← Quay lại trang sách

Chương 2

Mình khềnh ra vớ lấy cuốn sách tìm chỗ đánh dấu định nằm đọc tiếp nhưng nó quá dày, nặng tay nên phải ngồi dậy, khoanh chân bằng tròn đọc. Các chính trị gia cũng giống như đàn bà con nít, hay vùng vằng, hờn dỗi. Mình đã từng nghĩ bọn họ làm bằng thép không gỉ. Chữ nghĩa trong cuốn sách nghiêng nghiêng chảy sang mình và rồi ông Brêgiơnhép to lớn kềnh càng với đôi lông mày chổi xuể kẹp nách khẩu súng săn hai nòng lững thững đi vào khu rừng nhiệt đới giằng dịt. Ông ấy phát hiện ra mình nấp ló sau bụi cây liền dừng lại, nâng súng lên, nhướn mày vẻ thú vị, hỏi:

- Chú mày định ám sát ta phải không?

Mình thành kính đáp:

- Không, tôi chỉ ngắm trộm ông thôi. Tôi rất ngưỡng mộ ông.

- Vì sao lại ngưỡng mộ ta?

- Vì ông oai nghiêm, ông có đầy uy quyền.

Brêgiơnhép cười khồ khồ, bảo:

- Chú mày không được phép.

Nói rồi ông ấy nghẹo đầu, áp má vào báng súng, nheo tịt bên mắt trái lại. Mình hoảng hồn nghĩ: khỉ thật, tại sao lại dại dột biến thành vật để lão ấy săn thế này. Mình bỏ chạy nhưng rêu trơn khiến mình chẳng di chuyển được, cũng may là ông Brêgiơnhép kia cũng chẳng di chuyển được. Sau đó mình trấn tĩnh khi phát hiện ra có một sự sai lệch trong hoàn cảnh này: mình chưa bao giờ đặt chân tới Liên Xô, như vậy đây chỉ là một giấc mơ. Mà trong mơ thì một, chứ có đến cả mười cái ông Brêgiơnhép cũng chẳng làm gì được mình. Ý nghĩ chờn vờn ấy khiến mình muốn kéo dài cuộc đuổi bắt bất động này cho tới khi trời sáng và sẽ lại đến Queen ăn tôm hùm với Trang. Rồi mình với ông Brêgiơnhép lạc nhau, chính xác hơn là cả hai cùng biến mất tăm vào cái khoảng mịt mùng hỗn độn nào đó.

Ðường lượn vòng vèo. Tất cả vẫn lầm lì ngó theo vệt đèn pha quét thẳng phía trước. Ánh sáng bị khuếch tán cứ lởn vởn hai bên với những sắc màu nhàn nhạt. Sương mù càng lúc càng nhiều. Vòng tròn của chiếc vô lăng thi thoảng lại méo đi khi sương tạt vào trong xe. Mình liếm môi, tận hưởng cái ẩm ướt tinh khiết của rừng núi. Trang ép sát vào mình, cạnh đó là người cao to. Mình thấy khó chịu vì mỗi khi xe vào cua đùi người đó lại trịn sang đùi Trang. Bất ngờ có ánh nhấp nháy đỏ, người cầm bộ đàm bật nút. Mình không nhìn thấy mặt anh ta nhưng sự im lặng để nghe âm thanh từ đầu bên kia đủ cho biết anh ta đang rất tập trung.

- Ừ...ừ, bên này đã xong. Ừ, cũng có chuyện hơi trục trặc, nhưng không thành vấn đề. Ðược rồi, khi nào về sẽ báo cáo cụ thể sau nhé. Ừ, thế là mất mất hai thằng.

Tiếng lạch cạch của máy bộ đàm đặt vào ngăn để đồ của xe, ngay cạnh hệ thống kim đồng hồ báo xăng.

- Vẫn chưa lần ra vụ ở cổng chợ Sắt.

Người cầm bộ đàm nói với cả bọn. Trang hơi cựa mình nhưng ngay sau đó lại co ro ngồi im.

