CHƯƠNG 11 TRANH ĐẤU GIỮA BIỂN
Thời tiết đang đẹp, bầu trời gần như không một gợn mây. Ánh nắng chói chang chảy tràn trên mặt biển. Cả vùng biển mênh mông xanh biếc lăn tăn gợn sóng, tưởng như dưới đáy biển ẩn giấu vô số châu báu, tha hồ cho con người nhặt nhạnh. Hiềm nỗi nhìn về phía nào cũng là một quang cảnh ấy. Thoạt nhìn còn thích thú hào hứng, nhưng nhìn mãi cũng mỏi mắt, tựa hồ thế giới này sẽ mãi mãi như vậy, không bao giờ thay đổi.
Dược Bất Thị mặt tái mét vịn vào lan can bên mạn tàu, thân hình hơi lắc lư theo nhịp sóng tròng trành. Tôi từ phía sau đi đến, vỗ nhẹ vào vai anh ta, chìa ra chai nước và viên thuốc chống say tàu xe. Dược Bất Thị chẳng nói nửa lời nhận lấy viên thuốc, chiêu nước nuốt xuống. Tối qua tàu tròng trành dữ dội, anh ta cũng nôn mửa dữ nhất.
“Không chịu được thì vào khoang đi, nằm xuống dễ chịu hơn đấy.” Tôi khuyên. Dược Bất Thị hậm hực nhìn tôi, “Sao cậu không bị say? Trước kia cậu đi biển rồi à?”
Tôi cười hì hì vỗ đầu đáp, năng khiếu bẩm sinh của tôi đấy. Nói không phải khoe, từ nhỏ tôi đã không sợ rung lắc hay xoay tròn, quay hai ba mươi vòng tại chỗ xong vẫn có thể đi trên một đường thẳng. Nếu không phải gia đình gặp biến cố, với thể chất ấy, tôi thừa sức đi làm phi công ấy chứ.
Nghe câu này, Dược Bất Thị “hừm” một tiếng, cố mím môi, hẳn là dạ dày lại nhộn nhạo.
“Trước kia anh đã bao giờ ra biển chưa?” Tôi hỏi.
“Chưa từng. Tôi xưa nay vẫn luôn tránh đi tàu thuyền, nhất là tàu biển. Cứ có cảm giác hễ ra biển là tôi không kiểm soát được mọi việc xung quanh nữa, hay dở phó mặc cho ông trời. Tôi không thích cảm giác ấy.” Dược Bất Thị cố giải thích cho tình trạng yếu ớt của mình.
Suy cho cùng cũng là bởi anh ta quá gia trưởng, thảo nào Cao Hưng không chịu nổi. Tôi hỏi vặn, “Thế sao lần này anh còn đi làm gì? Chẳng phải tự chuốc khổ vào thân à?”
“Tôi có cảm giác thuyền Fukukou không chỉ liên quan tới nhà họ Hứa các cậu, mà còn cả nhà họ Dược chúng tôi nữa. Bên trong con thuyền đắm ấy không chỉ ẩn giấu lịch sử thôi đâu, tôi nhất định phải có mặt khi trục vớt.”
“Đúng thế, giờ thế lực Lão Triều Phụng bấp bênh, e rằng thuyền Fukukou là cái phao cứu sinh duy nhất của lão. Lấy được mười món sứ Sài, lão mới còn cơ hội nắm quyền chỉ huy, nhược bằng thất bại lần nữa, lão đừng hòng ngóc đầu dậy nổi. Vớt được thuyền Fukukou, trở về ta có thể bắt giữ luôn Lão Triều Phụng!”
Tôi nói đầy tự tin. Vừa dứt lời đã thấy gió biển tanh tanh mằn mặn thổi tới, làm mặt biển gợn lên từng đợt sóng lăn tăn trắng xóa, như lớp lớp bờm ngựa tung bay khi bầy ngựa hoang rầm rập phi qua đồng hoang. Chỉ những lúc này, biển xanh mới trở nên sống động. Tôi tì tay lên lan can, nhìn ra đường chân trời đằng xa, nơi bầu trời xanh ngắt và mặt biển xanh biếc giao nhau, có lẽ đích đến của chúng tôi cũng là một điểm trên đó.
Hai hôm trước, tàu chúng tôi ra khơi. Đây là một con tàu cũ đã hai mươi lăm tuổi, thuộc về Sở Trục vớt Cứu hộ Thượng Hải, Bộ Giao thông Vận tải. Vốn dĩ cục trưởng Lưu và ông Hoàng Khắc Vũ định điều một tàu kéo năm nghìn tấn tới, nhưng ban ngành liên quan cho rằng hiện giờ đang thiếu nguồn lực, điều kiện thủy văn khu vực này lại chưa rõ, điều tàu lớn đi thì lãng phí, nên cuối cùng chỉ phê duyệt cho con tàu vừa cũ vừa nhỏ này.
Con tàu này mang số hiệu Trục Vớt 08, trọng tải chỉ một nghìn tấn, tốc độ hai mươi hải lý một giờ, cao nhất là hai mươi lăm hải lý một giờ. Nó được xếp vào dạng thuyền trục vớt trên biển, nhưng không có chức năng trục vớt, vì không được trang bị hệ thống cần cẩu cỡ lớn, chỉ có một cái càng gắp lắp ở đuôi tàu. Trên tàu có vài bộ đồ lặn, nhưng không thể thực hiện các thao tác hàn hay cắt dưới nước. Thiết bị đáng giá nhất là một chiếc máy sonar42 thăm dò đáy biển do Thụy Điển sản xuất, dùng để dò tìm xác tàu thuyền đắm.
Nói cách khác, lần này ra biển, chúng tôi chỉ có thể định vị thuyền đắm rồi lặn xuống vớt đồ lên, chứ không cách nào trục vớt được cả con thuyền. Tôi hết sức bất lực, nhưng đây đã là những trang thiết bị tốt nhất huy động được trong khoảng thời gian ngắn rồi. Tàu khảo sát của người Nhật cũng đã xuất phát gần như cùng lúc với chúng tôi, còn lừng chừng nữa sẽ bị họ nẫng# tay trên mất.
Tàu Trục Vớt 08 xuất phát từ Thượng Hải, ngoài các thủy thủ còn có tôi, Dược Bất Thị, Phương Chấn, Thẩm Vân Sâm và Đới Hải Yến, còn lại là một giáo sư chuyên ngành khảo cổ dưới nước tên Lâm Xuyên và một thợ lặn chuyên nghiệp.
Có Phương Chấn đi cùng, tôi yên tâm hẳn. Chẳng rõ chức vụ cụ thể của y là gì, nhưng y luôn vào vai điều phối viên, dưới thì với Sở Công an Thiệu Hưng, trên thì với Bộ Giao thông Vận tải và Hải quân, chẳng ban ngành nào y không phối hợp được cả. Lần này ra biển có y đi cùng, đại diện cho ý chí của ban ngành hữu quan, còn là ban ngành hữu quan nào và ý chí ra sao thì tôi không rõ.
Đới Hải Yến giao hẹn trước với tôi đã đành, ngay Thẩm Vân Sâm không ngờ cũng đi theo. Trên biển thiếu thốn kham khổ, tôi vốn không đồng ý để bà cụ thân chinh ra trận, song bà chỉ tủm tỉm cười mở va ly màu gỗ trắc, lấy ra một chồng những mảnh gỗ. Những mảnh gỗ này đều làm bằng gỗ lim, một bộ mười hai mảnh.
Tôi còn chưa kịp nói gì, Đới Hải Yến bên cạnh đã ồ lên kinh ngạc, “Bảng khiên tinh kìa!” Bấy giờ tôi mới biết đây là bảng khiên tinh được người xưa dùng định vị đo đạc góc sao.
Bộ bảng khiên tinh bà Sâm lấy ra được giữ gìn hoàn hảo, điểm ngắm, vạch chia, chữ khắc bên trên vẫn rõ mồn một, trên dưới bảng đều có dấu hằn do căng dây lúc đo đạc. Mặt lưng viết “Chế tác thời Ung Chính Đại Thanh” và “Tuyền Châu”, thoạt trông đã biết là dụng cụ của đoàn buôn Phúc Kiến vào những năm Ung Chính.
Thời Thanh cấm biển nghiêm ngặt, hai triều Thuận Trị và Khang Hy đều thi hành lệnh cấm biển Nam Dương, tàu bè thảy không được dong buồm ra khơi. Tới thời Ung Chính mới xóa bỏ lệnh cấm, mở bốn bến cảng giao thương, ngành mậu dịch viễn dương vừa chớm khởi sắc thì Càn Long lên ngôi lại đóng cửa hoàn toàn, cho đến tận chiến tranh Nha phiến. Những bảng khiên tinh này có lẽ được giới thương nghiệp Phúc Kiến chế tác để đi biển sau khi Ung Chính xóa bỏ lệnh cấm biển Nam Dương, hết sức ý nghĩa, tượng trưng cho lần cuối ôm lấy bể khơi của Trung Quốc cổ đại.
