CHƯƠNG 5 TUYỆT KỸ “PHI KIỀU ĐĂNG TIÊN” TÁI HIỆN
Tôi đến được Thiệu Hưng đã là chiều hôm sau.
Thiệu Hưng rất gần Hàng Châu, chỉ cách khoảng năm mươi cây số, có rất nhiều chuyến xe khách liên tỉnh. So với Hàng Châu, Thiệu Hưng chẳng thể coi là rộng, ngõ ngách chật hẹp, cầu nhỏ phố cũ, đâu đâu cũng toát lên phong vị hiền hòa của sông nước Giang Nam. Tôi vào thành phố đúng lúc trời đổ mưa, nhìn mưa lay phay ngoài cửa xe, nhà cửa cổ kính xung quanh đều chìm trong màn mưa bụi mờ, tâm trạng bực bội của tôi cũng lắng xuống không ít, như được gột rửa vậy.
Thiệu Hưng được gọi là “đất văn vật”, song không phải là văn vật chúng ta vẫn nói hiện giờ, mà “văn” ý chỉ văn minh tinh thần còn “vật” chỉ văn minh vật chất, hàm nghĩa vùng Thiệu Hưng này bất luận là nền tảng văn hóa hay đời sống vật chất đều cực kỳ phong phú. Cứ nghĩ mà xem, lịch sử nơi này có thể truy đến trước cả ba đời Hạ, Thương, Chu, về sau lại nằm ngay giữa trung tâm văn hóa Giang Nam, thấm nhuần văn hóa mấy nghìn năm, khiến thành phố này có một bề dày đáng nể.
Tính từ thời Thuấn, Vũ trở đi, xưa có Câu Tiễn, Tây Thi, Vương Hi Chi, Lục Du, Vương Dương Minh, Từ Vị, nay có Lỗ Tấn, Chu Ân Lai, Thái Nguyên Bồi, Thu Cẩn v.v... đều xuất thân từ đây. Gần như đi hai bước là lại đến quê một danh nhân lịch sử lừng lẫy tiếng tăm. Vùng đất tập trung vô vàn nhân kiệt này xưa nay vẫn có không ít người tài ẩn dật, không thể xem thường.
Xe chầm chậm chạy vào nội thành, dọc đường tôi tranh thủ sắp xếp lại các suy nghĩ trong đầu. Giáo sư Trịnh rõ ràng đã bị Dược Bất Nhiên lôi kéo, sau đó bị Lão Triều Phụng tẩy não, cử đi phá hủy chiếc chóe “Ba lần ghé lều tranh”. Vậy nếu suy ngược lại thì nhà họ Thẩm có lẽ không phải người của Lão Triều Phụng, bằng không họ có thể ra tay ngay tại Bắc Kinh, cần gì phải bắt giáo sư Trịnh mất công chạy đến tận Hàng Châu làm gì.
Quan hệ giữa Minh Nhãn Mai Hoa và Lão Triều Phụng thật rắc rối phức tạp, khó mà phân rõ.
Theo lời Dược Bất Nhiên thì Lão Triều Phụng vẫn chưa biết hai chuyện. Một là tôi và Dược Bất Thị hợp tác; hai là tôi đang giữ một mảnh vỡ từ chiếc chóe “Ba lần ghé lều tranh”. Hơn nữa Dược Bất Nhiên cũng ám chỉ rằng gã sẽ không kể với Lão Triều Phụng về cuộc gặp giữa hai chúng tôi, rốt cuộc là vì sao nhỉ? Lẽ nào nội bộ tổ chức của Lão Triều Phụng cũng có lục đục?
Suy cho cùng tôi vẫn phải điều tra cho rõ bí mật đang ẩn giấu ở Thiệu Hưng này cái đã. Dược Bất Nhiên bảo tôi đến Thiệu Hưng nhưng không đả động gì đến nguyên nhân, chỉ tiết lộ một địa danh là “cầu Chữ Bát”. Tôi chẳng biết mình phải đi gặp một người, tìm một món đồ hay kiếm một địa điểm nữa? Hoàn toàn không có manh mối gì.
Vùng Thiệu Hưng này có hai đặc sản văn hóa nổi tiếng nhất: một là tranh chữ, ngay cạnh Thiệu Hưng là Lan Đình, chính là nơi thiếp Lan Đình lừng lẫy ra đời, cũng là quê của Thư thánh Vương Hi Chi, trình độ thư pháp được kế thừa dĩ nhiên vô cùng cao siêu; hai là đồ gia dụng thời Minh Thanh, suốt một dải Thiệu Hưng có vô vàn danh gia vọng tộc, đời đời sinh sôi, một dòng tộc phải đến mấy nghìn người, mệnh danh “ba mươi sáu giếng trời, bảy mươi hai ô cửa”, ý nói một khu nhà lớn phải có đến ba mươi sáu mảnh sân riêng của các hộ gia đình, đủ thấy đồ dùng hằng ngày nhiều tới mức nào. Huống hồ họ còn là quan lại giàu sang, chú trọng phong lưu tao nhã, yêu cầu rất cao về chất lượng đồ gia dụng.
Dược Bất Nhiên đã bảo tôi đến Thiệu Hưng, ắt người hoặc vật cần tìm phải có liên quan tới hai thứ này.
Dù Dược Bất Thị liên tục cảnh cáo tôi không được tin vào những manh mối tự dẫn xác đến, nhưng trực giác mách bảo tôi rằng có lẽ Dược Bất Nhiên không lừa mình. Có điều đây chỉ là trực giác, chẳng dựa trên chứng cứ gì, nếu Dược Bất Thị ở cạnh, ắt sẽ mắng tôi té tát.
“Thằng khốn này, chẳng bao giờ chịu nói cho rõ đầu đuôi cả.” Tôi âm thầm nghiến răng rồi nhảy xuống xe. Mưa vẫn chưa tạnh, những giọt mưa rơi xuống cổ tôi lành lạnh. Tôi rụt cổ lại, mua một chiếc ô che rồi đi thẳng về phía cầu Chữ Bát.
Trước lúc lên đường tôi đã mua một cuốn sổ tay du lịch Thiệu Hưng, bên trong viết cầu Chữ Bát được xây vào những năm Gia Thái thời Nam Tống, có lịch sử rất lâu đời, nằm giao giữa phố Cầu Chữ Bát và phố Cầu Quảng Ninh. Tôi vừa đi vừa hỏi đường, dọc theo con phố nhỏ tới gần cuối phố mới trông thấy một cây cầu đá giản dị xây theo kiểu nhà Lương, chìm trong màn gió xéo mưa nghiêng.
Cây cầu Chữ Bát này nằm ở ngã ba sông, cầu chính bắc ngang qua nhánh sông chính chảy từ Nam lên Bắc, thân cầu xây toàn bằng đá hoa cương. Hai đầu còn cầu phụ bắc làm bậc cấp chĩa xuống bốn hướng.
Từ xa nhìn lại, họp thành một chữ “Bát”. Bên dưới hai nhịp cầu phụ đều trổ một vòm cầu vuông vức, để hai nhánh sông nhỏ thông với nhau. Bên bờ sông vẫn trông thấp thoáng một vỉa đường, có lẽ là lối đi khi xưa dành cho phu kéo thuyền.
Tạo hình này rất giống cầu vượt hiện nay, thông sang bốn phương tám hướng, đi đường thủy hay đường bộ đều được, lại toát lên vẻ cân đối mộc mạc, thực là một kiệt tác kiến trúc. Tôi bước lên cầu, thấy mặt cầu lởm chởm gồ ghề như vỏ hạt óc chó trong khi các bậc thang đặt chân dường như đã bị mài nhẵn. Có điều phù điêu sen úp chạm trên trụ cầu vẫn được bảo tồn nguyên vẹn, thấy rõ từng cánh sen. Mặt bên thân cầu gần mép nước mọc đầy dây leo xanh mướt buông rủ như rèm, càng tăng thêm phong vận cổ kính.
Tôi đứng ở chỗ cao nhất trên cầu, gần như ngang bằng những nóc nhà hai bên, thu hết phong cảnh bốn bề vào tầm mắt. Hai bên sông đều là những gian nhà ngói đen tường trắng kiểu Giang Nam, địa hình còn thấp hơn cầu chữ Bát. Có thể trông thấy bóng con gái rửa rau trên sông trước nhà, một con thuyền mui đen lững lờ trôi qua, bên bờ sông, mấy cậu choai choai đi xe đạp lao vù qua con hẻm nhỏ làm hai cánh én giật mình, chênh chếch bay qua mặt sông.
Nước mưa từ tán ô chảy xuống, như giăng ra một tấm mành bằng sa mỏng, khiến tất cả trở nên mơ màng mà diễm lệ. Tôi giương ô đứng ngắm hồi lâu mà không sao tìm ra được điểm then chốt. Cảnh vật trước mắt đẹp thì đẹp đấy, chỉ không biết mấu chốt ở đâu.