Một chiếc xe đi ngược lại quét ánh sáng lên toàn bộ những người trong xe. Có cảm giác chỉ chớp mắt ấy cả xe như biến mất và mình với Trang cùng bọn họ đang lơ lửng trong biển sáng lóa trắng ở độ cao hàng chục cây số. Âm thanh của hai chiếc xe ngược chiều ì ì dội vào nhau rồi bóng tối lại quấn chặt lấy tất cả, chỉ còn một vệt sáng mờ mờ quầng quầng của gầm đèn chiếc xe. Không thể nhìn thấy núi trùng điệp nhưng vẫn biết núi trùng điệp bởi các khúc quanh hiện ra liên tục. Và bởi ánh sáng của đèn thường xuyên rơi tõm vào khoảng trống phía trước. Mình ngoái cổ về sau, thấy hai đốm đèn đỏ nhòa của chiếc xe tải vừa đi qua ẩn hiện sau các khối sẫm đen, mà ban ngày đó là những ngọn núi xanh ngút, đẹp tê dại. Ðẹp vậy mà vùng này luôn luôn nghèo rớt vì chìm ngập trong những cuộc thanh tẩy, chém giết.

Mình lại nhìn thấy họ, ở kia, bên ngoài cửa kính, với thần thái uể oải, lười nhác nhưng kiên định.

Hắn kể chuyện tiếu lâm cho lái xe nhưng thực ra cốt để Trang nghe. Hắn có cả một kho chuyện về người dân tộc với nhiều chi tiết cũng ngồ ngộ, bất ngờ. Mình đã quá quen thuộc cách kể chuyện của hắn, chỉ có điều hình như đây là chuyện mới.

- Ông ấy rối rít bảo rẽ trái, rẽ trái nhưng lại thò tay phải ra xin đường.

Vừa nói, vừa diễn đạt bằng tay, vừa cười nên giọng hắn the thé. Trang mủm mỉm, hai bên khóe miệng giãn ra, trắng lịm.

Nếu mẹ không bị tù, chắc anh với Hằng khó lòng thành vợ chồng. Khi biết anh thích Hằng, người phản đối đầu tiên là bác Lâm. Bác bảo loại da trắng, tóc dài, mắt ướt, dáng lại tròn tròn như Hằng là giống đa tình, không lấy làm vợ được. Bố thoạt tiên cũng lắc đầu, muốn anh ôn thi đại học cho năm sau, nhưng thấy phường đốc giấy gọi anh nhập ngũ liên tục nên mới chuyển sang đồng ý. Anh hơn Hằng ba tuổi. Thời điểm ấy Hằng đang thất vọng vì yêu một tay lái xe ở Hà Nội, đâu được khoảng nửa năm gì đó, nhưng phát hiện ra hắn đã có vợ và hai con. Khi bố sang đánh tiếng thì gia đình Hằng đồng ý ngay.

Sau lễ ăn hỏi, lập tức cưới liền và vợ chồng anh dọn ra ở riêng. Hằng về với anh chỉ mang theo mấy bộ quần áo, một đôi xuyến vàng, một bộ đồ kim chỉ, một chiếc quạt khung bằng xương cá trông rất đẹp. Mình nhớ buổi sáng ngay sau hôm cưới mình thấy anh khác hẳn, mặt mũi chán chường phờ phạc. Mình buột miệng hỏi anh:

- Tối qua con ấy nó có cắn anh không?

Anh sững người:

- Con gì?

Mình lúng túng, thò ngón út vào lỗ tai rúc rúc:

- Chú bảo tối qua thế nào anh cũng bị con công cống của chị Hằng cắn.

Anh chợt hiểu, nói nhanh:

- Chú nói thật đấy, có một con công cống, nó cắn tao đây này.

- Anh chìa bắp tay có vết cắn ra cho mình nhìn.

- Nhưng mà tao trị được rồi. Nói chung thì... thôi, không nói chuyện này nữa, bao giờ lấy vợ mày sẽ biết. Tí nữa về mày cứ bảo với chú là tao bị cắn thật, rõ chưa?

Khi nghe mình tả lại vết răng to bằng vết răng người trên bắp tay anh thì chính chú cũng ngẩn ra, lẩm bẩm:

- Chẳng lẽ cái ấy nó có răng thật.

