← Quay lại trang sách

Chương 3

Ðó là những đạo quân có ngưỡng, không quá lớn mà cũng chẳng phải lẻ tẻ vài ba người. Phỉ cứ cầm chừng quân số vừa vừa phai phải, như là một thực thể, một loài vậy. Phỉ thêu dệt nên những câu chuyện kinh dị và cả những câu chuyện nghĩa hiệp. Ông Chu Văn Tấn thời kỳ đầu manh nha đi làm cách mạng, cũng đã va nhau với phỉ về địa bàn hoạt động. Có lần hai bên đã rút dao rút súng định thanh toán nhau nhưng rồi lại hòa hoãn. Mà hòa hoãn vì phỉ nghĩ đơn giản là Việt Minh cùng hội cùng thuyền với mình. Trùm phỉ Chu Chồ Sền gặp Chu Văn Tấn đã ngô nghê bảo: Chúng mày vì nghèo khổ mà đi làm cách mạng. Chúng tao vì nghèo khổ mà đi ăn cướp. Thế là giống nhau. Bây giờ bọn tao giúp bọn mày trốn Tây, sau này bọn mày thành công thì bọn mày nhớ ơn mà giúp lại bọn tao. Ông Tấn bảo hai bên khác nhau. Nhưng khác nhau thế nào thì lúc ấy ông Tấn và các đồng chí của ông không giải thích được. Khi cướp được chính quyền rồi, đám ông Tấn mới có cơ sở để giải thích sự khác nhau giữa cách mạng với thổ phỉ. Lúc ấy cuộc chiến xem ra còn dữ dội hơn rất nhiều vì không còn điểm tương đồng nào nữa, chỉ một sống một chết.

Phỉ đã từng thống trị hầu như tất cả các cánh cung, từ cánh cung Ðông Triều, sang cánh cung Ngân Sơn, cánh cung Bắc Sơn, cánh cung sông Gâm và chiếm lĩnh luôn cả dãy Tây Côn Lĩnh. Lý Dương Tài, kẻ duy nhất trong các đám phỉ dám tự nhận mình là vua của An Nam, đã kéo quân tràn xuống làm náo loạn hàng phố Thái Nguyên. Ðến khi bị bắt giam ở dưới chân núi Hồng, Tài vẫn nghĩ người ta đang giam vua. Cái mộng làm vua của Lý Dương Tài thăm thẳm đến nỗi thiên hạ đồn rằng trước khi chết ông ta còn ị ra một cục phân bằng vàng thật. Mỗi nhóm phỉ có cá tính riêng, cá tính đó là của trùm phỉ. Hoàng A Tưởng ở Lào Cai thích cắt tai nạn nhân nhưng không bao giờ giết. Trảo Sành Phú, trùm phỉ Cờ Trắng ở Bắc Quang là kẻ lại giống, khoái nhìn các dân tộc giết nhau, nên mới dựng khẩu hiệu “giết người Tày lấy ruộng, giết người Kinh lấy muối, giết người Hoa lấy bạc già.” Ðáp lại, nhóm phỉ Nam Dương Hoa kiều hiệp hội cũng cứ nhè vào người Dao mà chém giết, tàn sát. Súng kíp và dao quắm duy trì cuộc chiến dai dẳng, khốc liệt nhưng không quá ồn ã ở khắp cái dải núi rừng điệp trùng phía Bắc này.

Ðã ngân ngất, không quan tâm tới mình có nghe hay không, cậu lải nhải chửi cái lão Sền Dấn hay Sến Dần gì đó là quân đểu. Cậu quả quyết chính lão ấy đã mách cho bọn họ cắm thủ lợn vào giữa nhà cậu. Cái lý của cậu là một lần cậu uống với lão ấy, rồi bảo sợ nhất là bị cắm đầu lâu vào giữa nhà, như thế sẽ không bao giờ ngủ được. Khi bọn họ kéo đến, họ thịt lợn của cậu xong đã cắm cái thủ giữa nhà để trêu ngươi. Có kẻ đã mách cho họ, kẻ đó chắc chắn là Sền Dấn.

- Nó mà không chết thì thế nào tao cũng giết nó.

Cậu bảo thế, giọng chẳng có chút sát khí nào. Cô lệt quệt cùng với Trang đi ra.