“Dược Bất Nhiên ơi là Dược Bất Nhiên, mày muốn tao thấy cái gì đây?” Tôi lẩm bẩm.
Một cô gái trẻ lưng đeo bảng vẽ từ đầu kia đi tới, đến đỉnh cầu mới dừng chân dựng giá vẽ rồi dựa vào lan can cầu vẽ tranh phong cảnh. Tôi đi đến, che ô cho cô. Cô gái chăm chú vẽ, hoàn toàn không hay biết. Mãi tới khi bức ký họa đã phần nào thành hình, cô mới nhận ra nãy giờ đầu mình không dính một hạt mưa, vội quay sang nhoẻn cười tươi tắn với tôi.
Cô nàng có làn da trắng nõn, mái tóc đen dài, tô điểm bằng một chiếc kẹp tóc hình lá bạc, là một mỹ nữ Giang Nam điển hình. Chúng tôi bắt chuyện với nhau. Tôi tự giới thiệu mình là khách du lịch từ Bắc Kinh tới Thiệu Hưng du ngoạn.
Cô nàng lấy làm ngạc nhiên, nói cầu Chữ Bát không nổi tiếng như những Lỗ trấn hay Lan Đình nên hiếm khi có du khách lui tới. Tôi thừa dịp hỏi cô có biết gần đây còn nơi nào đặc biệt đáng tham quan không.
Cô nghiêng đầu nghĩ ngại một lúc lâu, song không nghĩ ra. Cầu Chữ Bát không phải điểm tham quan, xung quanh toàn là nhà dân, cũng chẳng có danh nhân nào từng cư ngụ. Tôi lại gợi ý thêm, bảo không nhất thiết phải là điểm tham quan, chỉ cần có liên quan tới văn hóa truyền thống là được, ví như liên quan tới cổ vật chẳng hạn.
Nghe vậy, cô nàng sáng mắt lên nói, thế thì tôi biết một chỗ.
Tôi mừng rỡ ra mặt. Cô giơ tay trỏ xuống dưới cầu, “Kia kìa, đằng kia có một tiệm đồ cổ.” Tôi nhìn theo, trông thấy xa xa ở khúc quanh con sông có một cây đa cổ thụ, cành cây sà gần sát mặt nước, cả tán cây trông như một chiếc ô gác nghiêng trên đất. Đằng sau thấp thoáng một góc mái nhà.
“Nhớ quay lại cảm ơn tôi đấy.” Cô gái cười khúc khích dặn đùa.
Tôi cảm ơn cô rồi xuống cầu đi thẳng đến đó. Dưới cầu Chữ Bát sông nước dọc ngang, nhìn tưởng rất gần nhưng đi tới nơi lại bị dòng sông chặn lối, phải vòng rất xa mới sang được bờ bên kia. Tôi vòng vèo mãi, mấy lần đi nhầm đường, cuối cùng cũng đến được trước cửa tiệm đồ cổ nọ.
Đó là một căn nhà hai tầng phỏng theo lối nhà Huy, mới được xây không lâu. Hai bên mái là đầu hồi hình đầu ngựa, xoa thủ và bá quyền26 trên xà nhà có hình đám mây, gắn kết chặt chẽ. Cột chống dưới mái hiên được đẽo hình đủ loại chim quý thú lạ, trông khá tinh xảo. Ở cửa dán đôi câu đối: Đọc sách khắp nơi cực lạc, khép song tức đến non sâu. Toát lên mấy phần phong thái đại ẩn giữa phố phường.
Phía trên còn một tấm biển viết ba chữ “Lan Kê Trai”. Lan là Lan Đình, Kê là Cối Kê27.
Tôi đẩy cửa bước vào, bên trong không rộng lắm, hai bên kê hai giá gỗ táo bày các loại cổ vật, có đồng điếu, ngọc thạch, gốm sứ và vài thứ tạp nhạp khác, phía sau còn treo bản sao thiếp Lan Đình theo chiều ngang. Tôi đưa mắt nhìn quanh, thấy hàng ở đây chỉ tầm tầm bậc trung, song bày biện hết sức thoáng đãng, sáng sủa sạch sẽ, giản dị đơn sơ, còn đốt cả hương.
Chủ tiệm là một tay trung niên ngoài bốn mươi, mặt dài mày mảnh, da dẻ trắng trẻo không một nếp nhăn, đường nét có phần mềm mại. Anh ta vồn vã chào hỏi tôi, mời “Anh cứ xem thoải mái”, sau đó lại quay về ngồi sau quầy.
Tôi để ý thấy tiệm này không mở ở gần quê Lỗ Tấn, nơi có chợ cổ vật lớn nhất Thiệu Hưng, chứng tỏ nó là một hiệu xe. Hiệu xe ý chỉ những tiệm đồ cổ ở nơi hẻo lánh, người thường không tìm được, khách khứa lui tới đều do người quen giới thiệu, phần lớn là dân trong nghề. Ngược với nó là tiệm phố, đặt tại khu du lịch hoặc nơi phố lớn, ngước mắt là thấy, phần lớn tiếp đón du khách và người ngoại đạo.
Tôi không vội hỏi chuyện mà tha thẩn vòng quanh các giá hàng, thấy đồ vật trên đó có mới có cũ, bày lẫn lộn với nhau. Tôi lấy từ trên giá một chiếc vò sứ thanh hoa vẽ chim hoa hạt sen, thấy dưới đáy viết: “Chế tác năm Càn Long triều Đại Thanh”.
Tôi tủm tỉm cười, thầm vỡ lẽ. Chữ đề dưới đáy đồ gốm sứ lò quan thời Càn Long thông thường nét ngang phía trên chữ “năm”28 phải ngắt ra, gọi là “năm ngắt đầu”, phần hụt vào bên dưới chữ “chế”29 thì hơi nhô ra một nét ngang. Dòng chữ dưới đáy vò này không có hai đặc điểm trên, đủ biết là giả.
Có điều chiếc vò này làm giả cũng khá, đường nét chim hoa cũng như hoa văn hạt sen đều sắc nét rõ ràng, lớp men được đánh sạch bong sáng bóng, hẳn là hàng tuyển làm theo công nghệ hiện đại. Tôi cũng chẳng nói gì, chỉ cầm vò ngắm nghía hồi lâu. Thấy vậy, chủ tiệm lại gần, cười khì hỏi, “Anh thấy món này thế nào?”
Tôi mập mờ đáp, “Cũng được, trông đẹp đấy.” Gã chủ giơ ngón cái, “Thực không dám giấu, những thứ tôi bày bên ngoài, mới nhiều cũ ít, để lừa đám ngoại đạo thôi. Anh vừa chọn đã trúng ngay món hàng thật duy nhất, đúng là sành quá.” Tôi vờ ra vẻ đắc ý gật gù. Chủ tiệm kéo tay áo tôi, hạ giọng nói, “Anh còn chưa được xem hàng tốt của tôi đấy.”
“Ồ? Ở đâu cơ?”
“Nói thật với anh, đây là đồ sưu tầm cá nhân của tôi. Hai chúng ta vừa gặp đã thấy có duyên nên tôi mới phá lệ, chứ khách khứa thông thường có muốn tôi cũng chẳng cho xem đâu.” Nói rồi hắn ta bưng một hộp gấm xanh ngọc hoa văn rồng vờn mây từ phòng trong ra, trịnh trọng mở hộp, bên trong là một ống bút sứ vẽ rồng phượng ngũ sắc Khang Hy. Vừa lấy ra đã thấy rực rỡ lóa mắt.
Ngũ sắc Khang Hy là hoa văn màu trên mặt sứ, có đỏ, vàng, lục, lam, tía, đen v.v... còn chia ra đậm nhạt, dày mỏng, nông sâu nên cho hiệu quả thị giác rất rực rỡ. Ống bút này vẽ một rồng một phượng, mình rồng màu vàng hổ phách sáp ong, lông phượng màu xanh vỏ dưa pha với đỏ vỏ táo, ngoài ra còn mây lành, cỏ thơm, hoa cỏ, cây cối, núi đá, mỗi thứ một màu, khiến bức vẽ trông vô cùng phong phú.
“Có câu rằng, nghìn vàng dễ kiếm, tri âm khó tìm. Thứ này tôi không bán đâu, chẳng qua gặp được người sành sỏi, mang ra cùng nhau thưởng thức vậy thôi.” Tay chủ thủ thỉ, ánh mắt đầy chân thành.
Tôi sờ ống bút, cười thầm trong bụng.
Hắn đang gắp thức ăn cho tôi đây mà.
Gắp thức ăn là tiếng lóng trong giới buôn cổ vật miền Nam, miền Bắc gọi là chia máng, một ngón nghề mồi chài khách của hiệu buôn cổ vật.
