hề có dấu hiệu báo trước, cũng không có một chút logic nào, giống như một chiếc xe tải mất lái, đâm tôi văng ra khỏi quỹ đạo đã định. Nghĩ đi nghĩ lại, đến hôm nay tôi mới vỡ lẽ. Giáo sư Trịnh là thầy của Dược Bất Nhiên, cũng chỉ ông ta mới có thể dẫn dắt, lôi kéo, thậm chí tẩy não gã thôi.

Lão Triều Phụng lôi kéo giáo sư Trịnh, giáo sư Trịnh lại lôi kéo Dược Bất Nhiên. Tuy tôi vẫn không hiểu vì sao thầy trò nhà họ son sắt trung thành với Lão Triều Phụng, nhưng họ đồng lõa với nhau thì không còn nghi ngờ gì nữa.

Song khi nhìn lại giáo sư Trịnh, tôi chợt thấy hoang mang.

Lúc này vầng dương đã hoàn toàn chìm khuất dưới chân trời, chỉ còn chút nắng tàn rơi rớt, gương mặt giáo sư Trịnh cũng bắt đầu tranh tối tranh sáng. Tôi nheo mắt quan sát người trước mặt như giám định cổ vật. Vẻ mặt ông ta là sự hòa trộn giữa bối rối và bất lực, thậm chí còn vài phần uất ức.

“Chẳng lẽ là Dược Bất Nhiên lôi kéo ông ư?” Tôi đảo lại câu hỏi. Vai giáo sư Trịnh hơi rũ xuống như trút được gánh nặng, động tác nhỏ này dĩ nhiên không qua nổi mắt tôi.

Điều này thực bất ngờ, hóa ra Dược Bất Nhiên mới là kẻ đầu trò. Nhưng nghĩ lại thì như vậy nghe hợp lý hơn. Dược Bất Nhiên mang mệnh hồ ly, bề ngoài dễ gần nhưng bên trong cực kỳ có chủ kiến, chẳng ai lay chuyển nổi. Tính tình giáo sư Trịnh hiền hòa, bị Dược Bất Nhiên thuyết phục cũng chẳng lấy gì làm lạ.

Ông thầy này té ra lại bị trò dắt mũi.

Bắt gặp ánh mắt chế nhạo của tôi, giáo sư Trịnh đành phân trần, “Xưa nay tôi chưa bao giờ đầu quân cho Lão Triều Phụng cả, chúng tôi chỉ tạm thời hợp tác vì mục đích chung thôi. Chẳng phải cậu cũng từng hợp tác với Lão Triều Phụng đấy ư?”

“Tôi hợp tác với lão ta để đối phó Bách Thụy Liên. Còn ông hợp tác với lão vì chuyện gì?”

Nghe câu hỏi ấy, giáo sư Trịnh suy sụp dựa vào nửa mảng tường gạch cạnh đó, tháo kính ra lau, giọng khàn hẳn đi, “Cậu đã bao giờ trải qua cảm giác vỡ mộng và tuyệt vọng chưa? Đã bao giờ tận mắt chứng kiến những điều tốt đẹp mà mình trân quý nhất bị hủy hoại chưa?”

Tôi không đáp, bởi tôi biết ông ta không cần tôi trả lời. Trời đã sập tối, bức màn bóng tối dày nặng bắt đầu kéo xuống quanh miếu Đường vương.

“Từ nhỏ tôi đã thích gốm sứ, thích đến mê mẩn, thậm chí có thể nói là si dại. Chỉ cần có gốm sứ, tôi chẳng màng gì khác nữa. May mắn là từ nhỏ tôi lớn lên ở nhà họ Dược, xung quanh có nguồn lực và quan hệ cực kỳ phong phú. Tôi có thể xem những báu vật giấu kỹ trong Cố Cung không đem ra trưng bày; có thể tiếp cận những món hàng độc trong tay các nhà sưu tầm trên toàn quốc. Cậu có biết sờ tay lên mặt sứ mịn màng trơn nhẵn, nhìn ngắm ánh sứ và sắc men là cảm giác hạnh phúc và thỏa mãn không gì bì nổi hay không? Tôi chưa bao giờ có ý định chiếm hữu những báu vật ấy, suy nghĩ đó quá ích kỷ. Vẻ đẹp của gốm sứ không dính dáng gì tới giá trị, không nên bị những thứ không liên quan vấy bẩn. Chỉ cần chúng có thể được bày ở một nơi nào đó, có người bảo vệ có người thưởng thức là tôi vui rồi.