Cậu gạ cô uống, lấy lý do rất lâu rồi thằng cháu mới lên đây, chả biết nó còn lên nữa không. Câu nói vô tình của cậu làm mình chạnh nhớ anh. Sau chuyến lên thăm cậu về, anh ít nói, cứ tha thẩn, u uất. Một buổi trưa, anh đang ngồi nhấm móng chân bỗng cất tiếng cười khanh khách nghe rợn gáy.

Mình lân la hỏi cô:

- Hồi anh cháu lên đây có đi chơi đâu không?

Cô đáp:

- Không, chỉ thấy nó rất hiền lành. Mà thằng bé to cao thế cơ chứ, cả thị trấn này ai cũng thích.

Mình nhớ mình đã quay sang bảo Trang:

- Anh ấy lên đây chơi về thì phát nặng.

Cậu nghe, nhướng mày nhìn mình mà hai con mắt thì không tài nào mở to ra được.

- Mày nói thế tức là bảo tại nó đến nhà tao nên mới bị điên à, phải không?

Mình lắc đầu. Cô xua tay:

- Cháu nó nói thế đâu mà cứ nghĩ thế.

Cậu vươn cổ về phía mình và Trang:

-Nó nghĩ thế thật đấy. Nó nghĩ ở trên vùng dân tộc heo hút này có bùa phép làm người khác bị điên thật đấy.

Mình nhìn cô cầu cứu. Cô đứng dậy lôi tay cậu bảo:

- Thôi, để cho cháu nó nghỉ, chúng nó đi xa mệt rồi.

Cậu lè nhè:

- Ðứa nào mệt thì cứ đi mà nghỉ. Tao còn uống nữa. Nó nghĩ thế thật đấy, đểu nhỉ.

Mình vừa nằm kềnh xuống tấm phản thì anh lại đến bảo tao có một người bạn ở trong đền Ngũ nhân, mai mày qua đấy hỏi thăm hộ tao. Mình hỏi người đó tên gì thì anh bảo cứ đến đấy, thấy ai thì đó là bạn anh. Mình nói mai mình sẽ đến, bây giờ phải ngủ. Anh dỗi, bảo mình chỉ biết ngủ, lúc nào cũng ngủ. Ngủ nhiều thì thành con vật. Mình vâng dạ cho qua chuyện nhưng trong đầu nghĩ anh đã thành con vật rồi. Anh quắc mắt nhe răng bảo mình hỗn xược. Tao là thần, là thần, nhớ chưa? Anh rít lên riết róng, lấy một đám mây quật vào mặt mình. Trước khi nhận sự va chạm êm ái của đám mây, mình kịp thấy đó là đám mây đẹp và tiếc không chụp được nó.

Sáng cậu đưa mình đi thăm mộ ông. Trang muốn đi nhưng cậu bảo phải leo núi nên Trang đành ở nhà. Ra cửa, cậu ghé tai mình nói:

- Nó người ngoài, lại là đàn bà, tao không muốn nó đi.

Con đường lách qua một rẻo nước nhỏ ở cuối thị trấn rồi bò lên triền núi khá cao sau đó ngoặt tiếp vào một vụng toàn đá là đá nữa thì tụt hẫng xuống thung lũng nhỏ. Thung lũng chính là bãi tha ma của thị trấn. Gọi là thung lũng nhưng nó không thấp mà ở vị trí khá cao so với thị trấn. Mộ lúp xúp, nếu nhìn không kỹ sẽ nghĩ đó là những gò đất. Phải đến tháng Ba thì những ngôi mộ mới được sửa sang lại để người nhà từ tứ xứ kéo về tảo mộ.

- Ðây là mộ ông.

Cậu dắt mình đến nấm đất lùm lùm ở rìa chân núi, bảo vậy. Nấm đất cũ kỹ, sụt lở, giống như một con trâu đang lún xuống vũng lầy.

- Mộ bà đâu?

Mình thắc mắc. Cậu vẩy đầu nhẹ sang hai phía. Mình giấu vẻ dửng dưng bằng cách ngồi xuống vờ như chú tâm vào nấm đất đó. Cái người nằm dưới nấm đất này là ông ngoại mình, nhưng mình chưa bao giờ thấy mặt ông. Mẹ ít khi nhắc tới ông. Mẹ chỉ nhắc tới cậu.