Có những cửa hiệu cố ý bày đủ thứ thượng vàng hạ cám trên giá bên ngoài, còn trong thì chuẩn bị sẵn mấy hộp gấm, đựng toàn đồ giả. Nếu khách vừa vào cửa đã cầm một món hàng giả lên săm soi, chứng tỏ gà mờ, ông chủ sẽ cố tình tâng bốc khen rằng tinh tường, làm khách khoái chí rồi dốc gan dốc ruột tâm sự rằng, hàng bày bên ngoài cũng thường thường thôi, bên trong tôi có mấy báu vật không bán, gặp người sành sỏi mới lấy cho xem.
Khách nghe vậy, vừa thỏa lòng ham hư vinh, lại thấy chủ tiệm thành tâm thành ý, cứ thế hồn nhiên bước vào tròng. Sau đó thế nào, chẳng cần kể thêm nữa.
Bởi cách làm này là nhìn người đặt món, nên miền Nam gọi là gắp thức ăn. Miền Bắc thô hơn, cho lợn ăn phải chia riêng phần từng con, nên gọi là chia máng.
Gã chủ thấy tôi một mình vào xem hàng, lại cầm vò hạt sen giả lên ngắm nghía hồi lâu nên coi là gà mờ, không lừa thì phí.
Thực ra tôi đúng là gà mờ, những kiến thức này đều học cấp tốc trong Huyền từ thành giám. May mà tuy tôi chỉ biết qua loa về đồ gốm sứ, nhưng bản chất của lừa gạt cũng chỉ cần hiểu đại khái về tâm lý học và bản tính người mà thôi.
Ví như ống bút ngũ sắc Khang Hy vẽ rồng phượng này, nếu đặt riêng trên quầy bắt tôi đoán, có khi tôi cũng chẳng nhận ra được thật hay giả. Nhưng giờ thấy gã chủ gắp thức ăn cho mình, tôi biết ngay là hàng giả. Biết đáp án chính xác rồi vòng lại tìm sơ hở bên trong sẽ dễ hơn nhiều.
Tôi cầm ống bút lên, xoay trong tay mấy vòng, nói bâng quơ, “Ông chủ này, màu xanh này không đúng đâu. Người ta nói ngũ sắc Khang Hy thì xanh lục ám vàng, ông xem màu lông con phượng này lại hơi ám đen.”
Nụ cười trên mặt tay chủ tức thì đông cứng. Câu này của tôi rõ ràng chỉ người trong nghề mới hỏi được. Hắn vội cười trừ đổ cho ánh sáng trong nhà không tốt. Tôi lật đi lật lại ống bút, nói “Đồ thời Khang Hy đều là phôi nếp, hơi ngả vàng, sao cái này lại ngả trắng?” Lần này chủ tiệm không chống chế nổi nữa, rõ ràng là giả chết bắt quạ mà.
“Anh bảo... chuyện đó hả, cũng không hẳn đâu.”
Tôi nhẹ nhàng chốt hạ câu thứ ba, “Nếu là đồ thời Dân Quốc thì quả thực là hàng tuyển, nhưng cố gán thành thời Khang Hy thì hơi quá.”
Sứ ngũ sắc chỉ xuất hiện vào hai thời kỳ, một độ từng thịnh hành dưới thời Khang Hy, về sau vì quá lòe loẹt nên dần dần bị sứ phấn thái thay thế. Mãi tới thời Đồng Quang và đầu Dân Quốc, trong dân gian mới bắt đầu phỏng chế lại sứ ngũ sắc. Nhiều người dùng ngũ sắc mới giả làm ngũ sắc cũ, chuyên lừa đám tay mơ.
Còn về phần làm sao phân biệt được hai loại, thì một xem chất phôi, hai xem màu vẽ, ba xem sắc men, trong Huyền từ thành giám đã giảng giải rõ ràng. Nhưng vận dụng vào thực tế cần biến hóa linh hoạt, không phải cứ học thuộc sách mà được.
Gã chủ giằng ống bút ra khỏi tay tôi, bực bội nói, “Tôi thấy anh có duyên, nên mới đem đồ quý ra khoe, anh nói thế là ý gì đây?”
Giới cổ vật có một tâm thế quái lạ. Gà mờ giả dân chơi rất nhiều, hơn nữa đặc biệt được đám lái buôn ưa thích vì dễ lừa, nhưng dân trong nghề như tôi mà đóng giả tay mơ lại bị thậm ghét, cho là cố tình trêu cợt, chặn đường làm ăn của người ta.
Thực ra, sở dĩ tôi làm vậy không phải vì nhàn cư vi bất thiện, mà chẳng qua bị Dược Bất Nhiên ép uổng.
Manh mối Dược Bất Nhiên đưa ra quá ít, tôi buộc phải thăm dò khắp nơi. Nhưng lòng người khó lường, tôi chẳng biết đâu là cạm bẫy nên phải cẩn trọng từng chút. Trước là thăm dò đối phương, thấy đáng tin mới dám hỏi han sự tình.
Quả nhiên lần này thử là biết ngay. Gã chủ Lan Kê Trai này vừa thấy con gà béo đã thẳng tay lừa gạt. Đủ thấy nhân phẩm của hắn chỉ đáng vứt sọt rác, cửa hiệu bày biện trang nhã tới đâu cũng không lấp liếm được sự thật rằng đây chỉ là một nơi dơ bẩn. Trong túi áo tôi có mảnh sứ từ chiếc chóe “Ba lần ghé lều tranh”, can hệ trọng đại, nhưng không thể tùy tiện lấy ra cho hạng người này xem được.
“Rốt cuộc anh có mua hay không, không mua thì đi đi.” Gã chủ sầm mặt đuổi khách.
Tôi nghĩ đi nghĩ lại, cuối cùng hỏi thêm một câu, “Chỗ anh có chóe sứ thanh hoa vẽ tích cổ không?” Gã chủ chẳng tỏ thái độ gì đặc biệt, bực dọc thu dọn bộ ấm chén trà, “Không có không có, tôi chưa thu mua thứ ấy bao giờ. Tôi sắp phải đóng cửa đây.”
Nghe câu trả lời này, ít nhất tôi cũng có thể xác định, đây chắc chắn không phải địa điểm Dược Bất Nhiên ám chỉ.
Nấn ná thêm cũng vô ích, tôi đẩy cửa đi thẳng ra ngoài, dừng chân nơi đầu ngõ, nhất thời lại thấy hoang mang. Quanh cầu Chữ Bát chắc chỉ có một tiệm đồ cổ này thôi, nếu không phải thì tôi biết tìm thế nào đây?
Ngõ ngách trước mặt vừa nhiều vừa chằng chịt, thông đến bốn phương tám hướng, chẳng khác nào mê cung, nhà cửa san sát, chẳng lẽ lại đi gõ cửa hỏi từng nhà? Tôi đi trong mưa dọc theo con ngõ hồi lâu, vì không có đích đến nên cứ lang thang vơ vẩn, gặp lối là rẽ. Như thế hơn một tiếng, chẳng thu được kết quả gì, trái lại bụng bắt đầu biểu tình ầm ĩ.
Chẳng muốn đi thêm nữa, tôi ngẩng đầu lên, thấy mình lại quay về bên cầu Chữ Bát. Ngay cạnh có một sạp hàng vừa mở, bán đậu phụ thối bên bờ sông. Mùi đậu phụ thối thoang thoảng tứ phía, hòa lẫn với không khí trong lành sau cơn mưa cùng mùi cỏ ven sông hăng hăng, thực khiến người ta thèm thuồng.
Tôi sải bước đi đến, thấy chủ sạp đang vớt ba xiên đậu phụ thối trong chảo dầu ra, miếng đậu đã được rán vàng rộm. Một vị khách bên cạnh nhanh tay đón lấy ngay xiên đậu vừa vẩy ráo dầu, đưa lên miệng nhai rau ráu, trông ngon hết sức. Tôi thấy mà thèm, đang định móc tiền mua thì nghe một giọng con gái reo lên mừng rỡ, “A, anh cũng đến đây ăn à?”
Tôi ngẩng lên, hóa ra người chầu chực bên chảo dầu chính là cô gái chỉ đường cho tôi hồi chiều. Cô đứng trên cầu Chữ Bát vẽ suốt một buổi chiều rồi cũng ghé lại đây ăn đậu phụ thối. Chúng tôi bèn ngồi ghép một bàn, gọi một đĩa đậu hồi hương trong Khổng Ất Kỷ30 một đĩa cá trắm khô ủ rượu, chấm đậu phụ thối vừa ăn vừa nói chuyện.
Cô gái nọ tự giới thiệu mình tên Mạc Hứa Nguyện, tôi nghe mà suýt rơi cả đũa. Cô hỏi tôi tên gì, tôi đáp tên Hứa Nguyện. Cô hết sức ngạc nhiên, sau đó phá lên cười.