Thế là chú ghé tai mình thì thào. Buổi trưa, mình lén sang nhòm vách nhà anh để xem con công cống của Hằng cắn anh bằng cách nào. Khi nhìn vào trong nhà, mình thấy anh với Hằng chẳng có quần áo gì, cứ nằm thẳng đượt cạnh nhau. Mình vừa định chuồn về thì bị bác Lâm bắt quả tang. Mình sợ quá mới bảo tại chú xui. Bác Lâm tím bầm mặt đi như chạy về nhà túm cổ chú tát cho hai cái hai bên má nẩy đom đóm mắt rồi tiện chân đạp một cái nữa vào mạng sườn. Chú bỏ chạy thục mạng.

Bác Lâm gầm lên:

- Mày không quay lại đây thì ông giết.

Chú sợ quá, đành quay lại. Bác Lâm cầm một thanh củi to, lởm chởm những vết tước, bắt chú nằm úp mặt xuống nền nhà, hỏi:

- Mày là người hay là chó mà mày xui cháu nó làm thế?

Chú đáp:

- Là chó.

Bác quát:

- Mày xui nó làm như thế để làm gì?

- Chẳng làm gì cả.

Bác Lâm giáng thẳng cây củi xuống. Chú rú lên. Mình run lập cập, không dám thở mạnh. Bác Lâm gặng bằng được động cơ vì sao chú lại xui mình, cuối cùng chú phải thú nhận:

- Em cũng chẳng biết gì, cứ nói bừa thế. Ai biết đâu là công cống nó có răng thật.

Bác Lâm sửng sốt, bất giác vứt toẹt thanh củi ra ngoài sân khiến nó nẩy lên, văng lung tung như con giun bị chặt đôi.

- Lần trước mày chưa làm gì được con Lành à?

Bác ư ử hỏi. Chú đập trán xuống đất cồm cộp chẳng hiểu giận thân hay gật đầu. Mất một đống tiền mà cuối cùng chú vẫn chưa biết mặt ngang mũi dọc cái ấy của đàn bà ra làm sao cho nên chả trách chú nghĩ xằng nghĩ bậy. Vợ chú lấy về, ngay tối đầu tiên đã bỏ nhà đi, không để lại dấu tích gì.

Bác Lâm như bị giáng một đòn trí mạng, đờ đẫn quay ra bàn ngồi hút thuốc và uống rượu cả buổi chiều. Sau lần ấy thì bác ít nói hẳn đi.

Mình nhớ khi ông Trinh mời bác Lâm sang nói chuyện thì bác từ chối. Bất đắc dĩ bố phải thay bác. Bố kéo mình cùng đi sang nhà ông Trinh. Thấy bố con mình, ông

Trinh vồn vã mời vào nhà. Bố hỏi luôn:

- Nghe nói ông gặp có chuyện?

Ông Trinh xúc ấm, mặt có vẻ căng thẳng nhưng nói lảng đi:

- Chả có gì đâu, vừa được trên Thái người ta biếu ít chè ngon, mời ông sang uống cho vui thôi.

Bố thu hai tay vào lòng, nhìn ông Trinh pha trà. Từ khi con gái ông Trinh bỏ chú trốn đi, ông rất ngại gặp bố và bác Lâm. Gặp cũng không mặn mà, tự nhiên như cũ nữa, có một cái gì ngang ngang cứ chen vào giữa khiến họ đâm ra ấp úng khó nói. Theo mình phán đoán, ông Trinh đột nhiên muốn gặp chắc chắn là có chuyện chứ không chỉ vì một ấm trà ngon. Thế nhưng đến khi ông Trinh rót chè ra hai cái chén, nước đậm đặc sóng sánh như mật ong, bốc hương thơm lừng thì mình lại tin là ông Trinh nói thật. Uống đến chén thứ hai, ông Trinh cúi đầu xuống sát ngực, nói:

- Tôi vừa nhận được tin của con Lành... nó đang ở trên Lai Châu...

Bố lặng người, cố gắng giữ cho giọng khỏi lạc đi:

- Nó vẫn ở với thằng ấy chứ?