- Thằng anh mày cũng đến đây.

Cậu nói, chân di lên đám cỏ xơ xác, vàng úa. Mình sực nhớ tới giấc mơ đêm qua, vội bảo cậu:

- Tí nữa về cậu đưa cháu tới thăm đền Ngũ nhân một lát.

Cậu ngạc nhiên:

- Mày biết có đền Ngũ nhân? Con mụ nhà tao nói à?

Mình gật bừa. Tiếng mõ lốc cốc khua và chếch bên trái một con trâu trắng đứng ngơ ngáo nhìn mình. Cậu có vẻ bần thần rồi châm một điếu thuốc lá đưa cho mình:

- Thắp thay hương vậy.

Mình loay hoay không biết dí điếu thuốc vào chỗ nào thì cậu đã lấy hai hòn đá đặt lên đỉnh mộ rồi cắm điếu thuốc vào khe giữa. Khói bay lên, vờ vật, nhỏ nhoi giữa trùng trùng đá núi vây bốn bề. Cậu ngồi bệt xuống, xoải hai chân thẳng ra trước, hai tay chống đằng sau, ngửa cổ nhìn trời.

- Mẹ mày có hay kể về ông cho chúng mày nghe không?

Cậu hỏi mà mắt vẫn ngó vào vòm trời buổi sớm thấp tè, đùng đục trắng. Mình ậm ừ:

- Cháu chả nhớ... chắc là không nhiều lắm.

- Ông cũng là phỉ...

Mình nhìn nấm mộ như nhìn một người sống. Ông mình không phải người miền núi. Ông bị Pháp bắt làm phu lộ hơn ba năm, sau đó thì ở luôn đây. Ông mất chính xác vào ngày nào, năm nào thì bây giờ cậu không nhớ được. Mấy chục năm rồi, cái lần mà cậu đứng xem bà chôn ông cùng với một củ chuối gọt tròn, chính cậu cũng không buồn nhớ nữa.

Ông là một trùm phỉ. Thoạt đầu toán của ông chỉ có tám người, sau tăng dần lên thành gần trăm người. Ông từng đụng độ với cả Bát Ðại Quân và Tuyên Truyền Giải Phóng Quân. Rồi ông bị mưu sát khi đang ngủ, xác treo ngược lên cành cây lim ở sườn núi, đầu thì biến mất. Có nhiều tin đồn về cái chết của ông. Người bảo do tư thù cá nhân, kẻ bảo do Pháp treo giải lấy đầu ông cao. Còn có tin đồn ông cưỡng hiếp người đàn bà đẹp nhất ở bản Quây Sơn khiến người đàn bà đó ăn lá ngón tự tử nên chồng chị ta trả thù. Bà đã dắt theo mẹ mình và cậu vượt mấy quả núi đến bản Quây Sơn để hỏi chồng người đàn ấy đã giấu đầu ông ở đâu.

Nhưng người đàn ông ấy thề không hề giết vì thế cũng chẳng biết cái đầu của ông bị vứt chỗ nào. Người đàn ông ấy còn nói nếu có thể giết được ông thì cũng giết, chỉ tiếc là không biết hang ổ của ông để mà tìm đến trả thù. Cuối cùng bà đành ngậm ngùi đặt lên cổ ông một củ chuối vạc tròn rồi đem chôn. Sau đó mẹ mình được một người bà con dưới xuôi lên mang về nuôi. Người này là con dì con già với bà, đã hơn ba mươi mà chưa chồng. Mẹ mười lăm tuổi, người ấy chết trong trận hỏa hoạn. Còn cậu với bà ở lại đây, sống bình thản như tất cả những người khác. Một chiều, bà bảo sang bản bên chơi với bạn cũ. Bà đi, hôm sau không về, hôm sau nữa cũng không về. Cậu bổ đi tìm, thấy áo quần của bà xếp gọn gàng ven khe nước, vòng bạc, khuyên tai bạc đều còn, chỉ người là biến mất.

Cậu nằm ngửa ra, duỗi thẳng tay chân, bảo:

- Hiếu này, cuộc đời cũng đểu nhỉ.

Mình đáp:

- Cũng đểu vừa vừa thôi.

