← Quay lại trang sách

Chương 6

Còn lại, nếu có gặp thì là những tốp hai hoặc ba người, chủ yếu dân Mèo, chân đất, đầu trần, súng kíp, áo đen nhàu, đi nép vào bên đường. Người Mèo như từ thế giới khác bị lưu đầy xuống đây, cô đơn, hung tợn, bất thường. Không thể biết trong đầu họ đang nghĩ gì. Hắn bảo người Mèo sống trên đỉnh núi, di chuyển trên đỉnh núi, chết trên đỉnh núi, ít chịu hạ sơn. Khi mình hỏi vì sao lại thế thì hắn trả lời chính hắn cũng không hiểu cái tập quán đó nảy sinh từ đâu, từ bản tính cao ngạo hay từ nỗi sợ hãi truyền kiếp vì luôn luôn bị săn đuổi. Có lẽ dân Mèo chính thức lang thang từ lúc ở bên kia nhà Chu lên thay nhà Thương. Khi ấy vua Vũ đã tịch thu hết ruộng đất của họ và họ đã phải trốn lên những vùng núi cao để tránh sự săn đuổi, tàn sát. Những cuộc nổi dậy của họ cũng bắt đầu từ thời kỳ ấy, kéo dài liên miên cho tới tận bây giờ và trở thành bản tính của dân tộc này. Thời nào họ cũng gây ra những cuộc nổi loạn. Phục ba tướng quân Mã Viện chết vì đi chinh phạt họ. Trong lịch sử phiêu dạt của mình, đã có lúc họ thành lập được cả vương quốc riêng, rộng lớn bao trùm cả Hồ Bắc, Hồ Nam của Trung Hoa, đến thời nhà Thanh thì bị đánh tan trong một trận huyết chiến mà số chết lên cả chục vạn tính gộp hai bên. Sau trận chiến kinh hòang táng đởm ấy, một số người đã dạt sang ta ở khu vực Ðồng Văn. Theo hắn, người Mèo chỉ khép nép khi gặp người Kinh, với dân tộc khác họ lại rất khảnh. Sau đó hắn hát một bài dân ca Mèo. Bài hát ế á, lảo đảo. Một nỗi buồn trầm rợn của những kẻ ly hương truyền kiếp. Trang kêu lên:

- Ối giời, dân với ca gì mà não ruột thế anh?

Hắn ngừng phắt lại, nghiêm mặt:

- Không hiểu thì đừng có dè bỉu.

Hắn là vậy, luôn bốp chát. Hồi còn học, mình cũng đã vấp với hắn nhiều lần như thế.

Nhìn những dãy núi trùng điệp vây trước mặt và vực hun hút phía dưới mà thấy ngợp thở. Mình bấm máy gọi anh Thuận khoe về chuyến đi. Anh Thuận đáp lại không hào hứng lắm.

- Ðã thấy gì hay ho chưa?

Anh Thuận hỏi mình cho có chuyện. Mình đáp cũng cho qua chuyện:

- Sắp ạ.

Tiếng xì rất dài trong điện thoại, hình như anh Thuận bĩu môi. Giọng anh nghiêm lại:

- Này, có những thứ càng bới ra càng thối đấy nhé.

Mình điếng người. Có phải là mình đang bới anh ra không? Có phải không? Tuồng như ân hận với câu nói đó, anh Thuận dịu giọng lại. Anh bảo mấy hôm nay mệt vì phải chạy chọt công an quận để lo giải quyết vụ thằng em bùa chú thế nào khiến cho gia đình một con bệnh phát đơn kiện. Vậy là thằng đó còn trở chứng. Mới hai mươi tám, cao ráo, mạnh khỏe, khuôn mặt vuông, da trắng, lông mày xanh mượt, mắt sáng, thằng đó tốt nghiệp đại học, đã được nhận vào làm ở cơ quan nhà nước nhưng vừa rồi lại đùng đùng bỏ việc về lập đàn cầu đảo, khấn vái. Ngay từ lần gặp đầu mình đã thấy nó không bình thường.