Có duyên như thế, chúng tôi càng dễ nói chuyện hơn. Mạc Hứa Nguyện là dân bản xứ, học mỹ thuật. Cô nói sạp đậu hũ thối bên cầu Chữ Bát này rất ngon, ủ bằng nước cuống rau dền, kho lên thơm nức. Dứt lời cô cầm một chiếc que nhọn xăm một lỗ vào lớp vỏ phồng lên của miếng đậu phụ rồi múc dầu ớt và dầu vừng trong lọ nhỏ bên cạnh, rót vào lỗ thủng.
Xong xuôi, cô xiên một miếng đưa cho tôi. Tôi bỏ vào miệng nhai, đúng là vừa giòn vừa thơm, mùi thum thủm nồng nàn, chẳng khác nào một chuyến tàu vị giác trọn vẹn liên tục dội vào khoang miệng, đã vô cùng. Tôi ăn liền năm miếng mới dừng lại, gắp chút dưa cải đổi vị.
Mạc Hứa Nguyện kể mình lớn lên gần cầu Chữ Bát này, thông thuộc tất cả ngõ ngách như lòng bàn tay. Giờ cô không ở đây nữa, nhưng tháng nào cũng lên cầu vẽ một bức tranh phong cảnh xung quanh rồi xuống quán này ăn đậu phụ thối. Cô nói muốn ghi lại những ký ức này, cách tốt nhất là vẽ lại, bởi tranh vẽ dễ rung động lòng người, lòng người đã chạm được đến thì cũng sẽ chạm đến được con người.
Hễ nhắc đến chuyện vẽ vời, cô liền thao thao bất tuyệt. Nói một lúc lâu, Mạc Hứa Nguyện mới nhận ra nãy giờ chỉ mình mình huyên thuyên, đâm ra hơi ngượng, “À mà, anh đến tiệm đồ cổ kia chưa?”
“Rồi, nhưng không có thứ gì hay cả, nên tôi lại đi ra.”
“Hóa ra anh còn nghiên cứu về đồ cổ à, chẳng trách trông mặt mũi già dặn thế.”
Cô nàng này đúng là bộc tuệch... Tôi cười khì, không trả lời. Mạc Hứa Nguyện rất xởi lởi nhiệt tình, lại vắt óc nghĩ ngợi hồi lâu, mãi không nghĩ ra gần cầu Chữ Bát còn nơi nào liên quan tới cổ vật nữa.
“Xin lỗi, tôi thực sự không nghĩ ra nơi nào cả.” Mạc Hứa Nguyện chắp tay trước ngực, áy náy nói. Đợi một lúc lâu không thấy tôi lên tiếng, cô ngẩng lên mới nhận ra tôi đang nhìn mình chằm chằm, ánh mắt rực lửa.
Cô nàng tức thì đỏ bừng mặt, đang định nhìn lảng đi thì tôi gắt khẽ, “Đừng cử động!” Cô liền ngồi yên không nhúc nhích. Tôi giơ tay ra, định sờ vào mặt Mạc Hứa Nguyện, làm cô phát hoảng, né người sang bên, suýt nữa ngã nhào khỏi ghế. Bấy giờ tôi mới nhận ra mình thất thố, vội rụt tay lại rối rít phân trần rằng vừa rồi không phải tôi nhìn cô, mà là nhìn chiếc kẹp tóc bạc của cô.
Mạc Hứa Nguyện vội gỡ nó ra đặt vào lòng bàn tay, đưa cho tôi, “Đây, anh tự xem đi, đừng nhìn tôi nữa.”
Thực ra ban trưa tôi đã để ý thấy trên đầu cô gài một chiếc kẹp tóc bạc, làm tôn lên mái tóc đen dài, trông cổ điển mà tao nhã hết sức tự nhiên. Có điều bấy giờ tôi không nhìn kỹ, lúc này ngồi đối diện cô ăn đậu phụ, tôi mới chú ý chiếc kẹp tóc nọ té ra là một đóa hoa sen tròn. Nhất thời tôi nhìn đến ngây ngẩn cả người, suýt nữa gây ra hiểu lầm.
Tôi đặt chiếc kẹp trên lòng bàn tay, chăm chú quan sát. Công nghệ chế tác thực ra rất đơn giản, chạm hoa văn trên miếng bạc đã cán dẹt sau đó uốn thành hình chiếc kẹp. Nhưng tạo hình đóa sen tròn này không bình thường chút nào. Nó gồm mười sáu cánh sen kết lại thành một vòng tròn, giữa hai cánh lại chen vào một cành trúc, những cành trúc này như nan hoa cắm quanh tâm, trông chẳng khác nào một bánh xe.
Tạo hình cánh sen kèm cành trúc này, tôi mới chỉ thấy ở một nơi.
Thời Dân Quốc, học viện Vị Kinh ở Thiểm Tây từng sản xuất một lô sổ tay bìa da biếu tướng Dương Hổ Thành, về sau có ba cuốn sổ rơi vào tay bố tôi, trở thành chứng cứ quan trọng trong vụ đầu Phật ngọc. Những cuốn sổ này được chế tác tinh xảo, bốn góc bịt bạc, người thiết kế còn sáng tạo chạm miếng bạc thành hình cánh sen và cành trúc, sen tượng trưng cho Phật gia, trúc tượng trưng cho Nho gia, chính là điểm đặc trưng của học viện Vị Kinh.
Về sau học viện Vị Kinh đóng cửa, mẫu thiết kế này cũng mai một, chẳng còn ai sử dụng nữa.
Vậy mà ở Thiệu Hưng, tôi lại một lần nữa trông thấy tạo hình này, không khỏi mừng rỡ xen lẫn ngạc nhiên. Tôi tóm ngay lấy hai cánh tay Mạc Hứa Nguyện, rối rít hỏi cô ta mua thứ này ở đâu.
Thấy tôi như phát rồ, Mạc Hứa Nguyện không dám vùng ra, đành run run đáp, “Là... là bác Doãn thợ bạc ở cầu Chữ Bát đánh đấy.”
“Đó là ai?”
“Là bác Doãn thợ bạc thôi...” Mạc Hứa Nguyện ấm ức đáp.
“Cô dẫn tôi tới đó được không... Ôi, xin lỗi, xin lỗi, tôi có làm cô đau không?” Tôi vội buông Mạc Hứa Nguyện ra rồi luống cuống xin lỗi. Mạc Hứa Nguyện xoa cánh tay, dẩu môi lên, “Đưa thì đưa được, nhưng tôi phải nói rõ một chuyện.”
“Cô cứ nói, cứ nói đi.”
“Tôi không có cảm xúc gì với anh đâu, anh đừng trúng tiếng sét ái tình nhé.”
“Được...”
Gần cầu Chữ Bát có một bác thợ bạc họ Doãn, là dân ngụ cư. Có điều khái niệm dân ngụ cư này tương đối rộng. Theo thước đo của Trung Quốc, có khi đã dọn đến từ bốn năm đời trước, vẫn bị coi như người nơi khác.
“Dù sao thì từ khi bố tôi bắt đầu nhớ được chuyện đã thấy bác ấy ở đây rồi.” Mạc Hứa Nguyện kể.
Bác Doãn thợ bạc có một sạp hàng nhỏ, mở ngay trước cửa nhà. Bác lấy giá phải chăng, tay nghề cũng khá nên láng giềng quanh cầu Chữ Bát đều tới đặt khóa trường mệnh hay vòng bạc v.v... Mấy năm gần đây, người tới đặt hàng ít hẳn đi, bác cũng bắt đầu làm vài món trang sức thịnh hành để thu hút các cô gái trẻ. Hôm trước Mạc Hứa Nguyện đi ngang qua sạp hàng của bác ta, thấy chiếc kẹp tóc bày ở đó khá đẹp, bèn mua về.
Tôi gật đầu rồi nhờ cô dẫn đi xem. Mạc Hứa Nguyện hồ hởi nhận lời, nhưng không quên nhắc nhở, “Tính tình bác ấy hơi quái dị, anh nhớ chuẩn bị tâm lý đấy.”
Cô dẫn tôi đi xuyên qua các ngõ ngách như mê cung hồi lâu. Lúc này sắc trời đã dần tối, Mạc Hứa Nguyện rẽ ở khúc ngoặt trước mặt, nói: “Ngay phía trước rồi, hên ghê, hôm nay bác ấy mở hàng!”
Tôi thấy phía trước là một ngõ hẹp, hai bên tường cao, dưới đất lát đá xanh gồ ghề. Cuối ngõ thắp sáng một ngọn đèn. Có lẽ vì bóng đèn công suất thấp nên ánh sáng hơi vàng vọt. Chúng tôi lại gần chút nữa, thấy được cả mưa gõ lên chụp đèn màu lam đã tróc sơn, ánh đèn chênh chao, thoắt sáng thoắt tối, thực có cảm giác đêm mưa kể chuyện Liêu trai trong ngõ nhỏ.
Bác Doãn không có quầy hàng, bảng hiệu cũng không, chỉ đặt một bàn thao tác bằng gỗ ngay sát lối đi trước cửa nhà, quây mấy tấm kính xung quanh, đằng trước cắm một giá trúc, bên trên treo rất nhiều món trang sức bạc đủ kiểu dáng, trông hết sức đơn sơ, nếu không có Mạc Hứa Nguyện nhắc, có khi tôi đã đi lướt qua mà không nhận ra.