Giá trị những tấm bảng này thực không nhỏ. Tất cả đều làm từ gỗ mun, được bào nhẵn bóng, bên ngoài nâu vàng, cầm tay thấy nặng trịch. Gỗ mun còn gọi là gỗ đen, thực chất là gỗ bị than hóa cứng như đá trong hoàn cảnh đặc biệt nào đó. Chất gỗ mun vừa bền vừa cứng, không sợ gió biển ăn mòn, là nguyên liệu tốt nhất để làm dụng cụ đo đạc khi đi biển. Giới cổ vật có câu rằng: “Nhà có nửa súc gỗ mun, còn hơn cả rương châu báu”, đủ thấy giá trị nhường nào. Bộ bảng khiên tinh bằng gỗ mun này có tổng cộng mười hai tấm từ nhỏ tới lớn, là cả một gia tài. Có điều nói đi cũng phải nói lại, biển khơi trùng trùng nguy hiểm, chẳng ai lại tiếc tiền không đầu tư thiết bị định vị cả.
Kỹ thuật đi biển thời Thanh sa sút nặng nề, tới thời cận đại, các thiết bị phương Tây ồ ạt tràn vào Trung Quốc. Thuật khiên tinh dần thất truyền, bảng khiên tinh cũng chẳng còn mấy bộ, rất hiếm gặp trên thị trường cổ vật. Chỉ có bậc lão làng Thanh môn như Thẩm Vân Sâm, am hiểu đồ gỗ mới có cửa tìm ra một bộ thế này thôi.
Trục Vớt 08 có thiết bị định vị hiện đại, tính chính xác cao hơn hẳn bảng khiên tinh. Có điều dù sao mốc định vị cũng được viết bằng ngôn ngữ cổ, nếu có thể dùng bảng khiên tinh cổ để kiểm tra lại thì càng chuẩn xác hơn. Đây đúng là một món quà quý.
Nghe tôi cảm ơn, Thẩm Vân Sâm chỉ cười, “Trong vụ đầu Phật và Thanh minh thượng hà đồ, tôi chẳng giúp gì được cậu, nếu lần này cũng khoanh tay ngồi nhìn, về sau còn mặt mũi nào gặp ông Minh nữa?” Nói tới đó bà đảo mắt, càng thêm cao hứng, “Huống hồ kho báu dưới thuyền đắm là một chủ đề tuyệt hay. Sau khi Nhiếp Vệ Bình thắng liền bảy ván trong giải cờ vây Trung - Nhật, toàn dân mới bắt đầu học chơi cờ. Nếu lần này chúng ta thắng lợi trở về, chưa chừng cả nước lại quay ra chơi đồ cổ cũng nên. Tới lúc đó chúng ta cũng quay một bộ phim phiêu lưu mạo hiểm theo kiểu Thiếu Lâm tự, tuyên truyền cho Hội nghiên cứu giám định cổ vật Trung Hoa, đây sẽ là bước xúc tiến phát triển cực lớn.”
Tôi gượng cười, nói đi nói lại vẫn quay về chuyện làm ăn buôn bán, thảo nào bà ta cứ khăng khăng đòi theo, té ra dụng ý thực sự là ở đây.
Tôi cầm bộ bảng khiên tinh còn chưa ấm tay đã bị Đới Hải Yến tranh mất, nói rằng chẳng mấy khi có hiện vật, phải tranh thủ nghiên cứu cách dùng mới được. Từ khi lên tàu, cô chẳng trò chuyện với người khác, phần lớn thời gian chỉ ru rú trong phòng, hoặc một mình đứng ở đầu thuyền, giơ cao bảng khiên tinh chẳng hiểu hí hoáy làm gì. Thoạt đầu mọi người còn lấy làm lạ, dần dà cũng quen.
“Nếu tôi là đàn ông thì các vị đã chẳng thấy lạ, đúng không?” Có lần Đới Hải Yến hỏi tôi. Tôi vội chống chế, “Làm gì có chuyện đó?” Đới Hải Yến nhún vai, “Ánh mắt anh bán đứng anh rồi. Cứ như chỉ đàn ông mới được nghiên cứu khoa học không bằng.”
Ý cô nói tới Lâm Xuyên. Giáo sư Lâm Xuyên chuyên nghiên cứu ngành khảo cổ học dưới nước, theo quy định, lần này ra biển khảo sát chỉ ông ta mới đủ tư cách dẫn đoàn. Tuy trên tàu có rất nhiều nhân vật trong Minh Nhãn Mai Hoa, song nói tới khảo cổ dưới nước thì người ta mới là chuyên gia.
Lâm Xuyên rất thân với Hoàng Khắc Vũ, lần này cũng là được ông Vũ nhờ vả, dĩ nhiên bản thân ông ta cũng vô cùng hứng thú. Nên biết rằng trong con thuyền đắm kia là sứ Sài, hơn nữa còn tận mười món! Chỉ riêng hai chữ “sứ Sài” đã đủ khiến bất cứ tay chơi cổ vật nào phát cuồng lên rồi.
Lâm Xuyên là người Tô Châu, nét mặt hơi nữ tính, trông khá hiền hậu, nói năng cũng nhẹ nhàng rủ rỉ, không lại gần thì khó mà nghe rõ. Nhưng bề dày kinh nghiệm của ông ta không phải dạng vừa, từ những năm sáu mươi đã bắt đầu nghiên cứu khảo cổ học dưới nước, là một trong mấy chuyên gia ít ỏi trong nước, tổng cộng đã tìm kiếm trục vớt mười mấy con thuyền cổ, rất dày dạn kinh nghiệm.
“Cậu biết không? Theo thống kê của UNESCO, trên toàn thế giới ít nhất vẫn còn ba triệu tàu thuyền đắm từ thời cổ chưa được phát hiện. Điều này có nghĩa là gì? Nhân loại mới chỉ có năm nghìn năm lịch sử được ghi chép rõ ràng, vậy trung bình mỗi năm phải đắm sáu trăm tàu thuyền, mỗi ngày hai chiếc, như thả sủi cảo ấy. Chỉ riêng vùng ven biển nước ta và khu vực Đông Nam Á, chí ít cũng phải hơn ba nghìn tàu thuyền Trung Quốc bị đắm. Một kho báu dồi dào làm sao. Nếu không trục vớt tử tế, sẽ chỉ báu người nước ngoài trục lợi thôi.”
Vừa gặp mặt, Lâm Xuyên đã kéo tay tôi nói thao thao một tràng toàn số liệu, hết sức nghiêm túc. Khảo cổ học dưới nước ở Trung Quốc lâu nay không được coi trọng, có lẽ ông ta đã bị ghẻ lạnh một thời gian dài, lần này khó khăn lắm mới có người chịu bỏ ngân sách ra biển khảo sát, ông ta mừng là phải. Tôi rất mến ông ta, có cảm giác là học giả đơn thuần, không mưu mô tính toán.
Đi cùng chúng tôi còn một thợ lặn là cộng sự lâu năm của Lâm Xuyên, phụ trách thăm dò thực địa đáy biển. Ông ta tên Chung Sơn, tính kiệm lời, chẳng mấy khi trò chuyện với tôi, nhưng theo lời Lâm Xuyên thì người này kinh nghiệm phong phú, kỹ thuật lặn biển không chê vào đâu được, khảo sát tàu đắm là công việc cực kỳ nguy hiểm, không có ông ta không được.
Đây là toàn bộ các thành viên nòng cốt trong chuyến khảo sát của chúng tôi lần này, nói thực là nhân lực hơi mỏng. Nhưng trong thời gian ngắn, huy động được ngần ấy người và trang thiết bị là giỏi lắm rồi.
Tàu chúng tôi xuất phát từ Thượng Hải, đi thẳng về phía Đông Nam. Mục tiêu của chúng tôi là vùng biển Hoa Đông mênh mông cách đó hơn hai trăm hải lý. Để đề phòng tua bin cũ gặp trục trặc nên tàu đi khá chậm. Thuyền trưởng bảo chúng tôi, để tới được vùng biển dự kiến, phải mất khoảng hai ngày.