Ông Trinh lắc đầu:

- Hình như bỏ nhau rồi... giờ ý bên ấy thế nào?

Câu hỏi thăm dò của ông Trinh run rẩy, lòa nhòa không có sinh khí. Bố nhìn sâu vào cái chén đang bị siết chặt trên tay mình. Một cơn gió xô lá lạc cạc ngoài vườn rồi biến đi.

- Ông bảo thế nào là thế nào?

Rất lâu sau bố mới lên tiếng hỏi lại bằng cái giọng lạnh tanh. Ông Trinh vớt vát:

- Ý tôi nói tùy bên ấy xử lý...

Bố gằm mặt như con trâu chuẩn bị húc nhau:

- Còn gì nữa đâu mà xử lý. Thằng em tôi chưa kịp chạm vào cái dải rút quần của nó...cừ rừm. Tôi về đây.

Giọng bố như tiếng nước sôi rót xuống nền đất cứng, sau đó là những bước chân nặng nề rời xa. Mình hấp tấp bám theo bố, còn kịp thấy ông Trinh rũ xuống, mắt nhắm chặt.

Bố về nhà đem chai rượu cuốc lủi ra, một mình ngồi khoanh chân bằng tròn trên phản uống. Hết nửa chai rượu, mặt bố tái nhợt như một búp chuối, vùng đứng dậy đi một bài võ. Mình há hốc mồm mà nhìn. Bố đảo người tít thò lò thành một cơn lốc nhỏ, từ trong cơn lốc ấy phóng ra những cú đấm cú đá nhanh như những tia chớp kèm theo tiếng hự, hất, hầy đầy khí lực. Rồi bố thở hồng hộc trở lại phản, rót ra một chén rượu nữa, từ từ đưa lên hắt gọn vào miệng, hơi gập cổ nuốt xuống.

Sẩm tối vợ chồng anh sang chơi, gặp chú cũng đang ở đó. Mình lén lút nhìn Hằng sau đó lại đưa mắt nhìn sang chú thấy chú có vẻ lúng túng ngượng ngập. Anh hỏi bố uống nhiều không. Mình cầm cái chai rỗng lên, lấy ngón trỏ cứa vào sát miệng chai, thì thầm:

- Lại đem võ ra múa.

Chú lấy chiếc tăm vừa xỉa răng khêu vào gan bàn chân, gục goặc cái đầu bẹt cá trê:

- Phét. Bố chúng mày mà có võ, tao đi đầu xuống đất. Tao lạ chó gì.

Anh đặt tay lên đùi vợ, khẳng định:

- Bố cháu đứng trên hai cái chai múa võ mà không hề nghiêng ngả tí nào.

Chú nhìn bàn tay anh đặt lên đùi Hằng thì bất giác đần ra, nuốt nước bọt một cách khó nhọc. Anh không để ý, cứ bóp bóp đùi vợ. Hằng ý tứ gạt tay anh ra, hơi khép chân lại. Chú đỏ mặt nhìn lảng ra sân. Bố ngáy như sấm, từng chuỗi dài, lên bổng xuống trầm làm căn nhà trở nên chật chội nhưng lại tràn trề sức sống. Có tiếng hô hoán đuổi trộm ngoài đường cái. Anh lao vụt ra ngoài. Mình vớ con dao quắm và lao theo. Ngoài đường, người rầm rập chạy đuổi mà không biết kẻ trộm ở hướng nào. Mình nghe anh quát vào nhà thì vội vã quay lại và bắt gặp chú đang sục đầu vào giữa hai đùi Hằng còn Hằng thì ngả hẳn người ra sau. Thấy mình, chú vội nắm lấy hai tay Hằng kéo mạnh lên vờ như Hằng vừa bị ngã. Hằng đỏ bừng mặt nhìn mình rồi lao ra ngoài. Chú bảo:

- Ðừng mở mồm với ai. Sau này thế nào tao cũng sẽ trả ơn mày.

Chú bỏ nhà đi biệt.