Cậu nhổm dậy, móc thuốc hút, bập liền mấy hơi hết già nửa điếu thuốc rồi búng nó ra xa.

- Mày thích, tao sẽ đưa đến gặp một người biết rất nhiều về phỉ. Tha hồ mà nghe. Lão ấy là bạn của tao. Bây giờ thì lên đây tao chỉ cho cái này.

Cậu hăm hở dẫn mình leo lên sườn núi, vòng vo hết trái lại phải rồi mới đến một mỏm đá vươn ra ngoài. Từ mỏm đá nhìn xuống là con đường độc đạo dẫn vào thị trấn. Cậu nhặt một hòn đá vung tay ném mạnh xuống con đường.

- Tao với lão ấy chặn bọn Tàu ở đây. Chỉ tao với lão ấy thôi. Hai ngày hai đêm, không thằng nào qua được.

Cậu cười hiền khô. Sương mù đã tan và nắng xuống rờ rỡ phía dưới. Ở vị trí này thì con đường trở thành tử lộ. Khi cuộc chiến nổ ra, cậu cùng ông bạn mình, là chỉ huy phó dân quân, mang theo lương khô và súng đạn lên chặn địch. Họ đã nằm ở đây hai ngày hai đêm, bắn không biết bao nhiêu đạn. Cậu bảo khi nào buồn cậu lại mang rượu lên đây uống một mình.

- Ở thị trấn này, chỉ mình tao là biết buồn thôi. Ðểu nhỉ.

Giọng cậu kiêu bạc. Tuồng như bản tính miền xuôi đang trỗi dậy trong cậu.

Bạn cậu là một ông già, năm nay đã trên bảy chục, tóc xù xòa, trắng như rễ si gặp hơi ẩm. Ông ta ngồi thu lu trên tấm phản rộng mênh mông xẻ từ cây nghiến cổ thụ, đường kính của nó cỡ tới hai mét. Thấy cậu cháu mình, ông ta cũng chẳng buồn đứng dậy, chỉ nhúc nhích đôi vai so ro ngang vành tai ra hiệu chào đón. Cậu hỏi:

- Dà, hết rượu à?

- Còn chứ.

Giọng ông ta lào phào, lơ lớ. Cặp mắt sáng láng linh hoạt của ông ta không ăn nhập gì với khuôn mặt chằng chịt các vết nhăn.

- Ðây là thằng cháu mới lên chơi.

Cậu giới thiệu. Ông ta gật đầu, uể oải rời khỏi phản, cúi xuống lôi ra cái chai cáu bẩn. Chắc chắn đó là rượu. Mình quan sát ngôi nhà, nó hơi tối, đồ đạc cũng không có gì. Ðáng giá nhất là cặp sừng hươu kềnh càng được gắn một cách cẩu thả lên vách gỗ, sát với một cái ban thờ nhỏ cũng cẩu thả, sơ sài. Một khẩu súng dài treo bên dưới cặp sừng, nòng súng đen bóng, thon thon, linh hoạt. Trên cái bàn gỗ mộc mạc chỉ có một con dao nhọn xầm xì, một chiếc ấm nhôm đen két vì đun củi và một cái khay bên trong có vài cái chén sứt, nghiêng ngả, lăn lóc. Cậu tót lên phản, khoanh chân bằng tròn, gọi mình lên theo. Mình ngập ngừng, buổi sáng mà uống rượu thì có vẻ hơi gay go. Như đọc được ý nghĩ của mình, ông ta nói:

- Uống theo sức thôi.

Mình nhấp miệng lấy lệ rồi đặt chén xuống. Hai người thì sau tiếng cạch miệng chén là dốc hết veo vào miệng luôn. Khi nghe cậu bảo mình khoái nghe chuyện phỉ, ông ta xua tay:

- Toàn giết với chóc, có gì hay mà nghe.

Mình cũng không muốn nghe nữa. Không hiểu sao như thế. Có lẽ vì mình có cảm giác ông ta kể không hay. Câu chuyện hay hay không quyết định bởi người kể. Mình không tin vào khả năng diễn đạt của ông già lù đù này. Nắng đã đi vào nhà, nhảy nhót loạn xạ trên vách và nền đất. Thấy mình chăm chú ngắm chiếc sừng hươu, ông ta bảo:

- Nó nặng gần hai tạ đấy.