Bốn mốc định vị giấu trong bộ chóe sứ thanh hoa vẽ tích cổ thời Vạn Lịch bao gồm: “Cơ long ra biển dùng giáp mão kim sáu canh - Sao Bắc Thần mười một lóng rưỡi mặt nước - Sao Hoa Cái một lóng mặt nước - Phía Tây nhìn sao Sư Tử một lóng rưỡi.” Đới Hải Yến từng giải thích rằng Cơ Long là một thành phố cảng thuộc Đài Loan, giáp mão chỉ phía Đông Bắc, sáu canh là mười hai tiếng. Khi góc tạo thành giữa ba ngôi sao Bắc Thần, Hoa Cái, Sư Tử với mặt biển lần lượt là mười một lóng rưỡi, một lóng và một lóng rưỡi thì vị trí của con tàu chính là nơi thuyền đắm. Việc còn lại là quy đổi sang kinh vĩ độ hiện đại và hàm số lượng giác thôi.
Tuy thiếu một mốc định vị, song Đới Hải Yến vẫn tính ra được phạm vi sơ lược. Vị trí đại khái của thuyền Fukukou nằm ở 25°44' độ vĩ Bắc, 123°28' độ kinh Đông, không cụ thể hơn được nữa. Đới Hải Yến cho tôi biết, có lẽ khu vực đắm thuyền sẽ khá rộng, áng chừng phải 70.000 ki lô mét vuông. Dùng tàu nhỏ này thì đành phải tìm dần từng chút một.
Phiền phức hơn là vùng biển này nằm ngay cạnh khu vực nhạy cảm, vì vậy mới đầu khi phê duyệt, cơ quan chủ quản cũng rất phân vân, hạn chế rất nhiều hành động của chúng tôi. Ví như lần này ra biển, trên danh nghĩa là do Hội nghiên cứu giám định cổ vật Trung Hoa chi tiền, thuê tàu trục vớt tiến hành công tác khảo sát, là hoạt động thương mại tư nhân, không phải do nhà nước chủ trương. Hơn nữa còn không cho phép chúng tôi lại gần bất kỳ hòn đảo nào trong hải phận gần đó để khỏi xảy ra xung đột không cần thiết.
Mùa này biển Hoa Đông khá êm ả, dọc đường không có gì nguy hiểm, phải cái nắng quá. Ban ngày phần lớn chúng tôi đều rúc trong khoang, tới khi mặt trời sắp lặn mới chui ra chụp mấy tấm ảnh. Bầu trời sao về đêm tuyệt đẹp, tiếc rằng thuyền trưởng nghiêm cấm đi lại lung tung, con tàu này trọng tải nhỏ, sóng gió hơi to đã tròng trành dữ dội, không cẩn thận lại ngã xuống biển thì toi. Chỉ hạng bạo gan như Đới Hải Yến mới dám lẻn ra ngoài, nói là muốn dùng bảng khiên tinh đo lường thì phải nhằm đêm có sao. Kết quả cô vừa sơ ý đã vấp phải dây thừng, suýt nữa rơi xuống biển, may có Dược Bất Thị đi ngang cứu được.
Bấy giờ Dược Bất Thị vẫn đang say sóng, nằm trong khoang chật chội ngột ngạt không thở nổi nên mói lên boong hít thở. Thấy Đới Hải Yến ngã nhào, anh ta vội giơ tay giữ cô lại, cứu chúng tôi khỏi bi kịch mất một viên đại tướng. Đoạn hai người cầm bảng khiên tinh nghiên cứu đến khuya lắc khuya lơ, tảng sáng mới ai về phòng nấy nghỉ ngơi.
Dược Bất Thị rất tán thưởng Đới Hải Yến, bảo tôi rằng cô biết lý lẽ. Ngầm ám chỉ những kẻ trước đây anh ta gặp đều không biết lý lẽ cả. Nhìn bản mặt nghiêm túc của anh ta, tôi trêu, “Anh thích người ta rồi chứ gì?” Dược Bất Thị trầm ngâm giây lát rồi nghiêng đầu, “Kể ra cũng hợp thật đấy.” Về sau không nói thêm gì nữa.
Tàu Trục Vớt 08 thuận buồm xuôi gió đã đi được một ngày rưỡi, khi sắp đến vùng biển dự kiến, Đới Hải Yến và Lâm Xuyên triệu tập mọi người lại bàn bạc để chốt phương án thăm dò tìm kiếm.
Lâm Xuyên chủ trì cuộc họp, phủ đầu ngay rằng, “Muốn xác định vị trí thuyền đắm hết sức phức tạp. Độ dốc đáy biển, dòng hải lưu, khí hậu, biến động địa chất đều có thể tác động làm xê dịch vị trí con thuyền. Có lúc thuyền còn trôi đi đến mười mấy hải lý ấy chứ. Mốc định vị theo thuật khiên tinh chỉ là vị trí thuyền Fukukou đắm lúc ấy thôi, từ thời Minh đến nay đã mấy trăm năm rồi, giờ con thuyền trôi tới đâu khó mà nói chắc được, khu vực 70.000 ki lô mét vuông mà cô Yến khoanh vùng chỉ là có nhiều khả năng tìm được hơn thôi.”
Nghe ông ta nói vậy, chúng tôi ngơ ngẩn nhìn nhau, bấy giờ mới biết mình đã suy nghĩ quá đơn giản. Tôi cứ ngỡ như trên đất liền, chỉ cần cầm bản đồ kho báu là tìm được. Lâm Xuyên nghiêm trang nói thêm, “Thậm chí các vị còn phải chuẩn bị tâm lý, trong một số tình huống cực đoan, con thuyền không được bảo tồn nguyên vẹn, các linh kiện bằng gỗ bị nước biển ăn mòn, mục nát rồi trôi đi, cuối cùng cả con thuyền rã nát.”
“Vậy ông ước tính chuyến này khả năng thành công là bao nhiêu?” Tôi nêu ra một câu hỏi hơi ngớ ngẩn.
Lâm Xuyên nhìn tôi, “Tư liệu thủy văn đáy biển khu vực này ở Trung Quốc còn thiếu thốn rất nhiều, chỉ biết đây là phần thềm lục địa nối dài, mực nước sâu không quá 100 mét, đáy biển khá bằng phẳng, xác suất tìm được thuyền đắm không thấp. Có điều gần đây là Trũng Okinawa, nếu con thuyền trôi về phía đó, hoặc rơi hẳn xuống đáy rãnh biển thì hết hy vọng.”
Đưa mắt nhìn, thấy chúng tôi có vẻ không hài lòng với câu trả lời nước đôi của mình, Lâm Xuyên thở dài, “Các vị đều là nhân tài của Minh Nhãn Mai Hoa, nhưng đâu có rành về khảo cổ học dưới nước. Tôi từng vớt mười mấy con thuyền, song phần lớn là thuyền đắm dưới lòng sông, bến cảng hoặc vùng nước cạn, thuyền chìm ngoài khơi xa thực sự ít như lông phượng sừng lân. Tôi phải nói rõ, đây là một nghề rất dễ đem đến cảm giác thất bại, tỷ lệ thành công cực thấp, phần lớn thời gian đều trôi qua trong thất vọng và hụt hẫng. Nếu các vị ôm quá nhiều hy vọng, e rằng kết cục sẽ không như ý đâu.”
Thẩm Vân Sâm nhìn mấy người trẻ tuổi chúng tôi rồi hắng giọng, “Ông Xuyên nói phải lắm. Chúng ta cứ cố gắng hết sức, được hay không thì tùy ông trời vậy.” Bà ta suy cho cùng cũng là người sắc bén, chỉ đôi câu đã giải tỏa được bầu không khí nặng nề: “Ông nói xem tiếp theo đây phải làm gì đi.”
Lâm Xuyên nói tiếp, “Tàu này có thiết bị sonar quét sườn, có thể quét được đặc điểm địa hình dưới đáy biển. Chúng ta bắt tay quét từ khu vực cô Yến khoanh vùng trước, chia ra thành các ô, đánh số rồi quét dần từng ô một. Máy sonar quét sườn này có độ phủ rộng 200 mét, nhận biết được thay đổi trong biên độ 1,5 mét, thế nên nếu địa hình cố chỗ gồ hẳn lên, thì rất có thể là xác tàu thuyền. Dĩ nhiên cũng có thể là gò đống hoặc khe rãnh.”
“Nghe có vẻ đơn giản nhỉ.” Tôi nhận xét.
“Về kỹ thuật thì không có gì phức tạp, chỉ nhàm chán lặp đi lặp lại thôi.” Lâm Xuyên nhìn tôi, “Khi quét, tàu phải chạy với tốc độ ba hải lý một giờ, men theo từng ô đã chia. Thiết bị sonar hoạt động năm tiếng lại phải tắt máy sạc pin ba tiếng. Cậu tính thử xem muốn quét hết 70.000 ki lô mét vuông phải mất bao nhiêu thời gian.”