Chúng tôi bước tới trước, loáng thoáng nghe thấy tiếng hát kịch trên đài cassette vẳng ra qua cánh cửa. Bác Doãn đang cắm cúi trước bàn thao tác, khom lưng dập một miếng bạc. Trên bàn ngổn ngang đủ loại dụng cụ nho nhỏ, nào lò nấu bạc, búa cầm tay, đục, kéo sắt tây, nồi nấu quặng, khuôn đồng, sàn nhà cạnh đó còn chất đống những nguyên vật liệu như cô lô phan31, vôi, phèn chua v.v... Đây là một tiệm thủ công truyền thống điển hình, thiết bị hiện đại duy nhất là chiếc đèn xì acetylen dùng để đốt chảy bạc.
Nghe Mạc Hứa Nguyện chào, bác Doãn dừng tay ngẩng lên. Đó là một gương mặt nhăn nheo đã ngoại ngũ tuần, mày chữ bát ngược, hai mắt díu lại thành một đường chỉ vì quanh năm cắm cúi bên bàn làm những việc tỉ mẩn, hai má trũng xuống, gần như có thể phác họa được hình dạng xương sọ. Chỉ có vầng trán rất rộng, như trán ông Thọ vậy.
“Cháu giới thiệu khách cho bác này!” Mạc Hứa Nguyện đẩy tôi lên trước. Bác ta hờ hững nhìn tôi rồi lại cúi xuống, “Anh muốn mua gì?”
Tôi lấy chiếc kẹp tóc hoa sen và cành trúc của Mạc Hứa Nguyện ra, “Bác đánh cái này ạ?”
“Ừ.” Bác ta gật đầu.
Tôi cúi xuống sát bàn thao tác, “Bác cho hỏi, kiểu dáng cái này là bác làm tay hay làm khuôn?”
Nhà họ Hứa chúng tôi chuyên về kim thạch, trong đó có cả đồ vàng bạc, về phương diện này tôi cũng biết võ vẽ. Có hai cách chạm trổ hoa văn trên đồ bạc, một là dùng dùi chạm từng chút một, hai là rót bạc lỏng vào khuôn đúc sẵn. Cách thứ nhất thường dùng cho hàng đặt, gọi là làm tay, cách thứ hai thường dùng để sản xuất đại trà, gọi là làm khuôn.
Nghe tôi hỏi, bác Doãn gỡ kính lão ra, vê các ngón tay. Ngón tay bác ta dài và mảnh dẻ, bám đầy bụi bạc, vê nhẹ là bụi bạc bay lên, như làm ảo thuật.
“Không mua thì đừng hỏi!”
Bác ta gắt gỏng, vẻ như không muốn nhiều lời. Mạc Hứa Nguyện len lén giật tay áo tôi, thì thào, “Tính bác ấy hơi lập dị, anh cứ đưa tiền là được, đừng hỏi lung tung chọc bác ấy giận.”
Tôi vội móc ra hai mươi tệ, nói rằng muốn làm một cái giống hệt thế này. Bác ta cầm tiền đếm kỹ rồi bỏ vào ngăn kéo bên dưới bàn thao tác, lại hỏi, “Dùng bạc của anh hay của tiệm?”
“Dùng luôn bạc của tiệm bác đi.” Tôi trả lời.
Bác ta nhìn tôi rồi đứng dậy quay vào trong, lát sau đem ra một miếng bạc dẹt, dùng giẻ lau sạch bụi bặm rồi cầm kéo cắt nghiến một mảnh, bắt đầu nấu chảy. Động tác hết sức nhịp nhàng, nấu, đập, chạm, uốn đều rất có nhịp điệu. Mảnh bạc trong tay bác ta mềm như cao su, muốn vo tròn bóp méo thế nào thì ra thế ấy. Thợ thủ công thế hệ trước quả là khéo léo.
Thực ra chẳng cần nhìn bác ta làm, tôi cũng đã biết câu trả lời. Hoa văn đúc khuôn thường khá mỏng, mép nhẵn; còn chạm tay sẽ sắc nét, gờ mép cũng sắc hơn. Huống hồ khuôn đúc ở các tiệm thủ công thường không mấy tinh xảo, không thể xử lý được các hoa văn quá phức tạp. Hoa văn cánh sen và cành trúc này rất đỗi tinh tế, thấy rõ cả đốt trên thân trúc, hẳn phải chạm trổ bằng tay từng chút một.
Chủ yếu tôi muốn xem toàn bộ quá trình chế tác của bác ta để xác nhận thôi.
Tổ hợp cánh sen và thân trúc cũng chẳng phải mẫu họa tiết khó tưởng tượng, chưa chừng bác thợ khéo nào đó lại đột nhiên nảy ra ý tưởng trùng hợp cũng nên. Nhưng mẫu hoa văn sen trúc của học viện Vị Kinh có một đặc điểm là trúc ở trước sen, sen ở dưới trúc, hai loài cây trước sau đan cài vào nhau, khéo léo vận dụng đốt trúc và cánh sen thể hiện vị trí trước sau. Để làm được như vậy, phải chạm nửa cánh sen trước, sau đó chạm đốt trúc, rồi chạm nốt nửa cánh sen còn lại, cuối cùng mới đến thân trúc. Buộc phải làm theo trình tự ấy, mới ra được tạo hình như thế.
Nếu bác ta làm theo trình tự ấy thì mẫu này chắc chắn bắt nguồn từ học viện Vị Kinh. Lúc đó chẳng cần bác thợ già trả lời, chỉ cần nhìn bác ta đánh xong món đồ, cũng đủ thu được biết bao thông tin.
Tôi đứng cạnh bàn thao tác, chăm chú nhìn bác Doãn dưới ánh đèn vàng vọt. Bác ta cúi rạp mình trên bàn, đặt phôi bạc đã bước đầu thành hình lên đe, bắt tay vào khâu phức tạp nhất: chạm trổ. Tôi nhìn chằm chằm không chớp mắt, thấy bác ta làm rất thành thạo, ngón tay và dụng cụ thoăn thoắt như múa trong khoảng một thước vuông, không chút ngập ngừng, lúc đập lúc giũa, thỉnh thoảng lại dùng đèn xì cắt. Chẳng mấy chốc một chiếc kẹp tóc cánh sen cành trúc mới toanh đã thành hình, thật là nhanh nhẹn.
Tôi thở hắt ra, tuy bác ta đã đơn giản hóa đôi chút, nhưng trình tự gia công hoàn toàn trùng khớp. Bác thợ bạc này không đơn giản chút nào!
Bác ta lờ đi như không thấy tôi đang nhìn chằm chằm, dùng kìm kẹp món phụ kiện ném vào dung dịch axit tẩy gỉ cạnh đó rửa qua rồi lại bỏ vào chậu nước lã. Bạc vừa bị đập giũa ở nhiệt độ cao, bề mặt sẽ ngả đen, phải đem tẩy gỉ mới sáng bóng được.
Nhân lúc này, tôi lên tiếng hỏi, “Hoa văn sen trúc đan cài đẹp quá, bác từng thấy mẫu này ở đâu thế?” Bác Doãn không đáp, chỉ mải miết rửa thành phẩm. Tôi ngỡ bác ta không nghe thấy, bèn lặp lại câu hỏi. Bác ta gắp món đồ bạc lên, dùng miếng da hoẵng lau khô rồi cộc cằn đáp, “Mẫu gia truyền.”
“Quê gốc bác ở đâu?” Tôi lại hỏi.
“Cầm lấy đi.” Bác ta ném chiếc kẹp tóc cho tôi, lờ tịt câu hỏi.
Tôi bèn nói toạc, “Tổ tiên nhà bác liệu có liên quan tới học viện Vị Kinh ở Thiểm Tây không?”
Bác thợ bạc tháo kính ra, bắt đầu thu dọn vụn bạc trên bàn. Tôi không cam lòng, lại sán đến gần hơn, ghé sát tai bác ta hỏi, “Bác đã bao giờ nghe nói tới Minh Nhãn Mai Hoa chưa?” Bác Doãn cười nhạt, gom từng món dụng cụ vào hộp gỗ, ra điều muốn dọn hàng.
Mạc Hứa Nguyện đứng bên cạnh nói nhỏ, “Tính bác ấy xưa nay vẫn thế, đã không muốn nói thì anh hỏi nữa cũng chỉ phí công. Chúng ta tới đánh đồ bạc mà, nói ít thôi, đừng chọc giận bác ấy.”
Thấy không sao lay chuyển nổi bác ta, tôi cũng chẳng biết làm thế nào, xem chừng hôm nay khó mà hỏi han được gì. May mà đã xác định được mục tiêu là bác thợ bạc này, giờ chỉ cần kiên trì thuyết phục thôi, cứ từ từ vậy.