“Nhưng ngay cả một mong ước nhỏ nhoi như thế, tôi cũng không thực hiện được. Bao năm qua, tôi đã tiếp xúc với rất nhiều người trong giới này, chứng kiến quá nhiều bi kịch, lần nào cũng tổn thương sâu sắc. Có ông chủ tiệm đồ cổ nọ, sở hữu một chiếc đĩa chân sen đấu thái hàng nội phủ từ thời Thành Hóa, quý hóa lắm, đến đợt đánh cánh hữu, có kẻ vì muốn chứng minh mình tiến bộ, hăng hái phê phán văn hóa hủ bại đã đập nát nó ngay trước mặt mọi người. Cả thế giới chỉ có năm chiếc đĩa chân sen Thành Hóa, trong nước còn đúng một chiếc, nhưng từ đó trở đi, một chiếc cũng chẳng còn, muốn ngắm phải ra nước ngoài. Thầy tôi ở Thanh Hoa cả đời nghiên cứu đồ gốm sứ, tự thu gom được hơn trăm món, thứ gì cũng là hàng thượng hạng. Rốt cuộc năm 1966 phá tứ cựu, bị lục soát nhà, Hồng vệ binh xông vào loảng xoảng đập vỡ bao nhiêu món, khiến ông ấy uất quá chết ngay tại chỗ. Những thứ còn lại đều bị ném vào một nhà kho chẳng biết ở đâu để phủ bụi. Tới thập niên 80 được minh oan, con cháu thầy dốc hết tâm sức mới tìm lại được, thuê một chiếc xe tải chở về quê. Kết quả tên tài xế kia tham tiền, muốn rộng chỗ để chở thêm hàng lậu, đã tự tiện di chuyển các kiện hàng, nhồi nhét cả đống đồ tạp nham vào thùng xe. Tới nơi mở ra xem, các món gốm sứ kia đã bị va đập vỡ vụn cả. Bấy giờ tôi đến tận nơi thấy thế cũng suýt nữa uất mà chết như thầy, trở về đổ bệnh liệt giường.

“Chuyện như vậy đâu phải một hai lần, mà là vô số lần, lặp đi lặp lại. Không bị chính trị thì bị lòng tham, không bị sự vô tri thì bị thói tự đại hủy hoại. Con người gây tội lại để những món gốm sứ vô tội gánh chịu. Tôi đã đi từ đau lòng đến giận dữ, từ giận dữ đến tuyệt vọng rồi. Ở xứ này, những kẻ biết trân quý quá ít, nên những báu vật đó mãi mãi trầm luân trong kiếp nạn. Thời loạn gặp nạn đã đành, thời bình cũng vẫn gặp nạn như thường. Lúc biến động chính trị gặp nạn đã đành, khi kinh tế phát triển cũng vẫn gặp nạn. Tôi từng tới thăm mấy bảo tàng bên Nhật, cả công lẫn tư, thái độ nghiêm túc tỉ mỉ cùng tấm lòng trân trọng gìn giữ của họ gần như không thể thấy ở Trung Quốc. Đúng vậy! Những món đồ sưu tầm ấy đa phần đều bị người Nhật cuỗm đi dưới thời Dân Quốc, nhưng nếu không bị cuỗm đi thì chúng cũng sẽ bị hủy hoại, bị chôn vùi! Thế nên văn vật phải vượt lên trên quốc gia và thời đại. Vạch ra quyền sở hữu bằng chế độ chính trị nhất thời, thực sự là sai lầm! Tồn tại là quan trọng nhất, những vấn đề khác đều chẳng đáng bàn!”

Đây là luận điệu của Lão Triều Phụng, tôi nghe đã nhàm tai. Giáo sư Trịnh càng nói càng hăng, từ phút hổ thẹn rụt rè ban đầu, dần dà say sưa diễn thuyết. Ông ta không dựa tường nữa mà đứng thẳng người, hơi đổ về phía trước, hai mắt mở to đầy hưng phấn, cánh tay thỉnh thoảng lại vung lên như đang diễn thuyết.