Tôi nhẩm tính, không khỏi thầm chặc lưỡi. Lần này ra biển, dự toán tài trợ của Minh Nhãn Mai Hoa có hạn. Số tiền đầu tư trước mắt chỉ đủ để duy trì trong thời gian quét hết 70.000 ki lô mét vuông đã khoanh vùng mà thôi. Nói cách khác, trong quá trình quét không được xảy ra bất cứ sự cố nào, máy móc không được hỏng hóc, không được gặp gió bão, bởi chỉ cần đình trệ mấy ngày, sẽ không quét được hết toàn bộ vùng biển.
Người Nhật nhiều tiền hơn chúng tôi, có thể duy trì được nhiều ngày hơn. Nghĩ vậy tôi lại lo lo.
Trong lúc quét, sonar sẽ truyền tín hiệu thực tế về bộ thu, cần có người túc trực giám sát. Có điều quá trình này dài đằng đẵng, một người không thể đảm đương nổi nên phải thay phiên nhau. Sau đó Lâm Xuyên sắp xếp chia ca trực trước màn hình máy thu, tất cả mọi người trên tàu trừ thủy thủ đều phải tham gia, xong xuôi ông ta giảng giải một vài nguyên lý khảo sát địa hình đáy biển và kiến thức nhập môn để phân biệt địa hình, cho mở máy thị phạm mấy lần, rồi để chúng tôi thay phiên nhau thao tác.
“Thuyền Fukukou đã chìm dưới biển mấy trăm năm, chẳng biết hình dạng và mức độ phân rã ra sao, có nằm ở nơi địa hình phức tạp hay không, môi trường xung quanh có gây ảnh hưởng nhiều hay không. Dù sonar quét trúng được thì có thể cũng chỉ có vài ba tín hiệu truyền về thôi. Bởi vậy các cô cậu không được chủ quan, chỉ cần lơ đãng một hai giây không chú ý màn hình, rất có thể sẽ bỏ lỡ cơ hội, không cứu vãn lại được nữa đâu.”
Nghe vậy chúng tôi đều không dám lơ là, nghiêm túc học tập hệt như khi giám định cổ vật.
Nói thực, tôi cứ tưởng quá trình trục vớt cũng như trên phim, chỉ cần lấy được bản đồ kho báu là dong tàu ra vớt, đúng là quá chủ quan. Nghe giáo sư Lâm Xuyên giảng giải mới hay quy trình trục vớt tẻ nhạt mà khổ sở nhường nào.
Buổi tập huấn kéo dài cả nửa ngày, ai nấy đều phải ngồi máy thao tác mấy lần. Lâm Xuyên còn cho sonar xuống biển, diễn tập một lần, giảng giải về những tín hiệu thu được, dạy bọn tôi cách phân biệt tín hiệu nào ứng với địa hình gì. Trong bài sát hạch sau đó, người thành thạo nhất là Đới Hải Yến, có lẽ bởi phụ nữ tỉ mỉ hơn chăng. Tôi, Phương Chấn và Thẩm Vân Sâm ở mức trung bình, còn người lẹt đẹt xếp cuối không ngờ lại là Dược Bất Thị. Lâm Xuyên cười nói, “Muốn đọc những tín hiệu này phải tưởng tượng một chút, tình hình dưới biển thiên biến vạn hóa, chỉ trông vào những hình sóng trong sách vở mà so thì không được.”
Tôi liếc sang bên cạnh, hả hê nhìn vẻ mặt tiu nghỉu của con ngoan trò giỏi Dược Bất Thị.
Khi mặt trời chuẩn bị xuống núi, thuyền trưởng gọi điện vào, giáo sư Lâm nghe điện ậm ừ mấy câu rồi nhướng mày, vẻ ngạc nhiên. Ông ta đặt ống nghe xuống, nói với mọi người trong khoang, “Hai mươi phút nữa chúng ta sẽ tiến vào vùng biển tìm kiếm. Có điều radar vừa phát hiện một con tàu khác ở cách đây mấy hải lý.”
Tất cả đều dừng tay, mặt mày căng thẳng. Nơi này cách tuyến đường biển thông thường rất xa, không thể là tàu thuyền tình cờ ngang qua được. Chúng tôi vội túa ra boong tàu, hòng chính mắt nhìn cho rõ.
Lúc này mặt trời đã lặn một nửa, mặt biển đỏ bầm u ám. Chúng tôi chẳng còn bụng dạ nào ngắm cảnh, chỉ đổ dồn mắt nhìn chấm đen xa tít chân trời. Chấm đen càng lúc càng lớn, dần hiện rõ là một con tàu. Các thủy thủ lão luyện bảo chúng tôi, trọng tải tàu kia phải từ một nghìn năm trăm tấn trở lên, nhìn hình dáng thì cũng là tàu trục vớt, boong rộng thênh thang, rất có thể được lắp cả cần trục, xe tời và thiết bị trục vớt cỡ lớn, tóm lại sức chiến đấu mạnh hơn con tàu xập xệ của chúng tôi nhiều.
Con tàu kia cũng chạy thẳng về phía này, tốc độ rất nhanh. Trước khi mặt trời lặn hẳn xuống biển, chúng tôi đã trông rõ con tàu màu trắng sữa dáng khí động cùng lá cờ Nhật Bản tung bay trên tàu.
Đây nhất định là tàu trục vớt của Viện nghiên cứu Đông Bắc Á, họ cùng chung mục đích với chúng tôi, không ngờ còn đến vùng biển này cùng thời điểm. Nhìn con tàu khổng lồ nọ, tôi thầm nghĩ chưa chừng Dược Bất Nhiên và Liễu Thành Thao đều ở trên đó, có khi còn cả Lão Triều Phụng cũng nên. Tất cả đều nhắm đến thuyền Fukukou, chẳng ai chịu buông tay.
Sau khi trời tối hẳn, đèn tín hiệu trên con tàu đối diện chớp nháy mấy cái. Thủy thủ nói nếu gặp nhau trên tuyến đường biển thông thường, hai tàu sẽ chào hỏi đơn giản để tránh sự cố. Nhưng trong hải phận này, làm thế kia có lẽ là muốn gây hấn. Mấy cú nháy đèn ấy ý bảo nơi này gần khu vực kinh tế thuộc về Nhật Bản, yêu cầu chúng tôi nhanh chóng đi khỏi đây.
Nghe vậy, tôi tức điên, vỗ bộp vào lan can, “Họ dựa vào đâu mà đòi chúng ta đi cơ chứ?” Thẩm Vân Sâm khuyên nhủ, “Cậu có tức tối tàu bên kia cũng chẳng thấy đâu. Họ chỉ to mồm thế thôi, chứ làm gì được chúng ta?”
Dược Bất Thị lo lắng hỏi, “Lỡ họ gọi tàu tuần tra của cảnh sát biển Nhật Bản đến thì sao?”
Từ khi lên tàu, Phương Chấn rất ít khi mở miệng, bấy giờ mới lên tiếng, “Yên tâm đi, họ chỉ hư trương thanh thế thôi, không dám gọi tàu tuần tra của Nhật đâu. Nếu xảy ra tranh chấp trong khu vực này, theo quy định tất cả tàu bè có liên quan đều bị buộc phải rời đi. Tôi tin họ không đời nào bê đá đập chân mình như thế.”
“Nhưng có thêm con tàu kia kè kè bên cạnh khó chịu lắm!”
Phương Chấn thản nhiên đáp, “Còn một cách khác. Đến đêm chúng ta chèo xuồng cứu sinh sang, xử lý hết đám người trên tàu kia đi.” Giọng y đầy sát khí. Kẻ luôn thù địch đối đầu với chúng như tôi nghe thế cũng giật mình. Chúng tôi là tàu khảo cổ chứ đâu phải tàu cướp biển, chắc không cần đi đến bước ấy đâu.
Tôi vội xua tay phản đối, chợt nghe mọi người xung quanh cười ồ lên. Bấy giờ tôi mới nhận ra Phương Chấn chỉ đùa. Tay này nói giỡn mà cũng nghiêm trang như thật vậy.
Nhờ câu bông đùa của Phương Chấn, không khí cũng nhẹ nhõm hẳn đi, nhưng tâm trạng mọi người vẫn hết sức nặng nề. Bất luận ra sao, hai con tàu đồng thời xuất hiện ở khu vực này sẽ gây ra cạnh tranh quyết liệt, người Nhật chắc chắn không để chúng tôi dễ dàng tìm được thuyền Fukukou. Tàu của họ bất luận là trọng tải hay trang thiết bị kỹ thuật đều vượt xa chúng tôi.
Trận này thực khó đánh.