Có điều nghĩ kỹ lại, bác Doãn thợ bạc tuy có thể có quan hệ với học viện Vị Kinh, nhưng dường như chẳng liên quan gì tới bộ chóe năm mà tôi cần điều tra cả. Từ hoa văn sen trúc liên hệ đến học viện Vị Kinh, từ học viện Vị Kinh liên hệ đến sổ tay Dương Hổ Thành, từ sổ tay lại móc nối đến vụ án đầu Phật, từ vụ án đầu Phật đến Minh Nhãn Mai Hoa, rồi đến chóe sứ thanh hoa, logic này thật quá khiên cưỡng, lại lắt léo vòng vo.
Nhưng trước mắt chỉ có vỏn vẹn một manh mối này, tôi cũng chẳng còn lựa chọn nào khác.
Bác Doãn đã sắp dọn dẹp xong, tôi thấy trời cũng đã tối, không tiện làm mất thời gian của Mạc Hứa Nguyện nữa, bèn quay lưng định đi. Trước lúc đi, tôi liếc qua chiếc bàn thao tác lần nữa, chợt nhíu mày, như thấy gì đó không đúng. Nhìn kỹ lại, ánh mắt tôi lập tức bị hút vào một vật.
Đó là một cây bút sắt thon dài trong hòm đồ nghề, phải đến mười phân, tựa cán bút lông, chỗ tay cầm quấn dây đồng quanh một ống trúc. Vòng dây đồng màu vàng ngả đen, trông đã khá cũ. Đầu bút phẳng lì, phía trên có một rãnh nhỏ.
Dụng cụ này gọi là dùi mảnh, dùng đục lỗ trên đồ bạc. Tùy theo nhu cầu khác nhau, đầu bút có thể lắp những mũi dùi khác nhau, đục ra đủ loại lỗ với hình dạng và kích thước khác nhau.
Nhưng chiếc dùi mảnh này lại hơi khác. Khác biệt nhỏ ấy khiến tôi như thấy một tia hy vọng le lói.
Tôi ngăn bác Doãn lại, nói rành rọt từng chữ, “Bác không phải thợ bạc, mà là thợ vá gốm.”
Nghe câu này, đôi mày chữ bát ngược của bác Doãn giần giật, cả người như một bánh pháo bị châm lửa. Bác ta khom lưng lấy hai mươi tệ trong ngăn đựng tiền ra ném trả rồi giật lấy chiếc kẹp tóc mới đánh từ tay tôi, thô bạo quăng lên bàn thao tác, vung búa đập bẹp gí.
“Đụ mạ! cẩn thận tau đập cho bây chừ!” Bác Doãn sang sảng quát bằng tiếng địa phương, vung mạnh bàn tay, như thể tôi đã chạm phải điều gì cấm kỵ. Tôi đang định giải thích thì bác ta đã chộp lấy chiếc đèn xì, hung tợn như thấy kẻ thù giết cha.
Đèn xì nung chảy được cả kim loại, huống hồ là da thịt con người, tôi hốt hoảng co rụt lại.
Vốn muốn để bác ta xem mảnh sứ vỡ trong túi ngực, nhưng thấy bác ta gay gắt như vậy, tôi cũng chẳng dám cố đấm ăn xôi. Bác Doãn đẩy bàn thao tác vào nhà, sập cửa đánh rầm, ngay sau đó, ngọn đèn treo trên mái cũng tắt phụt.
Mạc Hứa Nguyện càu nhàu, “Anh xem, tôi đã bảo anh đừng hỏi lung tung, giờ để người ta đuổi đi rồi thấy chưa?” Tôi nhìn cánh cửa đóng im ỉm, tò mò hỏi, “Nghe giọng bác ta có khác dân bản xứ là mấy đâu. Bác ta đến Thiệu Hưng từ bao giờ vậy?” Mạc Hứa Nguyện nói không biết, từ khi còn nhỏ đã thấy bác Doãn mở sạp ở đây rồi.
“Cô có biết nhà bác ta còn những ai không?”
Mạc Hứa Nguyện lắc đầu, “Anh cũng thấy rồi đấy, bác ấy tính tình lập dị, thường ngày cũng ít qua lại với ai. Hàng xóm láng giềng có người muốn giới thiệu đối tượng cho, nhưng chẳng cô nào chịu nổi tính tình của bác ấy, nên đến giờ vẫn một thân một mình, cũng chẳng có bạn bè gì hết. Trước kia trong nhà còn có bà u già, song mất lâu rồi.”
Tôi hỏi thêm, “Bác ta thường nổi giận vì chuyện gì?” Mạc Hứa Nguyện đáp, “Hình như bác ấy không thích người khác hỏi chuyện quá khứ, hễ hỏi đến là nổi giận, chẳng thèm làm nữa. Tổ dân phố một dạo còn nghi bác ấy là tội phạm trốn truy nã từ nơi khác tới, về sau công an tới điều tra thì không phải, nhưng cũng chẳng biết được gì thêm.”
“Lẽ nào lúc đăng ký hộ tịch không khai ư?”
“Cái đó thì tôi không biết, tôi đâu có điều tra hộ khẩu.” Mạc Hứa Nguyện tò mò vặn lại, “Sao anh hỏi kỹ thế, anh là người của công an à?” Tôi cười trừ không đáp.
“Hôm nay cảm ơn cô nhiều lắm.” Tôi chào từ biệt, định về nhà trọ rồi tính tiếp.
Mạc Hứa Nguyện tròn mắt, “Ơ? Anh không mời tôi ăn kem uống nước gì à?” Dứt lời lại tự lắc đầu quầy quậy, “Thôi thôi, mời tôi ăn bánh ngọt xong, nhất định anh sẽ đề nghị đưa tôi về nhà, thế là anh biết địa chỉ nhà tôi. Tôi còn phải mời anh vào ngồi chơi, muộn thế này rồi, trò chuyện thêm một lúc tới khi khuya quá anh không về được nữa lại phải nghỉ tạm nhà tôi, rất dễ xảy ra chuyện. Tôi lại không có cảm xúc gì với anh, như thế phiền lắm.”
Tôi lắc đầu cười nhăn nhó, nghĩ bụng cô nàng này lậm tiểu thuyết Quỳnh Dao quá rồi.
Để tránh hiểu lầm, tôi không dám đưa Mạc Hứa Nguyện về nhà nữa. Chúng tôi ghé vào một quán kem trong nội thành, cô nàng ăn liền ba viên kem, rồi ai về nhà nấy.
“Này, tôi hỏi một câu cuối cùng được không?” Mạc Hứa Nguyện hỏi.
“Cô hỏi đi, nhưng nếu về chuyện tình cảm thì miễn nhé.”
“Câu khi nãy anh nói là sao? Thợ vá gốm là gì, sao bác Doãn vừa nghe đã đùng đùng lên thế?”
“Chuyện này... kể ra thì dài lắm.” Tôi nheo mắt, lên mặt cụ non.
Vá gốm là một nghề đã có từ xa xưa, ít nhất là từ thời Tống. Đồ gốm sứ tuy bền nhưng cũng rất giòn, chỉ cần hơi va đập, nhẹ thì sứt mẻ nặng thì vỡ, đang từ đẹp thành xấu ngay. Thế nên mới sinh ra những thợ thủ công chuyên sửa chữa đồ gốm sứ. Ví như một chiếc bát sứ rơi xuống đất vỡ thành ba mảnh không dùng được nữa, thợ vá gốm có thể ghép lại như cũ. Hoặc đĩa sứ bị mẻ một góc, họ cũng có thể bịt đồng vào chỗ mẻ để dùng được như thường. Ấy gọi chung là vá gốm.
Thợ vá gốm chia làm hai loại, một là vá rong, hai là vá hoa. Thợ vá rong thường đi khắp hang cùng ngõ hẻm gắn lại đồ cho người nghèo, thuở xưa dân chúng nghèo khổ, vỡ cái bát cũng không dám mua mới, mà tìm người gắn lại. Những người già thế hệ trước đều biết, thợ vá hay quẩy đôi quang gánh, cao giọng rao “Ai vá chậu, gắn bát, hàn chảo đê”. Những bác thợ vá rong này được gọi là thợ quấn lò, thuộc giai cấp thấp trong xã hội. Giờ sức sản xuất tăng cao, vật dụng thường ngày bằng gốm sứ chẳng đáng bao nhiêu tiền, vỡ thì mua mới, nên nghề vá rong này gần như tuyệt chủng.
Còn vá hoa chỉ chuyên sửa các món gốm sứ cổ. Gốm sứ truyền qua nhiều đời, khó tránh có lúc sứt mẻ, thậm chí có khi chỉ tìm được một đống mảnh vỡ. Lúc này cần đến thợ khéo chuyên vá gốm gắn lại, hơn nữa không chỉ cần vá lành, mà còn phải giữ nguyên được giá trị nghệ thuật, yêu cầu rất cao, không những cần tay nghề khéo, mà còn cần có con mắt nghệ thuật. Đến tận ngày nay, ngành tu bổ văn vật vẫn phải tham khảo các kỹ thuật ấy của người xưa.