Tôi tin rằng ông ta đang nói thật lòng. Trước đây khi uống rượu với nhau, giáo sư Trịnh cũng từng đề cập tới những suy nghĩ tương tự. Có điều bấy giờ tôi chẳng để tâm, chỉ cho là người già say rượu nói nhảm. Không ngờ sâu bên trong ông ta lại là một người theo chủ nghĩa cơ yếu gốm sứ, một kẻ si cuồng, ngoài đồ gốm ra có thể bất chấp tất cả.

Thảo nào ông ta và Lão Triều Phụng hợp nhau như vậy.

“Chỉ toàn ngụy biện!” Tôi bình luận.

Giáo sư Trịnh nhìn tôi rồi đột nhiên hỏi, “Cậu nghĩ vì sao Hứa Nhất Thành ông nội cậu lại đưa đầu Phật đến Nhật?”

Tôi sững sờ, sao lại kéo vụ đầu Phật vào nữa? Nhưng câu hỏi đặt ra rất hay, bản thân tôi lâu nay cũng luôn trăn trở. Ông nội tôi năm xưa đã phải đem cả tính mạng ra để ngăn người Nhật đánh cắp văn vật Trung Hoa, vậy mà cuối cùng đầu Phật vẫn bị Kido Yuzo đưa về Nhật, bao công sức xem như đổ sông đổ biển.

Giáo sư Trịnh nói tiếp, “Bởi ông ấy biết bấy giờ dù có giữ đầu Phật ngọc lại Trung Quốc cũng không bảo vệ được. Còn nếu đưa đến Nhật, theo như tác phong làm việc của người Nhật, nhất định sẽ giữ gìn đầu Phật cẩn thận. Bên ngoài đầu Phật, ông ấy cố tình bọc thêm một lớp vỏ, nhằm khiến người Nhật tưởng là đồ giả mà xem thường, ngày sau muốn lấy lại về Trung Quốc cũng dễ hơn.

“Cậu xem, ngay một nhân vật như Hứa Nhất Thành cũng cho rằng người Nhật bảo vệ văn vật đáng tin hơn người Trung Quốc thì cậu còn định biện bác gì nữa đây? Tiếc rằng ông ấy vẫn mang nặng tư tưởng chủ nghĩa dân tộc, chỉ chăm chăm muốn đưa đầu Phật về Trung Quốc nên mới vẽ rắn thêm chân, bày ra trò bọc ngọc. Cứ để lại Nhật có phải tốt hơn không!”

Lý do này chắc chắn là luận điệu cũ rích của Lão Triều Phụng. Ông nội tôi không thể là kẻ nông cạn như thế được. Tôi siết chặt nắm tay, quát lên, “Đây toàn là giọng lưỡi của Lão Triều Phụng chứ gì?”

“Không sai! Chính người ấy đã thức tỉnh tôi, người ấy mới là tri kỷ, là mơ ước của tôi.”

Giáo sư Trịnh lúc này đã hoàn toàn chìm trong những lý luận của mình, chẳng thấy thái độ hổ thẹn ban đầu đâu nữa.

“Tôi chưa từng buôn bán hàng giả, cũng chưa từng giúp Lão Triều Phụng làm hàng giả bao giờ. Lúc gia nhập tôi đã giao hẹn trước, quyết không dính tới hai chữ 'hàng giả', chỉ giúp người ấy sưu tầm hàng thật. Thực ra đồ giả lan tràn khắp nơi, có liên quan gì đến tôi đâu? Chỉ cần những món hàng thật được yên ổn, không phải chịu tổn hại gì là đủ rồi. Những việc ấy Minh Nhãn Mai Hoa không làm được, chỉ mình Lão Triều Phụng làm được mà thôi. Vì vậy dù người ấy không từ việc ác nào không làm, tôi cũng vẫn giúp đỡ người ấy. Cậu có thể gọi tôi là người bảo hộ gốm sứ.”