Riêng Lâm Xuyên vẫn đứng trên boong, chắp tay sau lưng, nheo mắt nhìn ra xa, thái độ khá bình tĩnh. Tàu Trục Vớt 08 đang nháy đèn trả lời, đại ý rằng đây là khu kinh tế của Trung Quốc, đề nghị đối phương lập tức đi khỏi. Sau khi tàu tôi phát tín hiệu, tàu bên kia im lìm không đáp.
Chẳng ai dọa được ai, tiếp theo phải so tài dưới biển thôi.
Thấy trời đã tối hẳn, Lâm Xuyên gọi chúng tôi quay trở vào khoang động viên, “Phương án tìm kiếm vẫn giữ nguyên, mọi người đừng để bị các yếu tố bên ngoài tác động. Trong lĩnh vực dò tìm thuyền đắm cổ đại này, kỹ thuật và vận may chiếm tỷ lệ 50-50. Kỹ thuật của chúng ta lạc hậu nhưng vận may thì chưa chắc.”
Câu này hoàn toàn chẳng có luận cứ khoa học nào, nhưng mọi người đều cười. Tôi chợt nhớ ra một chuyện, bèn tò mò hỏi, “Trước kia chắc từng có chuyện mấy bên cùng tìm một con thuyền thế này chứ? Thông thường trong trường hợp ấy quyền sở hữu phân định thế nào? Ai trục vớt được thì là của người đó à?”
“Cậu hỏi hay đấy.” Lâm Xuyên giải thích, “Vấn đề quyền sở hữu văn vật dưới thuyền đắm khá là phức tạp. Chủ thuyền, công ty hoặc cá nhân trục vớt, nơi sản xuất ra văn vật, lãnh thổ nơi thuyền đắm, nước sở tại gần đó nhất, đều có quyền sở hữu cả. Có điều theo thông lệ hiện hành thì đúng như cậu Nguyện nói, ai vớt được là của người ấy.”
Đoạn Lâm Xuyên kể ra một ví dụ. Năm 1912, tàu Titanic bị đắm tại hải phận quốc tế trên Đại Tây Dương. Đến năm 1985, một người Mỹ là Robert Ballard sau bao nỗ lực đã phát hiện ra vị trí xác tàu. Bấy giờ dấy lên tranh cãi dữ dội, người Anh cho rằng tàu Titanic thuộc về công ty White Star Line nên xác tàu phải thuộc về Anh; còn phía Mỹ lại khăng khăng rằng người phát hiện ra xác tàu là người Mỹ nên chủ quyền phải thuộc về Mỹ; người Canada cho rằng xác tàu chìm nằm gần khu kinh tế biển của Canada nên họ mới là chủ nhân thực sự. Ngay Pháp và Iceland, những nơi tàu Titanic đi qua trước khi bị đắm cũng có ý kiến. Giữa lúc các bên còn đương tranh cãi ầm ĩ về quyền sở hữu, các công ty trục vớt đã lũ lượt kéo đến toan trục vớt, thậm chí xung đột liên miên, cuối cùng các nước buộc phải ngồi xuống đàm phán...
So với những tranh đoạt quanh tàu Titanic, xung đột nho nhỏ giữa chúng tôi và người Nhật quanh thuyền Fukukou thực chẳng đáng gì. Dược Bất Thị chợt hỏi, “Khi xung đột, các công ty trục vớt kia sẽ giở những thủ đoạn gì?”
Lâm Xuyên đáp, “Tàu trục vớt là phương tiện giao thông phi quân sự, không gây ra xung đột vũ trang được, cùng lắm chỉ có thể làm đối phương nhiễu sóng, lợi dụng dòng hải lưu phá hoại gì đó, nghiêm trọng hơn là húc tàu thôi. Có điều làm vậy là phạm tội hình sự, sẽ phải ra tòa án hàng hải.” Dược Bất Thị gật đầu, như âm thầm suy tính gì đó rồi nói thêm, “Thực ra một năm trước khi phát hiện ra xác tàu Titanic, còn một sự kiện lớn có liên quan mật thiết tới Trung Quốc chúng ta.”
Vào năm 1984, một người Anh tên Michael Hatcher đã bỏ ra ba tháng dò tìm được một xác tàu buôn của công ty Đông An trên hải phận phía Tây Nam Hồng Kông. Con tàu này chìm vào năm 1752, Michael Hatcher tìm thấy ghi chép về nó trong một cuốn nhật ký đi biển cũ rích, nên đã âm thầm tới đó dò tìm. Ông ta không trục vớt toàn bộ con tàu mà lặn xuống nước nhiều lần, vớt lên hơn trăm nghìn món đồ sứ và hơn một trăm nén vàng, về sau những thứ này được đem tới sàn Christie's đấu giá, được hơn hai mươi triệu đô la, tất cả đều vào túi Micheal.
Lâm Xuyên vỗ đùi than thở, “Nếu chúng ta quan tâm sớm hơn thì những kho báu đó đã không bị lọt ra nước ngoài rồi. Nhà nước mới bắt đầu coi trọng ngành khảo cổ học dưới nước và việc trục vớt thôi. Tiếc rằng vẫn còn phải học hỏi rất nhiều, cần tiến từng bước một.”
Nói tới đây, ông ta nhìn lướt qua tất cả chúng tôi: “Các vị là người trong giới cổ vật, có quy củ riêng. Có điều tôi phải nói trước, lần này do tôi chủ trì, là hoạt động khảo cổ chính quy. Những thứ trục vớt được đều phải giao nộp cho nhà nước.”
Tôi gật đầu, mục đích của tôi không phải giữ chúng làm của riêng, cũng chẳng thèm thuồng gì mười món sứ Sài. Suy cho cùng bảo tàng mới là nơi tốt nhất để lưu giữ chúng. Người trên tàu mỗi người có động cơ và lý do riêng, nhưng không ai lăm le phát tài cả.
Tàu Nhật Bản cũng đã đến, chúng tôi phải tranh thủ thời gian. May mà gần đây thời tiết cực đẹp, sonar rà quét lại không cần ánh sáng, nên ngay tối hôm đó chúng tôi đã bắt đầu công cuộc tìm kiếm, thay phiên nhau theo dõi màn hình.
Theo dõi tín hiệu là một việc cực kỳ nhàm chán, trên màn hình chỉ thấy rặt những đốm sáng và đoạn thẳng, lặp đi lặp lại, nhưng người giám sát vẫn phải chăm chú quan sát, không được lơ là. Một tiếng đồng hồ mà dài đằng đẵng như một ngày. Song Lâm Xuyên còn vất vả hơn, chúng tôi đều mới học việc, hễ phát hiện thấy tín hiệu lạ lại ơi ới gọi ông tới xác nhận, sợ bỏ lỡ thời cơ. Thế nên suốt đêm ông gần như không được chợp mắt.
Thoạt đầu tôi còn ôm tâm lý cầu may, không chừng chúng tôi dò một lát đã tìm thấy ngay. Song thực tế chứng minh, tỷ lệ thành công của hành vi “mua xổ số trả nợ” này quá thấp, tôi đành kiên nhẫn tiếp tục quét từng ô.
Tàu khảo sát bên phía Nhật Bản cũng dùng cách tương tự. Hai ngày đầu tiên, đôi bên một quét bên Đông một quét bên Tây, tuy cách nhau không xa nhưng không hề chủ động áp sát, cũng không quấy rầy nhau. Có điều ban ngày thi thoảng nhìn sang lại thấy tàu bên kia sáng lóe lên. Rõ ràng đối phương đang chĩa ống nhòm nhìn sang bên này, chưa bao giờ lơi lỏng giám sát.
Tôi báo với Lâm Xuyên, ông ta chỉ cười khà. Tới ngày thứ ba, tàu Trục Vớt 08 đột ngột thay đổi nhịp điệu chạy và rà quét, thỉnh thoảng lại chạy chậm lại, rồi chạy vòng quanh thành một vòng tròn, thậm chí có khi còn dừng hẳn, hạ càng gắp xuống xúc bùn đất dưới biển lên.
Tôi ngơ ngác không hiểu, rõ ràng đáy biển bên dưới không có gì lạ cả, sao phải xúc bùn lên?
Lâm Xuyên hỏi, “Cậu nói xem nếu là thuyền trưởng tàu tìm kiếm, gặp phải đối thủ cạnh tranh ngay trong vùng biển mình đang rà soát, cậu lo nhất là gì?”
Tôi nghĩ ngợi rồi đáp, “Đối phương tìm được vị trí thuyền đắm trước.”
“Còn gì nữa?”
“Ta tìm được vị trí thuyền đắm nhưng lại bị đối phương phát hiện.” Giờ tôi mới lờ mờ hiểu ra tư duy của Lâm Xuyên. Trên mặt biển mênh mông chẳng có gì che chắn, mà muốn định vị thuyền đắm phải thả neo đỗ lại lúc lâu, động tác rất rõ ràng. Chỉ cần một bên phát hiện được vị trí thuyền đắm, bên kia sẽ biết ngay, hai bên không giấu giếm nhau được gì cả.