- Là nói con hươu.

Cậu bổ sung cho rõ. Mình khen đây là cặp sừng to nhất mà mình tận mắt thấy. Ông ta có vẻ khoái, bắt đầu rũ bớt sự lù đù khỏi người. Có thể do lời khen của mình, cũng có thể do đã có mấy chén rượu trong người.

Rồi mình cũng không nhớ bằng cách nào câu chuyện về phỉ của ông ta đã khơi lên, mà khơi lên một cách hăng hái, nồng nhiệt ngay từ đầu. Ông ta kể say sưa nhưng không mạch lạc. Mọi thứ rối rắm, khó nối kết.

Ông ta là người được giao bằng mọi cách hạ thủ được Châu Quang Lồ, một trùm phỉ người Miêu nổi danh trên địa bàn giáp ranh giữa Tây Bắc và Ðông Bắc. Châu Quang Lồ giỏi võ, sử dụng súng cả hai tay, tính khí lại hung hãn, tàn ác. Nhắc đến gã người Miêu hoang dã đó, giới lục lâm thảo khấu đều ngại ngần.

- Ai lấy đầu Châu Quang Lồ ấy nhỉ?

Cậu hỏi khiêu khích, đầu gật gà, khoan khoái. Ông ta chạm nọc, vỗ ngực:

- Ai vào đây nữa.

Mình nhìn chằm chằm vào bàn tay nhăn nheo run run của ông ta, cố hình dung xem thời xưa nó mạnh mẽ đến thế nào mà cắt được đầu người. Mình nhớ tới bàn tay nhỏ, thon, hơi xanh xao của thằng Hiệp. Ông ta kể bám theo Châu Quang Lồ đến cả tháng trời. Phải đem gái để dụ mới tách được hắn ra khỏi đám hộ vệ.

Ông ta và Châu Quang Lồ bắn nhau kịch liệt bên một hẻm núi cho đến khi cả hai đều hết đạn và rút dao xông vào nhau. Ông ta bị Châu Quang Lồ đâm móc một nhát qua mạng sườn, cái sẹo vẫn còn. Nhưng bù lại ông ta đã quật ngã được Lồ và túm tóc hắn. Ông ta lách dao vào đốt sống thứ hai tính từ đầu xuống và dằn mạnh. Cái đầu lìa ra gần như ngay lập tức. Ðó là vụ cắt đầu làm rung chuyển thế giới phỉ và trận chiến giữa các nhóm phỉ lắng xuống cả một thời gian dài hàng chục năm.

- Ai dà.

- Ông ta chép miệng khoan khoái.

- Thân nó còn giãy kịch liệt à.

Cậu chêm vào:

- Nó còn chửi mới đểu chứ. Nhỉ.

- Ừ, nó chửi.

- Ông ta uống hết chén rượu một cách ngọt xớt. Mình hình dung có lẽ khi cắt đầu Châu Quang Lồ ông ta cũng làm nhanh như thế.

- Tao cho vào túi rồi mà mồm nó vẫn ra rả chửi.

Mình nghe kể hồi chiến tranh phá hoại, một phụ nữ bị bom phạt đứt đầu, bác sĩ mang cái đầu ấy về phòng nghiên cứu, nửa đêm bỗng nhiên cái đầu bê bết máu lẫn với tóc ấy cất tiếng gọi: Con ơi. Mình đã có lần hỏi anh Thuận về trường hợp đó thì anh bảo có thể xảy ra thật. Anh Thuận giải thích do bị cắt đột ngột nên cái đầu vẫn sống, giống như cây bị chặt phăng gốc lá vẫn xanh vài ngày. Anh Thuận dẫn cả trường hợp đầu Quan Vân Trường trừng mắt nhìn Tào Tháo ra để thuyết phục mình.

- Chửi thế nào ạ?

Mình tò mò hỏi lại lần nữa.

- Không nhớ, chỉ biết nó chửi mình thôi.