Theo anh Thuận kể, thoạt tiên cả nhà chỉ nghĩ nó thích tử vi tướng số như phần lớn những người khác, sau càng ngày nó càng ham, gặp ai cũng nói vận mạng của họ. Từ một thằng to cao lực lưỡng, đi đứng mạnh mẽ, dậm dật, càng ngày nó càng ẻo lả, uốn lượn, chân tay đong đưa như bún. Rồi giọng nó thanh hơn, cao hơn, sắc hơn. Môi nó đỏ mọng vì nhai trầu. Nó đến cơ quan, gọi giám đốc là nhà ngươi, xưng ta, sau về nhà gặp anh nó cũng xưng hô như thế. Chỉ có bố mẹ là nó còn chưa dám, nhưng cũng chỉ nói trống không. Nó bảo nó không phải là người thường, nó ở đẳng cấp cao giáng xuống, có sứ mệnh bắt quỷ. Không phải ai cũng bắt được quỷ. Anh Thuận nghĩ nó bị bệnh tâm thần hoang tưởng, nhưng thấy cũng lạ ở chỗ những cô đồng, bà cốt gặp nó đều quỳ sập xuống lạy mặc dù không biết nó là ai. Mẹ anh Thuận có đưa nó đến phủ Tây Hồ, các bà các cô cứ dạt hết cả ra, cúi mặt cấm ai dám nhìn thẳng vào nó. Anh Thuận kiểm định lần nữa bằng cách đưa nó tới tận phủ Giầy, thấy tình trạng cũng y chang vậy. Cả nhà bó tay chịu để nó lấy cái tum trên cùng làm điện, hương khói phèng la suốt buổi. Rồi người các nơi về đón nó đi làm lễ, bắt quyết, trừ tà liên miên. Công an phường đến cảnh cáo, nó chỏng lỏn chống hai mu bàn tay vào sườn, vừa nhai trầu vừa mắng họ xơi xơi. Nhìn mắt nó đánh chì xanh thẫm, tay công an phường cũng ngại, chỉ nhắc mấy câu lấy lệ rồi chuồn. Tay công an phường ngại nó vì vợ của tay này cũng thuộc diện hay theo hầu giá. Anh Thuận xin theo nó lên Phú Lương giải tà cho một gia đình. Phải nằn nì mãi nó mới đồng ý cho anh đi theo.

Người ta đón nó đến cái làng ở dưới chân một cây cầu toàn bằng sắt bắc qua nhánh sông nhỏ. Làng ấy ở chỗ bãi bồi nhô ra nhưng lại thắt eo vì dòng chảy xoáy vào. Bao nhiêu rều củi cũng quẩn ở đấy cả. Ðứng trên cầu nhìn xuống nó đã lắc đầu, mặt rợn lên bảo đứa nào ngu lại rủ nhau lập làng ở chỗ này.

Bước vào nhà, nhìn thấy bà già bị liệt nằm bê bết trong góc tranh tối tranh sáng, nó the thé mắng, “Tao thấy mày rồi, tao đã đến đây thì khôn hồn mà xéo đi chỗ khác ngay.” Nó lôi đủ thứ lằng nhằng trong tay nải ra, làm động tác bắt quyết hay bắt ấn gì đó. Tay nó múa dẻo lạ lùng. Làm phép trừ tà với những động tác loạn xị, rối rắm trong cái bầu không khí sặc mùi hương xong, nó dặn không ai được vào nhà, cứ đóng cửa để mình bà cụ nằm trong ấy. Nó ra sân lấy trầu nhai. Ðộ nửa tiếng thì nó nhả bã trầu, khinh khỉnh, bảo, “Vào xem bà già đã dậy chưa?” Anh Thuận theo chủ nhà mở cửa vào, không tin mắt mình nữa. Bà già đang men tường đi ra ngoài. Bà ta liệt cách đây hai năm và từng nằm điều trị nửa năm ở bệnh viện châm cứu trung ương mà chẳng suy suyển gì. Chủ nhà lao ra sụp xuống chân nó vái lia vái lịa. Nó điềm nhiên nhận những cái vái lạy ấy, tiện đà còn co một chân đặt lên lưng chủ nhà như đặt lên bậc thềm, phán rằng bà già bị hồn một đứa con gái chết trôi nhập vào, nấp ở nửa bên trái người. Giờ nó đã đuổi đứa con gái đó đi rồi, chỉ có điều cũng nên đốt cho đứa con gái đó một bộ quần áo làm phúc. Anh Thuận bảo lúc ấy chính anh cũng hoang mang cực độ vì nó rất khác, uy nghi, rờn rợn, mãnh liệt. Nhưng nó đường đường là thằng em, biết nó từ lúc mới tập đi, ị đái dây cả vào anh, rồi anh em còn đánh đá tranh giành nhau, thế mà giờ thành thánh nhân thì quả là có hơi kỳ. Mẹ anh Thuận xem ra cũng buồn, chỉ buồn thôi, không phản đối hay kê kích.