“Chuyện này cũng như đánh trận thôi. Ta phải nhìn thấu ý đồ của kẻ địch thật mau, đồng thời giấu kỹ ý đồ của mình. Nếu tìm được vị trí thuyền đắm, cậu sẽ làm gì?” Lâm Xuyên từng bước giảng giải.
“Vờ như chưa phát hiện, ghi lại vị trí, chờ đến tối mới bắt tay tác nghiệp.”
“Nghĩ sâu hơn nữa đi.”
Trong đầu tôi chợt nảy ra một ý, “Thỉnh thoảng tôi sẽ lại dừng thuyền, để đối phương không biết lần nào mới là thật. Giấu lá vào rừng.”
Lâm Xuyên gật đầu cười, “Chính xác, đằng nào cũng không giấu được, thôi thì cho chúng thấy thêm, tăng độ nhiễu.”
Người ta vẫn nói mọi việc trên đời đều có chung nguyên lý. Giới cổ vật cũng có mánh khóe tương tự. Ở vùng Quan Trung có rất nhiều mộ lớn, dăm ba ngày không trộm hết được. Đám trộm mộ sợ có kẻ cùng nghề nhòm ngó, thường đào một lúc ba bốn miệng hầm, trong đó chỉ có một lối thông thẳng vào địa cung. Đây gọi là “thỏ khôn có ba hang, chỉ một cái là thật”.
Lâm Xuyên lại nói, “Về phía chúng ta, vừa đi vừa dừng thế nào cũng được, chẳng thiệt hại gì nhiều. Nhưng trong mắt người Nhật, mỗi lần chúng ta dừng thuyền giảm tốc đều có khả năng là phát hiện được dấu vết thuyền đắm. Họ nhất định phải ghi lại đợi đến đêm tìm cơ hội kiểm chứng. Dù biết rõ chúng ta đang tung hỏa mù, cũng không dám khinh suất, lỡ như có một lần là thật thì sao? Cứ giằng dai như vậy, họ sẽ hao tốn nhiều nhiên liệu và đồ tiếp tế, chóng phải quay thuyền về cảng.”
Hóa ra còn mục đích ấy nữa, tôi tặc lưỡi nhủ bụng, các chiêu đấu đá ngấm ngầm giữa hai tàu kinh thật.
“Có điều... nếu người Nhật cũng giở trò này, chúng ta ứng phó thế nào đây?”
Lâm Xuyên phẩy tay, “Mặc họ, chúng ta cứ theo phương án đã định, lần lượt dò tìm thôi.” Nói tới đó, ông vỗ đùi than, “Tàu chúng ta nhỏ, thời gian vận hành liên tục hạn chế, không giao đấu chính diện được, nên không thể để người khác dắt mũi dẫn đi.”
Nói trắng ra là chúng tôi nghèo còn họ giàu. Người giàu đi với người nghèo mấy hôm cũng chẳng sao, còn người nghèo đu đeo người giàu một ngày thôi đã khuynh gia bại sản. Thế nên sách lược này nhìn thì cao minh, thực ra chỉ là bất đắc dĩ.
Trong mấy ngày tiếp theo, hai con tàu vẫn ngấm ngầm đấu đá, tựa hai chiếc máy cày không ngừng cày đất, chạy qua chạy lại như con thoi trên biển, để lại vệt đuôi dài dằng dặc. Cứ vậy năm ngày, mười ngày, mười lăm ngày, phạm vi rà soát dần mở rộng, chúng tôi phát hiện được mấy chỗ đáy biển gồ lên rất khả nghi, tiếc rằng chẳng bao lâu đã chứng minh không phải đá ngầm thì là gò đồi. Phía Nhật Bản cũng chẳng thu hoạch được gì, ít nhất là theo chúng tôi quan sát, bởi họ chưa hề khởi động cần trục lần nào.
Hồi nhỏ đọc truyện cổ tích và tiểu thuyết thường tưởng tượng trong lòng biển khơi muôn màu muôn vẻ, có nàng tiên cá có cướp biển, có bạch tuộc khổng lồ có cung điện long vương, nhưng khi thực sự sống trên biển, sẽ thấy chán ngắt. Quang cảnh xung quanh lúc nào cũng vậy, ngay con tàu Nhật Bản cũng trở thành một phần bối cảnh, chẳng còn mang lại cảm giác phấn khích như lúc đầu nhìn thấy. Đôi khi thậm chí tôi còn ước giá có trận bão lớn đổi khẩu vị.
Khó chịu hơn nữa là điều kiện sống. Trên tàu này không có điều hòa, ban ngày trong khoang nóng hầm hập như nung, tưởng chừng không sao ở được. Nước ngọt có hạn, chỉ đủ để uống, không cách nào tắm rửa, cùng lắm chỉ có thể dùng khăn bông lau người. Bọn tối# đàn ông còn đỡ, khổ nhất là hai người phụ nữ, đặc biệt là Đới Hải Yến, cô vốn tính sạch sẽ, vậy mà ra biển lại không sao tắm táp được, đúng là khổ hơn cả chết.
Nhưng suy cho cùng Đới Hải Yến vẫn là tiến sĩ Sinh học, cô chế ra một máy lọc nước biển đơn giản, cấu tạo chỉ là một cái nồi nhôm, miệng căng nilon, ở giữa dùng một cây gậy nhỏ chống lên như lều trại, bên cạnh đục một lỗ nhỏ, lắp máng dẫn nước chảy vào cốc. Trong nồi đổ đầy nước biển, đặt ngoài boong phơi nắng. Nước biển bốc hơi bay lên, ngưng đọng lại trên màng nilon thành nước ngọt rồi chảy dọc theo thành màng vào máng dẫn bên dưới.
Cách chưng cất này chẳng thu được bao nhiêu nước, cũng không thể uống trực tiếp, nhưng lau người thì không vấn đề, ít còn hơn không.
Bà Thẩm Vân Sâm tỏ ra hết sức bình thản, vẫn ăn mặc tề chỉnh như thường. Theo lời bà ta thì lòng tĩnh tại tự khắc sẽ mát, thanh niên các cậu không chịu được nóng là vì suy nghĩ quá nhiều chuyện rối rắm. Nói thì nói vậy nhưng tôi vẫn ngầm thống nhất với thuyền trưởng và Lâm Xuyên, hễ bà ta có triệu chứng gì không ổn, lập tức quay tàu trở về.
Về phần Dược Bất Thị, những lúc không phải trực, anh ta đều ôm một cuốn ghi chép hàng hải vùi đầu nghiên cứu, còn hí hoáy viết lách, chẳng biết làm trò gì. Có điều tôi cũng không gặng hỏi, bởi biết chỉ tốn công, chưa tới lúc anh ta sẽ không nói. Những lúc không phải trực, phần lớn thời gian Phương Chấn đều ở trong phòng thuyền trưởng, cũng không rõ đang làm gì.
Tôi chẳng có ai để trò chuyện, đành quay ra tán gẫu với bác thợ lặn Chung Sơn, dần dà lại thành thân thiết. Bác ta vốn là lính hải quân xuất ngũ, từng làm người nhái, tác phong nghiêm chỉnh như bộ đội, ngày ngày đều lau chùi bảo quản các thiết bị lặn một lượt. Tôi chủ động bắt chuyện hỏi han, tuy bác ta kiệm lời nhưng rất say mê chuyên ngành của mình, hễ nhắc tới lặn biển là thao thao bất tuyệt.
Tôi chẳng có việc gì làm, bèn năn nỉ# bác ta dạy lặn. Chung Sơn mau mắn nhận lời, bắt đầu giảng cho tôi một số kiến thức lặn biển cơ bản. Khi dừng thuyền kiểm tra bảo dưỡng theo thông lệ, bác ta còn dẫn tôi cùng xuống nước trải nghiệm. Tầng nước nông ở khu vực này trong văn vắt, ánh nắng ấm áp rọi xuống, soi sáng mọi vật xung quanh, tôi thả sức quẫy đạp tay chân trong nước, ngoi lên ngụp xuống, cơ thể như bay lượn giữa bầu không. Chẳng mấy chốc tôi đã đâm ra mê môn này.
Ngoài ra, từ miệng Chung Sơn, tôi cũng biết thêm một bí mật: kẻ tưởng chừng không gì không biết như Phương Chấn hóa ra lại không biết bơi, là một con vịt cạn chính hiệu, thảo nào y không thích lên boong dạo chơi.