Ông ta đáp vậy nhưng giọng có gì không thật. Mình đồ rằng ông ta không muốn nhắc lại câu chửi ấy, có thể vì nó quá khủng khiếp, quá nghiệt, quá độc. Ông ta đem đầu Châu Quang Lồ về trình cho cấp trên mới biết đấy chính là kẻ có bí danh sô-cô-la. Không hiểu sao người Pháp lại đặt cho Châu Quang Lồ cái biệt danh đó, có thể vì hắn to cao, tóc nâu, mắt xanh và nghiện sô-cô-la như chúng, cái bọn Tây Dương xa lạ.

- Ðểu nhỉ?

Cậu lại cười hồn nhiên, ghẹ miệng chén của cậu vào miệng chén của mình và ông ta, ra hiệu cùng uống. Mình nhấc chén lên uống một hơi. Nắng nhảy nhót dữ dội khiến cặp sừng hươu như cũng rung rảy theo. Mình nghe tiếng ọ ẹ vọng từ đâu đó tới. Tiếng ọ ẹ thê lương, oán thán và cũng run rảy kiệt lực. Có thể bên ngoài ông ta còn nhốt một con vật nào chăng? Thấy mình dỏng tai, ông ta điềm nhiên chỉ cặp sừng hươu trên vách:

- Nó đấy. Ngày nào cũng kêu thế. Nó giống thằng Châu Quang Lồ ấy mà, cứ chửi mình suốt thôi.

Cặp sừng hươu lóe lên, máu đỏ rỉ ra chảy thành từng vệt ngoằn ngoèo. Mình dụi mắt nhìn lại chỉ thấy nắng. Nhìn thêm lần nữa thì vẫn thành máu. Rượu đã bốc lên quá mạnh, hai hốc mắt mình hầm hập nóng như hai hang chuột, thái dương rần rật. Mình ngồi ghé mông vào phản, không còn nghe thấy tiếng kêu ai oán nữa mà chỉ có những âm thanh lùng bùng, rùng rình trong đầu. Lời ông ta chờn vờn bên tai mình. Người ta đã nhờ súng phun lửa của quân đội bạn để truy diệt tàn quân của Châu Quang Lồ bằng cách bịt các ngách hang lại và phun lửa vào.

- Dà dà, Phỉ bị cháy, lao ra ngoài lăn lộn mới ghê chứ.

Hơi nóng bốc thành lửa trong hốc mắt mình, những búp lửa nhoi nhóp, rụt rè sau đó tràn rộng ra. Vân Ly vùng vẫy, quật quã mà không vang lên bất cứ tiếng thét nào. Chỉ có lửa diễn đạt sự phẫn nộ của âm thanh với những cơn bùng lên, rạp xuống, nghiêng ngả đổ và lại rướn lên trong sự im lặng.

Khi ấy mình đã quay đi, mình không dám nói bất cứ câu nào như sợ rằng nếu lên tiếng, lửa sẽ bắt sang cả mình.

- Con này là ai mà ghê nhỉ? Lúc đó anh nhìn cánh đồng mờ đục trong bóng tối, thầm hỏi về em như thế. Anh đã tự hỏi thế đấy, chính xác thế đấy. Anh xin lỗi vì đã gọi em bằng con.

Mình nhớ mình vừa loáng thoáng nghe chuyện tiếu lâm của hắn vừa nói thầm trong đầu với Trang như vậy.

Trên đường về, mình hỏi cậu tại sao ông ta lại sống xa mọi người thế. Cậu bảo ông ta mồ côi từ nhỏ, theo phỉ, rồi theo Việt Minh. Ðến bây giờ ông ta vẫn chưa hề biết một người đàn bà nào. Có việc gì khó khăn, nan giải thì chính quyền cậy đến ông ta. Ông ta không nề hà, không tính toán cân nhắc. Làm được cũng thế, làm hỏng cũng thế, vẫn một vẻ mặt bất động hiền hậu. Công của ông ta đối với dân thị trấn này lớn lắm. Không có ông ta thì dạo đó họ đã vào được thung lũng rồi. Ông ta đánh cũng lì, cứ nã phát một, không trượt viên nào. Lúc họ sốt ruột quá xô nhau xông bừa lên, ông ta liều lĩnh đu người khỏi vách đá, phơi cả thân hình lồ lộ ra, để quăng lựu đạn xuống. Ông ta đã bắn gẫy đùi một dân quân khi tay này sợ, vứt súng chạy ngược vào trong. Tay dân quân ấy là chồng người hàng xóm bên trái nhà cậu.