Mấy tháng sau chú lù lù xuất hiện, áo trắng bỏ trong quần màu ghi xám, đầu chải ngôi lệch, tay đeo đồng hồ vàng chóe. Chú đi từ đầu thị xã tới cuối thị xã không chào hỏi ai, mặt nghênh lên, mắt nheo nheo khinh mạn, kiêu kỳ như một kẻ lạ mặt, một ông lớn. Không ai hỏi thời gian qua chú ở đâu, làm gì. Bố với bác Lâm cũng không thèm hỏi. Chỉ có Hằng mặt cứ dại ngây như người trúng gió, gò má vốn hồng hào nây nẩy giờ bợt đi như vôi. Chú về buổi sáng, buổi chiều lại bắt xe xuôi Hà Nội luôn.

Mình không biết bằng cách nào mà chú lấy được con gái ông trưởng phòng tổ chức để leo lên chức trưởng ban kinh tế. Trước khi về nghỉ hưu, ông bố vợ đã kịp thiết kế cho chú lên đến cái chức phó giám đốc, bây giờ thì tự thân chú ngồi được vào ghế giám đốc.

Mình cũng không biết bằng cách nào đó thật tài tình, anh đã có địa chỉ của cậu.

Mình chưa từng kể cho Trang câu chuyện đó và cũng chẳng có ý định kể, ngay cả khi hai đứa trằn trọc nằm ôm nhau trên chiếc giường ẩm sì, hôi hám ở nhà khách huyện ủy. Mà đâu phải ai cũng muốn nghe những chuyện vớ vẩn như thế.

- Thật ra khi bị đánh thức bởi cú điện của em, anh vẫn chưa hình dung mọi chuyện sẽ thay đổi. Em có nhớ là em đã bảo em sẽ đi và muốn anh cùng đi, em nhớ không? Lúc ấy anh đã hỏi là đi đâu bây giờ, đúng không?

Trang nhúc nhắc đầu, mấy sợi tóc xòa lên vai mình, mấy sợi nữa xòa lên vai người to cao ngồi bên cạnh. Mình nhớ khi ấy mình hỏi vậy nhưng trong đầu đã biết cần đi chỗ nào vì mình đã từng rủ anh Thuận nhưng anh từ chối. Trang nói tùy mình muốn đi đâu thì đi. Coi như một chuyến du lịch. Và thế là mình với Trang gọi tắc-xi ra bến xe. Tầm đó chuyến bốn giờ sáng cũng chuẩn bị khởi hành.

Lúc đã yên vị trên xe, mình có hỏi Trang rằng liệu Vân Ly đã mò về tới nhà được chưa hay vẫn loay hoay với mấy vết bỏng trên cánh đồng vắng lặng đó. Trang nhún vai bảo:

- Kệ xác nó.

Sau đó Trang nghiêm mặt đề nghị mình không nhắc tới Vân Ly nữa, không bao giờ nữa. Mình im lặng ngó cái trụ cổng bến xe tróc lở với vô vàn những vết bẩn.

Không rõ đã là câu chuyện thứ bao nhiêu rồi mà hắn vẫn còn say sưa, nồng nhiệt lắm. Hắn nhại lại giọng dân tộc lơ lớ:

- Tồng chí ở Hà Nọi à? Tôi cũng ở Hà Nọi đây. Thế ở Hà Nọi thì tồng chí ở bản nào?

Trang ré lên cười. Mình đã nghe câu chuyện này từ đời tám hoánh nào.

Núi vẫn là núi hệt bên chỗ cậu. Chưa có dấu hiệu cho thấy đến trời cũng hóa thành đá như mình đã huyên thuyên với Trang trước khi sang đây.

Tối nay thật hẻo.

Hình như là Thứ Hai.

Nhớ cái thằng nuôi quân tao nhắc tới lần trước chứ? Cái thằng mà tao nghĩ sẽ phải bòm cho nó một phát ấy? Cũng may, nếu xảy ra như thế thì hóa ra oan quá. Thằng nuôi quân không phải là đứa xấu như bọn tao tưởng. Khi đã thân nhau, thẳng nuôi quân đã kể với tao nó cũng có một ông anh hy sinh ở trên này.”