Tôi giận quá hóa cười, “Ông luôn miệng nói là trân trọng báu vật, làm mọi chuyện vì sự tồn tại của đồ gốm sứ. Nhưng đồng thời lại rắp tâm mua chuộc một đứa bé con xô đổ chóe sứ thanh hoa 'Ba lần ghé lều tranh', không thấy là mâu thuẫn à?”

Giáo sư Trịnh khựng lại, thoáng vẻ nuối tiếc, “Đó là chiếc chóe quý hiếm có, vỡ nát thực là đáng tiếc, nếu được tôi cũng chẳng muốn làm vậy đâu. Có điều tất cả đều vì mục đích cao cả hơn, để làm việc lớn, ắt phải hy sinh mà.”

“Hủy hoại một món đồ sứ vì mục đích cao cả hơn ư? Đúng là hoang đường!”

“Đó là vì những gì cậu biết còn quá ít! Người không cùng tầm, mắt nhìn cũng cao thấp khác nhau, những thứ thấy được ắt không tương đồng!”

Nghe vậy, tôi chợt nảy ra một ý. Bề ngoài tôi vẫn giữ thái độ giận dữ, nhưng bên trong đã hoàn toàn bình tĩnh lại. Hiện giờ giáo sư Trịnh đang kích động mạnh, đánh mất lý trí, chính là cơ hội tốt để gợi chuyện.

“Lẽ nào năm chiếc chóe ấy có liên quan đặc biệt tới Lão Triều Phụng nên các người mới ra sức tìm cách hủy hoại chúng?”

Giáo sư Trịnh không chút đề phòng, thao thao nói tiếp, “Dĩ nhiên rồi. Ồ, không ngờ cậu đã tra ra được có tận năm chiếc chóe. Hẳn là Dược Bất Thị phát hiện đúng không? Cái thằng ấy chẳng thiết tha gì đồ gốm sứ, đúng là mối nhục của nhà họ Dược.”

“Có liên quan gì tới Lão Triều Phụng? Vì sao lão ta sợ năm chiếc chóe ấy thế? Rốt cuộc lão ta là ai?” Tôi hỏi dồn, không để ông ta kịp suy nghĩ. Đồng thời bước dấn tới, vươn cổ nhìn xoáy vào mắt ông ta.

Một loạt hành động mang tính dồn ép này sẽ gây áp lực mạnh mẽ lên đối phương. Giáo sư Trịnh không phải hạng mưu mô, chỉ là một kẻ si mê gốm sứ bị tẩy não, rất dễ chịu tác động. Nhất là nãy giờ ông ta vẫn ở trong trạng thái lên đồng, khó mà chống lại trước sự thúc ép của tôi, gần như hỏi gì đáp nấy.

Nghe tôi hỏi, ông ta cơ hồ không hề nghĩ ngợi, mở miệng toan trả lời.

Nhưng vừa thốt ra được một âm thanh mơ hồ, giọng ông ta bỗng lạc hẳn đi, tiếng rên rỉ vuột khỏi miệng, rồi cả người mềm nhũn ngã lăn ra đất ngất lịm.

Biến cố đột ngột này thực nằm ngoài dự kiến của tôi. Chỉ chưa đầy một giây nữa thôi, tôi sẽ biết được chân tướng Lão Triều Phụng, vậy mà lại thất bại trong gang tấc, khiến tôi vừa buồn vừa giận, rảo bước lại gần hòng xem vì sao giáo sư Trịnh tự dưng ngất xỉu.

Khu vực miếu Đường vương đang bị phá dỡ nên đèn đường chưa lắp đủ, mặt trời vừa lặn đã tối om. May mà tối nay trăng sáng, tôi bước dưới ánh trăng, chợt có cảm giác nguy hiểm cận kề. Tôi vội dừng lại, nheo mắt nhìn, thấy một bóng người từ sau lưng giáo sư Trịnh bước ra, như vừa tách mình khỏi bóng đêm đen đặc.

“Ai dà, ông thầy tôi say chuyện quá. May mà anh đây đến kịp, không thì gay to.”

Nghe giọng nói quen thuộc ấy, cơ mặt tôi giần giật, tâm trạng xáo động dữ dội.