Các bà mẹ đều muốn con giỏi nhưng không bà mẹ nào muốn con là thánh.

Mình cũng đã chứng kiến lễ gọi hồn bố mình ở đền xương rồng trước ngày anh lên thăm cậu. Khi ấy bà đồng ngất ngất trên cái chiếu hoa có chữ Phúc. Và bố về, giọng hơi khàn khàn, thi thoảng lại thảng đi vài âm. Mẹ rơm rớm nước mắt, còn anh thì soi mói tìm ra cái mánh khóe lừa bịp của đồng để vạch mặt. Anh không ngồi thu tay vào lòng khiêm cung như mình và mẹ mà liên tục hỏi vặn. Anh hỏi, “Bố nhớ hôm mình chở gỗ về, bố bảo gì con không?” Bố đáp, “Tao bảo mày cân nhắc xem có nên lấy con Hằng làm vợ không.” Anh lại hỏi, “Bố nói cụ thể xem nào?” Bố cáu, đứng vụt dậy, xuống tấn, mắng, “Không tin thì gọi tao lên làm gì.” Anh bảo, “Con không gọi mà mẹ gọi.” Bố tức giận vặn lệch cả người đồng: “Xéo cha mày đi. Cừ rừm.” Anh đứng lên sấn lại chỗ đồng không rõ định làm gì nhưng bị mẹ hốt hoảng níu xuống. Mẹ hỏi, “Ông có cần nhắn gửi gì không, bảo một câu cho mẹ con tôi biết mà làm.” Ðồng đảo ngược mắt, văng tục, “Bà có dí lồn vào.” Rồi thì hồn thăng. Bà đồng hồi về, bảo lần sau cấm cửa cái bản mặt anh. Con cái gì mà bất hiếu, gọi hồn bố về rồi lại tra hỏi vặn vẹo. Anh nổi xung lên hỏi bà đồng căn cứ vào đâu mà khẳng định đấy là bố. Bà đồng nhổ nước bọt, xua tay đuổi anh ra khỏi sới, nói, “Không bố cậu thì bố con chó à?” Anh lý sự, “Bố tôi là đàn ông, sao lại ăn nói là bà dí lồn vào.” Câu vặn ấy làm đồng cứng lưỡi. Nhưng đến đêm, mình hỏi thì anh lại ngập ngừng thú nhận hình như đấy chính là bố thật. Anh chỉ nói thế rồi ngủ, ngáy khò khò.

Trang bấu tay, thảng thốt ra hiệu cho mình nhìn thẳng đằng trước. Trên trời, một đám mây trắng hình chữ nhật đang từ từ trôi lại. Ðám mây vừa trôi vừa biến hình và chỉ trong chốc lát nó đã mang dáng của một con ngựa. Mình biết nếu không nhanh có thể sẽ bỏ qua một khoảnh khắc đẹp lạ lùng nên vội vã chạy lại xe mở túi lấy máy ảnh. Ðám mây trôi từ từ, lờ vờ, hình con ngựa mỗi lúc một hiện ra rõ ràng hơn, như là có bàn tay vô hình đang tạc nó. Một con ngựa khỏe khoắn, thanh thoát với hai vó trước xoải thẳng và hai vó sau co lại trong tư thế của cú nước rút. Mình bấm liền mấy kiểu, hối hả, tham lam. Con ngựa trôi thẳng đến, phủ lấp mặt trời. Ánh sáng từ phía sau chiếu ra biến đám mây từ trắng trở thành màu xám và tạo một đường viền chói lói quanh con ngựa. Những dải sáng hình dẻ quạt chiếu từ bụng con ngựa xuống các chóp núi làm chúng lóe lên như những mũi mác. Con ngựa xám đang lồng lộn phi trên một rừng gươm nhọn hoắt. Hắn cùng lái xe đứng tựa vào thành xe vừa phì phèo hút thuốc vừa nói chuyện với nhau. Ðám mây xô nhè nhẹ, bắt đầu tan biến. Ðầu con ngựa rời ra, nhòa đi rất nhanh, tưởng chừng như có một lưỡi gươm khổng lồ vừa phạt ngang qua nó. Hình ảnh đó thật thê thảm, ghê rợn. Mình không muốn bấm máy nữa, lững thững quay lại. Hắn hất cằm hỏi:

- Ðược chứ hả?

- Ðược.

Mình đáp, nhìn vẻ kiêu hãnh, tự mãn của hắn sau đó nhìn xuống thung lũng ngay dưới chân. Nếu xe trượt xuống thì chúng mình chỉ còn là những mảnh thịt vụn tơ tớp như đám mây kia. Hắn bảo chút nữa đến dốc Hạ Lang sẽ ghé vào nhà một người quen ăn cơm. Mình đề nghị tìm quán ăn với lý do không muốn phiền hà nhưng thật ra là mình ngại vì người ở đây vốn rất bẩn. Nếu phải bắt buộc thì mình có thể cố gắng chứ Trang chắc chắn là không kham nổi. Hắn nói đây không phải người dân tộc mà là người kinh, quê gốc ở Nam Ðịnh.

- Người này đặc biệt lắm đấy.

Hắn không cần giấu diếm sự huênh hoang. Mình nghĩ bất lắm ông ta cũng chỉ lẫy lừng như ông già bạn cậu là cùng. Nhưng hóa ra đó là một người đàn bà. Người đàn bà đó rất khó đoán tuổi, to cao, tóc bạc thành từng vệt, mặt nhiều nếp nhăn, má và cằm đã xệ xuống. Mắt bà ta đục, tròng đen ngả màu nâu nhạt và mỗi khi nhìn thì đôi tròng ấy lờ vờ, luẩn quẩn như khói. Hắn giới thiệu bằng giọng nhát gừng sau đó ngồi xệp xuống cái chiếu rách bươm trải giữa nhà thay cho ghế. Người đàn bà lừng lững đến cạnh Trang, hai cánh mũi hít hít rồi cười:

- Gái Hà Nội.

Trang cười, trờn trợn ngồi xuống như tránh bị bà ta áp sát quá. Hắn nói với người đàn bà sẽ ăn trưa ở đây. Người đàn bà gật đầu, bảo:

- Cứ uống rượu đã, lo gì.

Bà ta vừa dứt lời, một người đàn ông từ gian bên trái xách chai rượu nút lá chuối khô ra. Ông ta cũng to cao không kém gì người đàn bà, có điều khuôn mặt lành hơn, thuần phác hơn. Ðó là chồng bà ta, ông ấy bị câm. Người đàn ông ngồi xuống cạnh vợ và họ giống như hai ngọn núi sừng sững.

- Bọn trẻ đâu?

Hắn hỏi. Người đàn bà đáp:

- Ði rừng hết rồi. Chiều mới về.

Bà ta uống liền hai chén rượu rồi đứng dậy đi nấu cơm. Mình thực sự ngại ngùng khi nhìn khu bếp nhôm nhoam, đen đúa. Hắn hỏi người đàn ông:

- Dạo này có được con trăn nào không?

Người đàn ông lầm lừ gật đầu, cái chén nằm gọn trong bàn tay khổng lồ của ông ta. Hắn lại quay sang nói với mình như không hề có người đàn ông bên cạnh:

- Lão này không phải câm từ bé đâu. Mới bị độ hơn chục năm thôi. Vua bắt trăn của cả vùng Ðông Bắc đấy.

Người đàn ông nhìn mồm hắn, nhìn mình sau đó lại nhìn lái xe. Tuyệt nhiên ông ta không hề để mắt tới Trang. Hắn uống rượu như uống nước cùng với người đàn ông nhưng lại lải nhải kể cho mình nghe về biệt tài bắt trăn của ông ta. Ông ta đã từng dọc ngang khắp cả dải Tây Côn Lĩnh để tìm trăn. Ðến bây giờ thì không thể biết ông ta đã bắt bao nhiêu con.