Đây cũng coi như thú vui duy nhất trong những ngày nhàm chán trên biển…
Tới ngày hai mươi lăm, công việc rà quét nhạt như nước ốc bỗng xuất hiện một bước ngoặt.
Một giờ chiều hôm ấy, nắng chói chang, chúng tôi đều mệt lử, gà gật buồn ngủ. Phương Chấn đang canh màn hình, phát hiện được một chỗ gồ lên. Chỗ gồ này chỉ cao khoảng 50 xăng ti mét, lý ra không có gì đặc biệt, nhưng Phương Chấn kiểm tra lại, phát hiện trước đó cũng đã xuất hiện những điểm gồ tương tự, tổng cộng bốn lần, khoảng cách thời gian giống hệt nhau. Y vội gọi Lâm Xuyên tới, Lâm Xuyên xem xét rồi nói khoảng cách giữa các chỗ gồ lên có quy luật như vậy, rất có thể là một vật thể nhân tạo.
Hay tin này, cả tàu hào hứng hẳn, túm tụm lại quanh màn hình. Lâm Xuyên lập tức lệnh cho tàu quay đầu vòng lại vị trí vừa rồi, rà soát thêm lần nữa. Phải biết rằng đáy biển chằng chịt những khe rãnh, địa hình phức tạp tương tự đất liền, quét một lần khó mà nắm rõ được tất cả chi tiết.
Kết quả quét lần hai cũng giống hệt như lần đầu. Lâm Xuyên trầm ngâm giây lát rồi bảo Chung Sơn chuẩn bị lặn xuống xem thử.
Chung Sơn lúc nào cũng chuẩn bị, sẵn sàng, mặc đồ lặn xong, bác ta nhảy ùm xuống biển, lặn mất dạng. Chúng tôi thấp thỏm đợi trên tàu, chừng ba mươi phút sau, Chung Sơn ngoi lên nói trông thấy một vật thể đen dài và hẹp dưới đáy biển, bước đầu quan sát có vẻ là mảnh vỡ mạn thuyền gỗ, dài khoảng 3 đến 4 mét, một mình bác ta không thể vác lên được. Tin tốt là xung quanh rất bằng phẳng, địa hình không phức tạp, dễ trục vớt.
Tàu chúng tôi bắt đầu khỏi động càng gắp dưới nước, tời thép rít lên ken két, chiếc càng gắp vuông vắn như một con quái thú thọc xuống nước, dưới sự điều khiển của Chung Sơn, từ từ hạ xuống phía trên vị trí chỉ định. Nó há to miệng gắp bằng thép, sục mạnh vào cát, khuấy đục ngầu đáy biển, sau mười mấy lần đào bới, cuối cùng cũng gắp được một mảnh đen sì lên boong.
Sau khi xối nước rửa sạch, chúng tôi xúm lại xem, thấy đó là một mảnh ván gỗ dài, bên trên đầy những vỏ ốc vỏ hà lổn nhổn, đã không còn nhận ra nổi nước sơn ban đầu. Mấy chỗ gồ mà Phương Chấn phát hiện qua tín hiệu thực ra là mấy thanh gỗ dựng thẳng đóng vào mảnh ván, tuy không còn nguyên vẹn nhưng vẫn nhìn ra được hình dạng cong cong, Lâm Xuyên cho rằng đây rất có khả năng là một bộ phận gắn phía ngoài mạn thuyền, gọi là chắn sóng. Những thanh chắn sóng này có thể gỡ ra được, gặp lúc sóng to gió lớn sẽ dùng để tạm thời nâng cao mạn thuyền, đề phòng nước tràn lên boong, sau khi sóng yên gió lặng lại gỡ ra.
Tuy không thể xác định mảnh chắn sóng này có phải của thuyền Fukukou hay không, nhưng chí ít cũng chứng minh quanh đây có một con thuyền đắm. Rất có thể khi thuyền đắm, nó đã long ra khỏi mạn thuyền, trôi đi một quãng.
Phát hiện này khiến tất cả đều mừng rỡ. Tôi lo lắng nhìn sang con tàu Nhật Bản rồi hỏi Lâm Xuyên, “Chắc người Nhật đã để ý thấy động tĩnh của chúng ta rồi, lỡ họ tiến lại đây thì sao?”
Lâm Xuyên cười đáp, “Mấy hôm nay chúng ta đã dừng thuyền hàng chục lần, huy động càng gắp và thợ lặn hơn mười lần. Thực chính là hư, hư chính là thực, họ tạm thời vẫn chưa xác định được lần này là vờ hay thực, nên sẽ không tùy tiện áp sát đâu.”
“Vậy chúng ta phải làm gì?”
Ông ta vẽ một vòng tròn lên bản đồ, “Lấy vị trí tìm được mảnh thuyền đắm làm tâm, con thuyền chắc hẳn sẽ nằm trong phạm vi này. Trọng điểm rà soát tiếp theo sẽ tập trung tại đây. Dĩ nhiên không được thay đổi tuyến đường tìm kiếm quá lộ liễu, để bọn họ nhận ra sơ hở.”
Tìm kho báu trên biển đúng là một việc vừa nhàm chán vừa nhức đầu, phải liên tục dò đoán tâm tư đối phương.
Phát hiện được mảnh chắn sóng, lòng tin của mọi người vốn đang sụt giảm rốt cuộc đã tăng trở lại. Mấy ngày tiếp theo, tàu chúng tôi âm thầm rời khỏi tuyến đường đã định, chạy vòng quanh vị trí tìm được mảnh thuyền. Người Nhật hoàn toàn không phát hiện ra, vẫn ở xa xa tìm kiếm theo nhịp độ riêng. Tiếc rằng vận may của chúng tôi tạm thời đã mất sạch, liền ba ngày chẳng thu được gì, mấy lần huy động càng gắp nhưng chỉ xúc lên được một đống rong tảo và vỏ sò.
Chuyện này chẳng có gì lạ, dù sao mảnh chắn sóng cũng bằng gỗ, trước khi chìm xuống đáy biển có thể đã trôi bập bềnh mấy chục thậm chí cả trăm ki lô mét.
Tới ngày thứ ba, Dược Bất Thị đột ngột tìm tôi, triệu tập tất cả mọi người lại, nghiêm túc tuyên bố, “Tôi cảm thấy chúng ta rất có thể đã mắc bẫy.”
Anh ta tự dưng nói vậy làm ai nấy đều sững người. Dược Bất Thị lấy ra một cuốn sổ, bên trên kẻ ô tọa độ ngay ngắn, dùng bút chì màu xanh đỏ đánh dấu những đường dài ngắn, thoạt nhìn khiến người ta hoa cả mắt.
Dược Bất Thị nói anh ta vẫn luôn ghi chép lại tuyến đường rà soát của tàu Nhật Bản, trên cuốn sổ có ba ô cạnh nhau, hai ô hai bên dùng bút chì xanh vẽ đường nét liền, lần lượt đánh số 14,15, ô ở giữa vẽ đường nét đứt. Dược Bất Thị giải thích rằng 14 và 15 là ngày thứ 14 và 15 từ khi bắt đầu tìm kiếm, đường nét liền tượng trưng cho tuyến đường ban ngày của tàu Nhật Bản còn đường nét đứt tượng trưng cho tuyến đường ban đêm. Bởi ban đêm không quan sát được, chỉ có thể theo dõi dựa vào radar trên tàu nên đánh dấu bằng đường nét đứt.
Đây không phải cách ghi chép ô lưới chuẩn tắc, mà do Dược Bất Thị tự nghĩ ra. Tuy không đúng quy phạm nhưng rất rõ ràng. Lâm Xuyên vừa xem vừa tấm tắc khen ngợi.
Trên cuốn sổ thể hiện rõ, vào ngày thứ 14 và 15, tàu Nhật đã đi qua hai rìa khu vực chúng tôi phát hiện tấm chắn sóng, nói cách khác, rất có thể ban đêm họ đã đi qua vị trí vớt được mảnh chắn sóng rồi. Nhưng khu vực này chỉ khoảng 15 ki lô mét vuông, vừa đi vừa rà soát cũng chẳng cần đến một đêm. Cách giải thích duy nhất là tối ngày thứ 14 tàu Nhật Bản tiến vào khu vực nọ, đậu ở đó cả đêm đến sáng ngày thứ 15 mới đi khỏi.
Dược Bất Thị nhìn Chung Sơn, “Tôi nhớ bác từng nói địa hình xung quanh mảnh xác thuyền này rất bằng phẳng, dễ trục vớt đúng không?” Chung Sơn trả lòi, “Đúng thế, quanh đó không có khe rãnh lớn, cũng chẳng có đá ngầm, địa hình cao thấp không quá năm độ. Mảnh chắn sóng lộ ra rất rõ, như hạc giữa bầy gà.”