Năm ấy, cả tiểu đoàn tự vệ của khu Gang Thép được phát súng và cấp tốc đưa lên mặt trận. Trên đường đi thì bị phục kích, không thể chống trả được vì súng còn mới toanh, chưa kịp lau dầu mỡ. Hầu như hy sinh cả, chỉ vài người kịp liều lĩnh lăn xuống vực và may mắn thoát.

“Nó vừa kể vừa khóc, cái mũi đã đỏ càng đỏ lên như một quả hồng, trông ngồ ngộ. Mới đầu, khi nghe nó kể, tao đã nghĩ tại anh thằng nuôi quân cũng chậm chạp như nó nên mới bị bắn. Nếu nhanh nhẹn như anh em mình thì đã thoát. Nhưng sau thì tao nghĩ khác. Nhanh chậm chả giải quyết được gì hết. Có một ai đó quyết định tính mạng của những thằng lính. Tao nghĩ thế, cứ nghĩ thế đấy, tao ghi ra cho mày đọc đàng hoàng, việc đéo gì phải sợ.”

Từ lâu lắm rồi anh đâu sợ gì nữa. Mình đinh ninh thế. Chỉ có tiếng cười của anh làm mình sợ thôi. Cái tiếng cười xuất hiện sau khi anh lần mò lên thăm cậu.

Nhà cậu ở ngay sau chợ, phía trước là núi Quây Trà với hai ngọn như cái càng cua không đều. Ngôi nhà xây hai tầng, mái bằng, có ban công điệu đàng hình chữ nhật với các chấn song làm bằng sứ màu hồng.

Chưa bao giờ gặp, nhưng khi nhìn thấy cậu, mình không có cảm giác xa lạ. Cậu đúng với hình dung của mình khi nghe anh tả lại sau chuyến lên thăm về. Tóc của cậu rất khó coi vì phần trên để dài còn phần dưới cắt trắng nên tóc cứ đổ xuống như bụi tóc tiên. Có điều mái tóc ấy rất hợp với khuôn mặt bệch bạc, nhão nhệu của cậu. Sau này thì mình biết sự trắng nhợt bệch bệu ấy là hậu quả do uống quá nhiều rượu. Nghe nói cậu không ngày nào không say, đã say thì đầu tiên là đem vợ ra chửi, sau đó chửi con, sau đó nữa thì chửi cả thị trấn. Chỉ có nhà hàng xóm phía bên trái không bị cậu chửi. Ðó là nhà người yêu cũ của cậu. Họ yêu nhau từ thủa nào cũng chẳng ai nhớ, chỉ biết yêu nhau, không lấy được nhau và làm hàng xóm của nhau. Vợ cậu là phó giám đốc ngân hàng huyện đóng tại thị trấn, nghĩa là cũng ngay sát nhà, cách độ vài chục bước chân. Cô hiền lành, biết điều, chịu nhịn. Cậu say chửi dữ như vậy, nhưng chưa bao giờ cô cãi lại hay to tiếng. Cô im lặng, coi như cái núi Quây Trà trước nhà bị chửi chứ không phải mình. Mình hỏi thì cô bảo, tính thế, làm sao mà trách được. Dù sao cậu cũng chưa bao giờ chửi cô trước mặt nhân viên của cô.

Vẫn còn một chỗ để cô có thể bỏ qua tất cả. Người đàn bà nhà bên trái mỗi khi thấy cậu chửi to thì ý tứ đóng cửa hoặc dắt đứa cháu mới hai tuổi đi ra cuối thị trấn, chỗ có dòng suối trong vắt để chơi.

Trang mở túi đưa quà cho vợ chồng cậu. Cậu cằn nhằn:

- Con này vẽ chuyện. Mày là vợ hay người yêu của nó?

Cậu hỏi thẳng tuột như thế, như người ta hỏi con gái mình. Trang cười.

Lâu rồi mình mới được ăn bữa cơm có nhiều món như vậy, toàn món lặt vặt nhưng lại rất ngon. Có lẽ một phần do mình mệt và đói. Cả chuyến xe dài đằng đẵng vừa qua mình chỉ ăn vài miếng bánh mì và ngô núi. Trang không dám ăn ngang đường vì nhìn đã thấy ngại. Sẩm tối mình thấy cậu cứ lẩn quẩn ra ra vào vào, áo liên tục vén lên quá ngực như khoe cái bụng đang bắt đầu sệ xuống. Cô nói nhỏ:

- Lại gạ uống cho mà xem.