Về vá hoa, trong giới cổ vật còn một câu chuyện nổi tiếng.
Thời Nam Tống, Nhật Bản có một quý tộc tên Taira no Shigemori cúng dường vàng cho chùa A Dục Vương ở Ninh Ba. Để đáp lễ, chùa A Dục Vương cũng tặng lại một chiếc bát sứ Long Tuyền, Taira no Shigemori quý hóa vô cùng. Tới thời Muromachi, bát sứ rơi vào tay tướng quân Ashikaga Yoshimasa của Mạc phủ. Tiếc rằng trải bao phen chiến loạn, chiếc bát đã bị nứt mấy đường. Ashikaga Yoshimasa phái một sứ giả đem theo chiếc bát tới Đại Minh, hy vọng Thành Hóa đế tặng lại cho mình một chiếc khác. Nhưng lò gốm Long Tuyền qua bao biến động thời thế đã không nung ra được nước men tương tự nữa. Thành Hóa đế bèn sai thợ vá ngự dụng sửa lại chiếc bát, đưa trả về Nhật Bản. Trên bát được gắn thêm mấy chiếc đinh hạt đậu, nhìn lại hơi giống con đỉa, nên người Nhật đặt tên cho nó là “chén sứ xanh đỉa bâu”, trở thành một trong những chiếc bát uống trà nổi tiếng nhất Nhật Bản.
Có thể thấy, tay nghề của thợ vá gốm đã đạt đến mức cùng tỏa sáng với món gốm sứ ấy.
Vậy vì sao vừa nhác thấy dụng cụ nọ, tôi đã nhận ra ngay bác Doãn là thợ vá gốm?
Bởi nguyên lý nghề vá gốm này cực kỳ đơn giản, chỉ là đục vài lỗ trên món đồ rồi dùng những chiếc đinh dài ngắn khác nhau gắn lại. Trong đó khó nhất là đục lỗ. Đồ sứ mỏng lại giòn, muốn đục lỗ mà không làm nứt vỡ, cần tay nghề hết mực tinh xảo. Công cụ thợ vá dùng để đục lỗ là một cây bút sắt, đầu bút gắn một viên kim cương, cứ mài nhẹ vào chỗ cần đục, mài tới khi thủng thành lỗ.
Người Trung Quốc có câu “không có dùi kim cương, chớ ăn cơm thợ gốm” là bắt nguồn từ đây.
Cây bút sắt trong hòm đồ nghề của bác Doãn đã đổi tròn thành nhọn, dùng để gia công đồ bạc, nhưng ống trúc bên ngoài đã để lộ bí mật. Đục lỗ trên đồ bạc, quan trọng là vận lực, nếu đục hỏng thì bỏ vào lò nấu chảy ra làm lại, nhưng đục lỗ trên gốm sứ lỡ quá tay là vỡ, nên phải xử lý cực kỳ tinh tế. Bên ngoài bọc thêm một ống trúc, có thể tăng lực ma sát của ngón tay.
Trước kia chắc chắn bác Doãn từng làm thợ vá gốm, hơn nữa còn là thợ vá hoa. Chẳng rõ vì sao bác ta lại đổi nghề, song cây bút sắt này vẫn còn dùng được nên bác ta mới biến tấu chút đỉnh thành dụng cụ chế tác đồ bạc. Nếu không có ống trúc bên ngoài, e rằng tôi khó mà nhìn ra được.
Năm xưa ở kinh đô, những thợ giỏi vá hoa nhất nhì đều là bậc thầy về đồ gốm sứ, phải có con mắt tinh tường như thế mới dám thao tác trên các món gốm sứ cổ. Nếu nghề cũ của bác Doãn là thợ vá gốm thì bác ta hẳn có liên quan trực tiếp với bộ chóe năm chiếc nọ!
Tôi khấp khỏi mừng thầm. Sơ hở của bác Doãn, thực ra cũng không thể coi là sơ hở. Nếu không am hiểu cả về gia công đồ vàng bạc và gốm sứ thì chắc chắn không thể nhìn ra. Đồ bạc là chuyên môn của nhà tôi, còn chuyện vá gốm tôi đọc được trong Huyền từ thành giám. May nhờ Dược Bất Thị bắt bổ túc kiến thức, tôi mới có được phát hiện này.
Quả nhiên đọc thêm sách vở vẫn có lợi.
Dĩ nhiên tôi không nói kỹ với Mạc Hứa Nguyện, cô là dân ngoại đạo, chưa chắc nghe đã hiểu. Tôi chỉ giải thích qua loa mấy câu rồi xua cô về, bằng không cô nàng này lại nghĩ xằng nghĩ bậy.
Hôm sau, tôi lại đến khu cầu Chữ Bát. Nhưng lần này tôi không đường đột tiếp cận mà len lén đứng từ đầu ngõ nhìn vào, trông thấy bác Doãn mở cửa, đẩy bàn thao tác ra mới yên tâm.
Thực ra tôi lo nhất là bác ta bị vạch trần thân phận sẽ bỏ đi ngay trong đêm. Tôi ở Thiệu Hưng lạ nước lạ cái, biết đi đâu mà tìm chứ.
Con hẻm nằm nơi rất khuất nẻo, tôi rình rập tiệm bạc cả buổi sáng, thấy chẳng có mấy người đi ngang, càng không ai ghé tiệm bác ta. Nghề chế tác bạc thủ công này quả là ngày càng lụn bại. Thực ra chẳng riêng gì thợ bạc, tất cả thợ thủ công thời nay đều khó khăn. Công nghiệp hiện đại và khoa học kỹ thuật phát triển quá nhanh, khiến đất sống của họ dần bị thu hẹp lại. Tôi thậm chí còn ngờ rằng bác Doãn chuyển nghề vì nghề thợ vá đã gần như tuyệt diệt, muốn mưu sinh bắt buộc phải tìm đường khác.
Tôi cứ nghĩ mãi, không biết phải làm sao lấy lòng bác Doãn. Tặng quà à? Ngay dân địa phương như Mạc Hứa Nguyện còn chẳng biết bác ta thích gì nữa là. Giúp đỡ ư? Bác ta ở lì trong nhà, cuộc sống đơn sơ đến cực điểm, gần như không giao lưu với thế giới bên ngoài còn đâu. Hay vung tiền mua chuộc? Cũng có thể là một cách hay, nhưng cứ nhìn hôm qua bác ta ném tiền trả lại tôi rồi vung búa đập bẹp chiếc kẹp tóc, e rằng chỉ tổ phản tác dụng.
Bác Doãn thực sự là một kẻ quái dị, một ẩn sĩ giữa xã hội hiện đại, hoàn toàn lạc lõng giữa cuộc đời, chỉ ru rú sau bàn thao tác của mình mà thôi. Tôi bỗng đâm ra bối rối, chẳng biết bắt tay từ đâu.
Đến trưa, bác Doãn đẩy bàn thao tác vào trong, khóa cửa rồi ra ngoài. Tôi âm thầm bám theo, cố giữ một khoảng cách nhất định, thấy bác ta đi qua cầu Chữ Bát, tới sạp đậu phụ thối tối qua tôi ăn. Bác Doãn chọn một băng ghế dài ngồi xuống, gọi một đĩa tôm rang, một đĩa dưa muối khô, còn kêu chủ quán hâm cho một bình rượu vàng, rồi thong thả ăn cùng một bát cơm.
Tôi sáng mắt lên, xem ra bác ta cũng không hoàn toàn chẳng vương khói lửa nhân gian, tốt xấu gì cũng thích uống rượu, thế thì dễ rồi. Tôi vờ vô tình đi ngang, đến trước sạp hàng chào chủ quán một câu rồi ngồi xuống đối diện với bác ta.
Ngẩng lên trông thấy tôi, bác Doãn đùng đùng nổi giận, dằn mạnh bát cơm xuống bàn rồi đứng dậy định đi. Tôi đủng đỉnh cầm bình rượu lên nói, “Bữa này để tôi mời, chúng ta không nói chuyện gì khác, chỉ uống rượu thôi được không?”
“Cút! Cút ngay!”
Bác Doãn không hề hợp tác, sầm mặt đi thẳng. Tôi vội níu tay bác ta, song bác ta hẩy mạnh một cái, hất văng tôi ra rồi nghênh ngang bỏ đi.
Chủ quán cười hỏi, “Cậu tìm lão Doãn làm gì thế?” Tôi tiện miệng đáp muốn xin học nghề. Chủ quán lắc đầu nói, “Lão Doãn thường ngày không thích giao thiệp với người khác, chỉ lúc nào đến đây ăn cơm, mới chịu nói chuyện mấy câu. Lão ta ghét nhất những người chủ động bắt chuyện như cậu, hễ cáu là lên cơn, hình như gọi là chứng hưng cảm gì đó.”