- Bố khỉ.

- Hắn bổ bã vỗ vai người đàn ông.

- Thế nào rồi lão này cũng bị truy tố vì tội làm trăn tuyệt chủng cho mà xem.

Rồi hắn cười, người đàn ông cũng cười, lái xe cũng cười. Chỉ có mình và Trang là ngồi im. Con trăn to nhất ông ta bắt được nặng đến bốn tạ, phải thuê bảy người đến khênh mới mang về được. Thế nhưng chính ông ta đã từng suýt chết vì bị trăn vàng quấn. Con trăn vàng đốm hoa đen to như cái cột nhà đã ghì được hai vòng quanh người ông ta, may mà còn con dao nhọn nên ông ta trích ngang thân trăn và thoát chết, chỉ bị gẫy hai cái xương sườn dưới cùng. Không chỉ ở vùng này mới có trăn to, xa xưa, dưới Mê Linh, có những con trăn to lớn đến mức nuốt trọn được cả người. Thuở ấy, những con trăn khổng lồ, thường được gọi là Nhiêm Xà, trở thành nỗi khiếp hãi đối với đội quân thiện chiến của Mã Viện khi truy sát tàn quân chị em Trưng Trắc, Trưng Nhị.

Mình kín đáo ngắm khuôn mặt chắc như đá của người đàn ông câm, cố đoán xem ông ta là dạng người nào nhưng đành chịu. Hắn bảo ông ta người Dao. Theo hắn, đàn ông Dao phần lớn cũng xoàng, nhưng thi thoảng lại nảy lòi ra vài ba người rất đặc biệt, như ông ta chẳng hạn. Rắn chắc, không bao giờ bị khuất phục, không sợ chết và cực trung thành. Ông ta lấy vợ chỉ vì ơn nghĩa. Chuyện cũng lạ, ông ta bị truy tố vì tội đánh nhau với ba công an huyện. Nguyên nhân đánh nhau chẳng rõ ràng, mỗi bên kể một phách, bên nào cũng cho mình phải. Không thể kết luận được. Chỉ biết hậu quả là ông ta đâm thủng bụng một người, làm hai người còn lại gãy tay. Nhưng tội nặng nhất chính là việc ông ta đã vứt súng của công an xuống vực.

Bà, trong tư cách phó chủ tịch huyện đã đứng ra bảo lãnh cho ông ta, với lý do cần phải giữ gìn mối đoàn kết giữa người Kinh với đồng bào dân tộc. Khi ấy, ông ta xấp xỉ mười tám tuổi, còn bà đúng hai mươi tư.

Họ lấy nhau, đẻ năm đứa, chết mất hai, còn lại ba thằng con trai sàn sàn nhau.

Người đàn bà nấu cơm ở bếp nhưng thi thoảng lại chen vào câu chuyện của hắn. Bà ta nói hồi ấy nếu không có bà thì ông ta đã tù mọt gông rồi. Hắn hỏi tại sao bà lại bảo lãnh cho ông ta. Bà bảo thứ nhất vì ông ta là dân của bà, bà làm phó chủ tịch huyện cơ mà, thứ hai là ông ta trông đẹp trai, khỏe mạnh.

- Mình thấy nó tốt thì giữ lại để dùng thôi.

Bà ta nói vọng ra từ trong cái đụn khói mù mịt như sương sớm bốc lên từ cái bếp củi. Trong khói có mùi thịt luộc. Hắn chán ngồi, nằm ềnh ra, gác đầu lên đùi lái xe. Người đàn ông rót thêm rượu vào cho đầy chén, nhìn mình cười hiền lành. Lớp da cổ của ông ta gờn gợn như vẩy. Hắn phiên dịch cho mình rằng như vậy là ông ta muốn uống với mình một chén.

- Bắt đầu khoái rồi.