Chưa dứt lời, đã thấy cậu vẫy mình rồi lôi chai rượu còn lưng lửng dưới gầm bàn ra, rót hai chén, bảo:

- Súc miệng một tý.

Mình nhìn cô, nhưng cô không có biểu hiện gì, tuồng như đó chỉ là hai chén nước lã. Mình giao hẹn:

- Riêng hôm nay cậu không được say đâu đấy.

Cậu vặc đầu ngó mình, chắc là định chửi, nhưng rồi lại gãi gãi tai:

- Ừ, không say.

Mình với cậu ra ngoài hiên uống, nhởn nha, cầm chừng. Rượu vùng cao cũng nhạt chứ không nặng.

- Hai đứa cuối tuần mới về hả cậu?

Mình gần như quên béng mất hai thằng em, chúng nó đều đã làm ở thị xã. Cô nói vọng ra:

- Lười lắm, cô ốm đến gần tháng mà chả đứa nào về hỏi lấy một câu.

Cậu lại nhướn mày:

- Hỏi thăm thì cũng có khỏi được đâu. Ðỡ mệt, nhỉ.

Giọng cậu láu lỉnh, hài hài. Bao giờ cậu cũng thế, luôn hài.

- Hồi họ sang, cậu ở đâu?

Mình gạ chuyện. Cậu dề môi:

- Ở đây chứ ở đâu nữa. Hỏi ngu thế không biết.

- Bọn họ vào tận đây ấy à?

Cậu rót rượu vào chén, nghi ngờ nhìn mình. Mình sợ cậu sẽ kết thúc nên vội nâng chén uống cạn. Cậu khoái, rót tiếp chén đầy nữa.

- Chúng nó phá không sót nhà nào.

Cậu nói, nhìn lên ngọn núi trước mặt. Khi ấy trời đã bắt đầu tối và hai ngọn núi sẫm lại, nhọn hoắt. Thật ra cuộc Tháng Hai không bất ngờ như nhiều người vẫn tưởng. Ở thị trấn này người ta được báo trước đến hai tuần. Gạo đã được chuyển lên núi, vào các hang sâu, súng đạn đã chuẩn bị. Kế hoạch tác chiến cũng xong xuôi, chỉ việc chờ. Thời gian chờ hơn chục ngày là thời gian khó khăn nhất, cậu bảo thế, vì không còn bụng dạ nào để vui vẻ hay tức giận. Cứ hong hóng, thấp thỏm. Hễ thấy dân quân chạy từ đèo xuống là vội vàng vớ lấy súng, nhưng rồi lại nhận được cái xua tay. Trưa ngày mười bảy thì họ tràn sang. Dân quân chia làm hai, một nửa đưa trẻ con, người già vào trong thung lũng ẩn nấp, nửa còn lại chặn ở đỉnh đèo. Cậu kể đánh được hai ngày thì phải bỏ đèo, bỏ cả thị trấn để chạy lên núi. Bọn họ đuổi theo, bắn rát rạt phía sau.

Hai dân quân trẻ chạy cùng cậu đều bị bắn chết.

- Ngu lắm, chạy thì cứ thế mà chạy, càng nhanh càng tốt.

- Giọng cậu sừng sừng.

- Ðã dặn thế rồi, vậy mà hai cái thằng ấy vừa chạy vừa ngoái lại nhìn. Thế là chúng nó tiêu chết luôn cả hai.