Dược Bất Thị gật đầu, rồi lại nhìn sang mọi người, “Tôi không hiểu các vấn đề kỹ thuật, nhưng với trình độ tìm kiếm của người Nhật, sao có thể đỗ ở đó cả đêm mà không phát hiện chỗ gồ lên lồ lộ như thế được? Vậy mà hôm sau họ chẳng có động tĩnh gì, trái lại còn nghênh ngang đi khỏi, để chúng ta vớ bở. Điều này thực sự đáng ngờ.”
“Có lẽ họ sợ chúng ta phát hiện nên vờ như không tìm kiếm được gì chăng?” Thẩm Vân Sâm đoán mò.
“Vậy thì chí ít cũng phải lòng vòng quanh đây, đợi thời cơ tiếp cận mới phải chứ. Giống chúng ta ấy.” Dược Bất Thị lại chỉ vào sổ, “Mấy ngày sau đó, tàu Nhật vẫn chạy chếch về phía Đông Bắc, ngược hướng với vị trí này, chẳng có gì là lưu luyến cả.
Đới Hải Yến chợt chen ngang, “Mảnh chắn sóng kia là mồi nhử à?”
Dược Bất Thị gật đầu tán thành. Tư duy của hai bọn họ nhảy cóc hơi nhanh, tôi và những người khác không theo kịp. Dược Bất Thị nhìn tôi, giọng kẻ cả, “Có lẽ vào đêm ngày 14, người Nhật đã chạy qua khu vực này, ném mảnh chắn sóng xuống biển, còn chọn một nơi dễ bị chúng ta phát hiện nữa. Bởi đang giữa đêm nên loạt hành động này không lo bị phát hiện. Xong xuôi họ nghênh ngang bỏ đi. Cũng có nghĩa là mảnh chắn sóng kia là mồi nhử để giữ chúng ta quanh quẩn vô ích trong khu vực này.”
Phương Chấn vặn lại, “Sao họ tính được chúng ta chắc chắn sẽ chạy tới đó?” Dược Bất Thị giơ cuốn sổ trong tay lên, “Đôi bên đều rà soát theo ô lưới, chúng ta tính ra được tuyến đường của họ, họ cũng có thể nắm được tuyến đường của ta. Đêm thứ 14 họ làm việc này, rõ ràng là qua mười ba ngày quan sát, đã nắm được quy luật di chuyển của tàu ta.”
Mọi người trong phòng họp nhất thời lặng đi. Nếu suy đoán của Dược Bất Thị và Đới Hải Yến là đúng thì chúng tôi đã phạm phải một sai lầm nghiêm trọng. Lâm Xuyên chưa vội tỏ thái độ mà đề nghị xem lại mảnh ván kia lần nữa.
Chúng tôi lục tục kéo vào kho, mảnh ván đang nằm ngay dưới sàn. Lâm Xuyên cầm kính lúp lên săm soi tỉ mỉ hồi lâu rồi rầu rĩ ngồi bệt xuống thở dài não nuột, “Cậu Thị nói phải, tại tôi sơ ý.”
Trên mảnh ván gỗ này bám chi chít vỏ hà trông rợn cả người. Lâm Xuyên trỏ một mảnh trong số đó, “Các cô cậu xem, loại vỏ hà này bề mặt có sọc dọc mảnh màu xám, phần cạnh rất mỏng, có màu tím chì, còn phần chóp hơi vát, gọi là hà cát, chỉ có ở vùng biển nhiệt đới. Vùng biển Hoa Đông này lẽ ra chủ yếu phải là hà cổ ngỗng hoặc hà sống trắng mới đúng.”
Chỉ cần nghe tới đó chúng tôi đã vỡ lẽ. Xác thuyền đắm ở khu vực này không thể nào lại có loài hà vùng biển nhiệt đới bám lên được. Đây hẳn là một mảnh xác tàu chìm ở Đông Nam Á, bị người Nhật ném xuống đáy biển vờ là tàn tích thuyền Fukukou. Dù sao đều là ván gỗ ngâm dưới nước biển mấy trăm năm, không đưa vào phòng thí nghiệm thì khó mà phân biệt được.
Nghĩ kỹ hơn thì rõ ràng kế hoạch này đã được đám người Nhật vạch sẵn từ trước khi ra biển, đúng là mưu mô xảo quyệt. Thậm chí tôi còn ngờ rằng đây là âm mưu của Lão Triều Phụng, lão già đó là cao thủ dò đoán lòng người, chúng tôi đều bị lão ta dắt mũi.
Kế hoạch này thực quá nham hiểm, cũng quá tinh vi, cơ hồ được bày ra nhằm tiêu hao nhiên liệu của tàu chúng tôi. Nếu không nhờ Dược Bất Thị phát hiệp kịp thời, e rằng chúng tôi sẽ còn lãng phí nhiều nhiên liệu và thời gian ở đây, cuối cùng buộc phải quay tàu về trước.
Không, không phải e rằng, trên thực tế vấn đề này đã khá nghiêm trọng rồi. Lâm Xuyên trao đổi với thuyền trưởng xong xuôi, quay lại phòng họp, mặt mày căng thẳng hẳn, “Với lượng nhiên liệu dự trữ hiện giờ, chúng ta không cách nào rà quét toàn bộ khu vực được, cùng lắm chỉ được 75% là phải quay về. Hơn nữa vừa rồi bộ phận khí tượng mới cảnh báo, trong vòng một tuần tiếp theo, khu vực này có thể gặp bão nên thời gian trên biển của chúng ta sẽ càng bị rút ngắn lại.”
Không khí trong phòng họp hết sức nặng nề, mặt mày ai nấy đều cau có. Người Nhật chỉ cần dùng một mảnh gỗ nát đã đánh gãy được một chân chúng tôi.
Lâm Xuyên áy náy nhận hết lỗi về mình, nói rằng mình chưa nghiên cứu kỹ mảnh ván đã võ đoán kết luận, phạm phải đại kỵ trong học thuật. Thẩm Vân Sâm an ủi ông mấy câu rồi nói với mọi người, “Mọi người cũng đừng mất tinh thần quá, tìm kiếm thuyền đắm là một việc cực kỳ khó khăn, lần này người Nhật cũng chưa chắc được như ý đâu. Cùng lắm chúng ta nạp thêm nhiên liệu rồi quay lại.”
Câu này không sai, nhưng hơi tiêu cực, hoàn toàn dựa vào ý trời, thử vận may và số phận.
Tôi cầm cuốn sổ của Dược Bất Thị, chăm chú nghiền ngẫm, cố tìm ra manh mối. Nhưng những tuyến đường vẽ trong đó quá rối rắm, nhìn một lúc đã hoa cả mắt. Mọi người thảo luận thêm một lúc nữa, vẫn chẳng tìm ra được giải pháp gì. Lâm Xuyên bèn nói giờ muộn quá rồi, đừng thức khuya. Cuối cùng chỉ người có ca trực ở lại, những người khác lục tục đi ngủ.
Tôi trằn trọc mãi trong khoang tàu chật hẹp không sao chợp mắt nổi, cảm giác chán nản vì thất bại kề cận ứ đầy lồng ngực tôi. Lẽ nào lần này lại đầu voi đuôi chuột, ra về tay trắng? Tuy không cam lòng, nhưng đây không phải tiệm đồ cổ mà là biển khơi, tôi chẳng làm được gì nhiều.
Nghĩ mãi nghĩ mãi, lại càng thêm tức ngực. Tôi ngồi dậy, định ra ngoài boong hít thở. Hơn hai giờ sáng, sonar đang sạc điện, vì vậy tàu chúng tôi cũng thả neo đậu lại, cả con tàu dập dềnh theo nhịp sóng, như một chiếc nôi.
Bốn bề tối om lặng phắc, chỉ nghe tiếng sóng rì rào. Biển đêm trông rất đáng sợ, chẳng khác nào một vực thẳm không đáy di động, liên tục đẩy nỗi sợ bóng tối của con người lên hết tột đỉnh này tới tột đỉnh khác. Gió biển ùa tới đem theo mùi tanh nồng, như hơi thở của con quái vật đã kề sát. May mà đêm nay trời quang mây tạnh, bầu trời lấp lánh ánh sao, khiến con người không đến nỗi bị bóng tối thao túng hoàn toàn.
Nhờ ngọn đèn pha sáng rực trên cột buồm, tôi chợt nhác thấy một bóng người đứng đầu tàu, định thần nhìn kỹ, hóa ra là Đới Hải Yến.
Cô mặc quần soóc và áo phông cộc tay, tay trái giơ thẳng một tấm bảng khiên tinh trước mặt, tay phải căng một sợi dây dóng chếch xuống từ đỉnh bảng khiên tinh, đa