Hắn rống lên, khàn khàn, nồng nã. Cả hai cùng cạn chén. Mình tỏ thịnh tình, nhưng ông ta có vẻ ngại ngùng, chằm chằm nhìn vào bàn tay đang chìa ra của mình. Hắn đánh lưỡi đến chốp một cái, nheo mắt khích lệ ông ta. Bàn tay người đàn ông vươn ra và một cảm giác buốt nhói dội lên tận óc mình kèm theo những cú lắc điên đảo. Trong đời chưa bao giờ mình gặp cái bắt tay dữ dội, tàn khốc đến như thế. Ông ta bóp chặt tới mức mình có cảm giác bị một con gì đó cực khỏe siết chặt. Hắn tròn mắt, há mồm nhìn mình vẻ thích thú.

- Thấy cái cảm giác trăn nó núc như thế nào chưa?

Câu thán phục của hắn làm mình sởn da gà. Cả bàn tay, cả cánh tay của người đàn ông ấy quả thật giống như một con trăn gió đói mồi, cuồn cuộn, hau háu. Ðôi cánh tay của cậu khi xách thùng nước cũng cuồn cuộn vậy. Ở những vùng hiểm trở, cơ thể luôn luôn là cơ thể của hoang thú. Người đàn bà lại nói vọng ra, lần này thì gắt:

- Vừa vừa thôi, không phải ai cũng chịu được đâu.

Trang bật cười khanh khách. Mình nhăn nhó quay sang chữa ngượng:

- Em thử bắt một cái xem.

Người đàn ông thu tay vào lòng cùng với chén rượu đã uống cạn. Hắn nói với Trang bằng giọng của nhân viên tiếp thị giới thiệu mặt hàng:

- Ngày trước, có một tay trung đoàn trưởng đặc công đóng quân ở đây cứ khoe khoang vênh vang, anh cho gặp ông ấy, thế là tịt ngòi luôn. Em bảo, không thế, làm sao mà bắt trăn được.

Mình vẫn còn canh cánh về nguyên nhân người đàn ông thép này bị câm mà chưa dám hỏi. Bà vợ ông ta trông vậy nhưng nấu ăn lại khá, không đến nỗi bẩn như mình nghĩ. Mọi thứ đều bốc khói, nóng hổi, bát đũa hóa ra rất sạch. Hắn lại bảo nếu muốn biết hết cuộc đời vợ chồng này thì nên ngủ qua đêm ở đây. Nhưng chẳng đến mức ấy. Chỉ tan bữa cơm mình cũng biết khá nhiều về họ. Vấn đề là mình không có ý định tìm hiểu. Mình đâu phải nhà truy tầm tiểu sử cá nhân, mình chỉ là kẻ thích đi chơi, thích nghe, thích biết nhưng không để dùng vào việc gì. Phần lớn những hiểu biết của con người chỉ là để giết thời gian. Ngay cả sự hiểu biết của ta về chính tiểu sử đời ta cũng vậy thôi.

Người đàn ông ấy, qua lời bà vợ, dính dáng tới Tả Sèo Dần. Bố ông ta là thuộc hạ của Tả Sèo Dần, sống chủ yếu bên phía Tây Bắc. Khi được giác ngộ, bố ông ta đã lấy đầu của Tả Xèo Dần nộp cho chính quyền. Không có cái công trạng đó của bố, dĩ nhiên cả với sự bảo lãnh của bà phó chủ tịch huyện nữa, đâu biết số phận ông ta thế nào. Sau khi lấy người chồng kém mình sáu tuổi, bà thôi chức phó chủ tịch huyện, gia nhập đám buôn gỗ của mấy đứa cháu để kiếm tiền nuôi gia đình. Làm với chúng nó được vài năm, có tí vốn, bà bỏ cuộc, mở cửa hàng bán tạp hóa ở ngay nhà và mọi thứ cứ tằng tằng thế này cho tới khi lũ con lớn lên. Có điều bà giấu chuyện trong ba đứa con thì hai đứa nghiện. Khi rời nhà bà hắn mới tiết lộ với mình như vậy.

- Tôi thấy bà ấy có quái gì đặc biệt đâu?

Ngồi trên xe mình chất vấn hắn. Hắn ngả đầu vào thành ghế, đôi mắt lim dim đầy bí mật. Lái xe ho khan. Những rặng núi xanh ngút trùng trùng quây bốn phía. Cái đặc biệt lớn nhất là bà ta đã từng ăn thịt người. Hắn bảo vậy.