Cậu nhảy bừa vào một cái hốc đá vừa đủ cho một người, kéo lá che lại, mở chốt lựu đạn, tính nếu bị phát hiện thì cho nổ luôn. Cậu thấy chân giầy của bọn họ sầm sập qua lại một lúc rồi kéo nhau đi chỗ khác. Thế là thoát. Ðêm cậu tổ chức cho dân quân xuống đánh, chỉ đánh bừa thôi, sau đó lại chạy lên núi. Bọn họ không dám đuổi theo, mà dùng súng cối cá nhân bắn vuốt đuôi. Họ đóng lại thị trấn bảy ngày. Lý do vì bị chủ lực ta chặn mất đường rút nên cố thủ ở đây chờ dịp mở đường. Bị tập kích liên tục vào ban đêm nên bọn họ rút kinh nghiệm không ngủ trong nhà nữa mà đem túi ngủ bên ngoài, chỗ bất ngờ nhất. Ngày thứ tám thì họ rút được. Trước khi rút họ phá sạch sành sanh. Nhà không đốt mà chơi trò oái oăm là chặt đúng cái cột trụ ở giữa rồi đạp cho đổ.

- Bọn ấy là vua đểu.

- Cậu bảo.

- Thà nó đốt mẹ nó hết đi lại sạch sẽ, mình có làm lại cũng đỡ. Nó đánh sập, mình về dọn mới khổ. Uống đi mày.

Chén của cậu va vào chén của mình và rượu sánh ra ngoài. Mình giỏng tai nghe Trang nói chuyện với cô ở trong nhà nhưng họ nói nhỏ quá nên chỉ là những âm thanh rì rầm đứt quãng.

Cậu nhấc chai lên, phát hiện hết rượu, ghé tai mình bảo vào trong gầm bàn lấy chai khác. Mình hơi e ngại, nhưng nghĩ nếu không uống có thể sẽ lại khó ngủ. Mình cứ uống cho đã để ngủ dễ hơn. Cậu chỉ tay lên ngọn núi phía trước bảo suýt chết ở đó vì đụng đầu lính sơn cước. Lúc ấy cậu với tay sơn cước cách nhau có hơn chục bước chân, cả hai đều giơ súng lên. Tay sơn cước thì súng ngắn, gọn nhẹ, còn cậu thì hai tay khư khư khẩu k44. Cả hai đều bóp cò, đạn của tay sơn cước bị xịt, đạn của cậu cắm vào bả vai trái của tay đó. Cậu hoảng đến mức chỉ bắn đúng phát ấy rồi quăng súng chạy. Mình khệnh khạng bảo:

- Năm ấy vũ khí của họ lạc hậu hơn của mình cậu a.ỳ

- Thấy cậu trợn mắt không tin, mình nói tiếp.

- Sau bảy lăm thì quân đội mình được xếp vào loại mạnh nhất và thiện chiến nhất thế giới.

- Mày nói đểu nhỉ.

Cậu khịt mũi. Mình gân cổ lên:

- Thật chứ đểu gì. Cậu tính, hồi đó nước mình tràn ngập vũ khí của Mỹ với của Nga.

- Ừ, cũng có lý.

Cậu hào hứng đồng tình làm mình phấn kích. Mình nói tràng giang đại hải, như là một nhà phân tích chính trị, quân sự vào bậc nhất của thiên hạ. Mình bảo, cuộc chiến này là bãi nước bọt nhổ vào mặt người anh hùng. Mình đã mất mấy chục năm xương máu để tạo dựng uy danh nhưng chỉ cần có vài tuần họ đã cướp cái uy danh ấy. Cậu nghe, nheo mắt, lúc lúc lại buột miệng: “đểu nhỉ.” Cậu nói vậy chứ không thâm thù, không để bụng. Cuộc chiến này với cậu chẳng khác gì việc xích mích với hàng xóm. Thi thoảng đụng nhau vậy rồi lại quên đi, buồn buồn thì gọi nhau sang uống chén rượu. Mình giở giọng ông cụ non:

- Cậu ơi, làm chó gì có sự tử tế giữa hai quốc gia. Toàn thổ phỉ cả.

- Nhắc đến thổ phỉ tao lại nhớ lão Sền Dấn ở cuối thị trấn vừa chết hôm kia, lão ấy từng là thổ phỉ đấy.

Ở đây, danh tiếng của phỉ lớn đến mức nghe thấy thì sợ, nghe lâu lại mê. Cái âm phỉ có sức cuốn hút ghê gớm. Ðâu có rừng núi, đấy có phỉ. Thực ra, phỉ ra đời liền ngay sau sự ra đời của các đạo quân chính quy.