Nghe vậy, tôi liền hỏi chủ quán, “Hóa ra cũng từng có người tới tìm bác Doãn à?”
Chủ quán cầm cái vá gõ vào thành chảo, thở dài đáp, trước kia hàng xóm nhà lão Doãn có một người công tác ở đài truyền hình, muốn làm một chuyên đề về nghề thủ công truyền thống đã thất truyền, bèn tìm tới lão Doãn, kết quả lão ta vừa thấy máy quay đã trở mặt, đuổi tất cả đi. Còn một người nữa từ Hồng Kông, muốn vời lão tới Quảng Châu mở hiệu bạc, song vừa đề nghị đã bị từ chối thẳng thừng. Tay Hồng Kông kia cho rằng lão chê ít tiền, bèn chìa ra một túi toàn tiền mặt. Lão Doãn cũng ghê gớm, bật luôn đèn xì châm vào túi. Tới khi gã Hồng Kông dập được lửa thì tiền trong túi đã cháy mất quá nửa.
“Phải tôi thì đã thừa cơ bắt đền bác ta, không đền được thì bắt đến Quảng Châu rồi.” Tôi buột miệng.
Chủ quán cười, “Gã Hồng Kông cũng định thế, ngờ đâu người như lão Doãn không thể trông mặt mà bắt hình dong được. Lão lôi ngay đôi bát sứ trong nhà ném vào mặt hắn. Tay Hồng Kông vời người giám định mới hay hai chiếc bát này còn đáng giá hơn đống tiền bị đốt kia nhiều, đành ôm bát tiu nghỉu bỏ đi. Bấy giờ cả cầu Chữ Bát rúng động, láng giềng xôn xao bàn tán, không ngờ lão Doãn trông thì nghèo kiết xác, mà lại có thứ đáng tiền thế.”
Tôi vội hỏi cái bát trông thế nào, chủ quán lúng túng gãi đầu đáp rằng không biết. Tôi ước tính, nửa túi tiền ít nhất cũng phải mấy chục ngàn tệ, một thợ bạc bình thường lại có đôi bát quý giá như vậy, đủ thấy thân phận bác ta hết sức thần bí.
Hai chúng tôi đang tán gẫu chợt nghe bên ngoài có tiếng bước chân. Ngẩng lên, hóa ra bác Doãn quay lại, trừng mắt lườm như thiếu tiền người ta vậy. Tôi chưa kịp lên tiếng, đã thấy sau lưng bác ta còn một người nữa.
Người này tôi cũng biết, chính là chủ tiệm Lan Kê Trai hôm qua. Chúng tôi bốn mắt nhìn nhau, bỗng chốc sững sờ, chẳng ngờ lại gặp người kia ở đây. Thấy tay chủ tiệm ôm khư khư một chiếc lọ tông hoa văn bát quái, miệng lọ sứt một góc, tôi hiểu ra ngay vấn đề. Chắc hẳn hắn cũng nhận ra ngón nghề vá gốm của bác Doãn nên muốn nhờ bác ta vá lại giúp.
Tay chủ tiệm Lan Kê Trai nhìn tôi đầy cảnh giác. Có lẽ hắn đang nghĩ, thằng ranh này được lắm, hôm qua đến chỗ ông để thăm dò ông chứ gì. Tôi thấy hơi oan, nhưng hiện giờ không cách nào giải thích, đành mặc cho hắn hiểu lầm.
Vừa ra khỏi quán đã bị tay chủ tiệm Lan Kê Trai làm cho phải vòng vào, hẳn bác Doãn cáu lắm, da mặt bác ta giần giật như mặt đất trước khi núi lửa phun trào, bất cứ lúc nào cũng có thể bị dung nham nóng bỏng nhấn chìm. Bình thường một kẻ đến tìm đã đủ làm bác ta cáu điên, giờ lại có tới hai tên, khéo bác ta tức chết tại chỗ mất.
“Để tao về!” Bác Doãn quát lên, nhưng đã có phần hơi chùn.
Tôi cười chặn bác ta lại, “Bác Doãn à, đã đến đây rồi, uống mấy chén rồi hẵng đi chứ?” Tay chủ tiệm Lan Kê Trai cũng chắn ngay đường lui của bác ta, “Đúng đấy, bà con chòm xóm với nhau phải năng qua lại giao lưu mới được, bữa này tôi mời.” Hai chúng tôi tuy đối địch, nhưng trong việc giữ chân bác Doãn, cũng coi như đồng tâm nhất trí.
Bác Doãn giận điên người, chửi toáng lên một tràng bằng tiếng Thiệu Hưng. Tôi nghe chẳng hiểu mấy, bèn lờ tịt đi, còn tay chủ tiệm kia có lẽ cũng dày dạn kinh nghiệm nên chẳng lấy làm điều. Chửi chán, bác ta thở hồng hộc, thấy hai chúng tôi vẫn tỉnh rụi, bên cạnh lại chẳng có vũ khí vừa tay, bác ta cũng hết cách.
Tôi và tay chủ tiệm Lan Kê Trai đều nhận ra, bác Doãn thoạt nhìn hung hăng, song thực ra miệng hùm gan sứa. Chỉ cần hung tợn ngang ngược hơn bác ta, bác ta sẽ chịu lép ngay.
Gặp phải hai tên vô lại mềm không được cứng không xong, bác Doãn bất lực lùi lại hai bước, ngồi phịch xuống ghế vẻ mệt mỏi, “Các người rốt cuộc muốn gì đây?”
Đúng thế, chúng tôi muốn gì đây.
Thực ra mục đích của tôi rất đơn giản, muốn nhờ bác ta xem hộ mảnh chóe “Ba lần ghé lều tranh”. Nếu bác ta am hiểu về đồ sứ, không chừng có thể nhìn ra bí ẩn giấu trong vệt trắng kia.
Còn về mục đích của tay chủ tiệm Lan Kê Trai, e rằng không đơn giản là nhờ vá lại chiếc lọ tông. Vá lại miệng lọ chẳng phải việc khó khăn gì, dù Thiệu Hưng không có thì Hàng Châu nhất định có thợ làm, đâu cần phải vời người khó nhằn như bác Doãn? Tôi đồ rằng thực ra hắn muốn thăm dò xem bác ta còn giấu giếm nhũng đồ gốm sứ gì trong nhà thôi.
Lái buôn trục lợi như ruồi bâu thịt thối, chỗ nào có báu vật là chúng sẵn sàng quật ba thước đất lên lùng mua. Một kẻ có thể tiện tay quăng ra hai chiếc bát hàng tuyển, nhất định còn những thứ đáng giá hơn.
Cả hai chúng tôi đều không chịu nói ra mục đích thật của mình nên không khí hết sức gượng gạo, bên trong quán im phăng phắc. Cơ mặt bác Doãn lại giần giật, “Các người không nói thì tôi về đây.” Tôi và tay chủ tiệm Lan Kê Trai nhìn nhau, đồng thanh lên tiếng, “Chúng tôi muốn hỏi bác về ngón nghề vá gốm.”
Bác Doãn chừng như rất phản cảm với cụm từ vá gốm, nghe chúng tôi nói vậy liền rùn hai vai lại, thở hổn hển như lại chực phát bệnh. Chủ quán nhanh mắt nhanh tay, chìa ngay chén rượu ra mời. Bác Doãn uống cạn, giơ tay áo quẹt miệng mới miễn cưỡng kiềm chế được, “Tôi là thợ bạc, chỉ biết làm hàng bạc thôi.”
Chủ tiệm Lan Kê Trai cướp lời, “Không dám phiền bác nhiều, chỉ muốn nhờ bác vá hộ miếng bạc vào chỗ sứt ở miệng lọ này. Suy cho cùng thì bác vẫn là làm hàng bạc thôi mà.”
Tên này đúng là cáo già, nói năng lý lẽ đâu ra đấy.
Người am hiểu sơ sơ về vá gốm đều biết, những món đồ gốm sứ bị vỡ mà vẫn còn mảnh vỡ thì có thể dùng đinh gắn lại như cũ, đây là cách làm cơ bản nhất. Nhưng có những món không tìm được phần khuyết nữa, lúc này chỉ còn cách xử lý là dùng các nguyên liệu như vàng, bạc, đồng v.v... trám vào chỗ khuyết, cũng tương tự như bịt răng vàng cho nó. Cách này không chỉ là sửa lại, mà còn phải sửa sao cho có thẩm mỹ. Chỉ thợ khéo tay nghề cao mới có thể sửa gốm sứ vỡ thành món đồ hoàn toàn mới.
Ví như một tách trà vỡ một nửa, trám lá vàng vào, hai bên dùng đinh cố định, ấy gọi là âu vàng khuyết. Hay như miệng nậm bị sứt thì bọc viền bạc xung quanh, gọi là bịt nhọn. Còn khi vá đĩa,