Dược Bất Nhiên vẫn trưng ra thái độ bất cần đời muôn thuở, mặc chiếc áo phông thể thao trắng tinh, một tay đút túi quần bò, tay kia vẫn giữ nguyên tư thế chập lại như lưỡi dao. Vừa rồi gã đã đến sau lưng giáo sư Trịnh, thấy ông ta sắp lỡ miệng tiết lộ bí mật của Lão Triều Phụng, liền thẳng thừng chặt vào gáy làm thầy mình ngất lịm.

Hai chúng tôi nhìn nhau giây lát, chẳng nói năng gì, bởi chẳng biết nói gì cho phải.

Lặng thinh chừng hai phút, cuối cùng vẫn là Dược Bất Nhiên không kìm được phì cười, “Bỏ cái vẻ thù sâu như biển ấy đi, anh em gặp nhau mà mắt vằn lên thế à?”

Tôi hừ một tiếng, vẫn câm như hến.

Tôi phải phản ứng thế nào đây? Nhào đến đánh một trận sống mái hay hỏi thăm vết thương ở Thành Trại Cửu Long của gã đã khỏi chưa? Kẻ này là anh em, cũng là địch thủ của tôi; là ân nhân, cũng là kẻ thù của tôi. Nếu được, tôi thực không muốn chạm mặt tên khốn này chút nào.

Dược Bất Nhiên giơ tay phải lên, “Đừng lo, lần này tao không đến vì mày đâu. Tao nghe nói giáo sư Trịnh vội vã ra ngoài, có vẻ là lạ nên không yên tâm, tới xem thử thôi. Không ngờ lại gặp mày ở đây. Hứa Nguyện, dạo này mày vẫn ổn chứ?”

“Không ổn. Tao đang điều tra thân phận Lão Triều Phụng thì bị chặt đứt manh mối.”

Bị tôi châm chọc, song Dược Bất Nhiên chẳng lấy làm điều, nghiêng đầu nghĩ ngợi giây lát rồi chợt đấm mạnh xuống, “Phải rồi! Tao đang bảo sao mày tự dưng lại đến Hàng Châu, nhất định là đã gặp ông anh tao rồi đúng không?” Chẳng để tôi kịp đáp, gã lại nói, “Vụ náo động ở trung tâm triển lãm lần này là do hai người gây ra hả. Thế nào? Ông anh tao khó chơi nhỉ? Đâu có hiền hòa như tao đâu.”

Tôi biến sắc, nghe giọng điệu gã, dường như Lão Triều Phụng cũng đã nhúng tay vào chuyện này rồi.

“Dược Bất Thị hiện thế nào?”

Dược Bất Nhiên thở dài, “Còn thế nào nữa, bị bắt ngay tại trận rồi. May mà Minh Nhãn Mai Hoa có người ở đó, nhận ra ông ấy. Có điều chiếc chóe ấy quá quý giá, trị giá rất nhiều tiền, đủ để thành án hình sự, dù là nhà họ Thẩm cũng không gánh vác nổi. Giờ có lẽ ông ấy đang bị tạm giam ở đồn công an.”

Tôi giật bắn mình, đến mức thành án hình sự cơ à? Liệu có phải Dược Bất Nhiên âm thầm giở trò không nhỉ?

Trước ánh mắt nghi hoặc của tôi, Dược Bất Nhiên tỏ vẻ oan ức. Gã gãi đầu rầu rĩ đáp, “Chậc, làm như tao là kẻ phản diện không bằng. Dù sao cũng là anh trai tao đấy, được chưa? Có bất đồng quan điểm, tao cũng không đến nỗi hãm hại ông ấy đâu.”

“Khó nói lắm.” Tôi cười nhạt.

“Ai chà, để tao nói mày nghe! Vụ cái chóe 'Ba lần ghé lều tranh' vốn không phải do tao phụ trách, mà là giáo sư Trịnh thu xếp. Chẳng ngờ người ông ấy sắp đặt không làm được, thay vào đó ông anh tao lại dính líu vào. Hay tin tao lập tức chạy đến, hồi chiều vừa mới tới Hàng Châu. Tao vốn định âm thầm cứu ông anh ra ngoài rồi chuồn, không