Dạo ấy, chính quyền khu huy động nhân lực mở đường lớn lên các huyện. Khi phá đá, có một cô gái rất trẻ quê ở Thái Bình, bị đá đè chết. Bà ta cử hai người phụ nữ trong bản cùng với mình mang nạn nhân vào chân núi chôn. Mấy ngày sau một trong hai người phụ nữ kia bị rắn độc cắn chết ngay trên giường. Người còn lại khi nhìn thấy xác chết với đôi mắt lộn tròng trắng dã, cái miệng há ra đau đớn, cặp môi phồng rộp xám xịt như quết nhựa cây, thì bỗng bị ma xui quỷ khiến xưng xưng nói đây là báo oán vì bọn họ đã ăn thịt người chết. Người phụ nữ ấy kể khi mang xác ra chân núi chôn, bà phó chủ tịch nói nếu ăn thịt người chết trẻ thì có thể trẻ mãi. Thoạt đầu hai người kia sợ hãi phản đối, nhưng rồi cũng bị bà phó chủ tịch thuyết phục. Ba người đã cắt gần hai cân thịt đùi đem vào rừng nướng rồi chia nhau ăn hết. Phần lớn không ai tin lời người phụ nữ kia, chỉ có vài ba kẻ tin thì lại không có bằng cớ.

Hai ngày sau khi kể câu chuyện động trời, người phụ nữ ấy hóa điên và biến mất tăm như chui sâu vào lòng núi. Còn bà thì tuyệt không hé răng nói bất cứ câu nào về chuyện ấy. Lời đồn đại cứ râm ran trong huyện và chỉ râm ran thế, không bao giờ được đưa ra công khai để xác định. Chính quyền dứt khoát coi đó là tin đồn nhảm nhằm bôi xấu cán bộ. Năm nào huyện chẳng có người bị rắn cắn chết. Còn người phụ nữ dựng chuyện rồi biến mất kia thì vốn trước đó đã có dấu hiệu thần kinh không bình thường.

- Bà ấy ăn thật đấy.

Hắn tưng tửng kết luận.

- Hoang đường. Dân miền núi còn tin được, đằng này bà ấy người Nam Ðịnh, lại có học...

Mình buông lửng câu nói đầy vẻ nghi ngờ. Hắn dựng người lên như bật lò xo, vỗ mạnh vào vai lái xe:

- Quay lại hỏi bà ấy luôn.

Lái xe cười rất hiền. Lái xe nào cũng thế, luôn trang bị nụ cười hiền, nhưng chỉ tưởng là hiền, thực ra đó là sự khinh mạn. Xe vẫn cứ khó nhọc leo, càng lên cao càng thấy khó thở. Và mây cũng chẳng đẹp nữa. Bầu trời luôn mờ mờ, có thể đó không phải trời mà là sương núi dâng lên. Câu chuyện người đàn bà ăn thịt người luẩn quẩn trong đầu mình. Khi đã ăn thịt đồng loại thì ý nghĩ hẳn là lạnh lắm.

- Kể cũng ghê thật.

Trang thốt lên, phá vỡ sự im tiếng một đoạn khá dài. Hắn nói trong bộ sưu tập gần bảy chục số báo Việt Nam độc lập mà bố hắn có được, số 122 ra ngày 1 tháng 4 năm 1942 đưa tin về chuyện người phải ăn thịt người ở Cao Bằng. Hôm ấy có khoảng hai mươi người thợ xây ngồi ăn thịt chó ngoài cổng chợ thì gặp lính Nhật đi qua. Bọn Nhật nghi mấy người này bắt trộm chó của chúng nên bắn chết ba người và bắt những người còn lại nấu thịt một người ăn ngay trước mặt chúng. Mình tin lời hắn, không phải do hắn miêu tả kỹ lưỡng đặc điểm số báo đó, mà vì hồi cùng học, hắn cũng là thằng nổi tiếng có trí nhớ tốt, đặc biệt về các thông tin trên báo. Vả lại ăn thịt người đâu phải là chuyện hiếm. Giỏng tai lên có thể nghe ở bất cứ đâu những câu chuyện như thế. Sách cổ ghi lại chuyện ở vùng Phong Khê, Bạch Hạc có loài đười mặt ngay ngắn như mặt người, lại nói được tiếng người, giọng rất buồn, buồn đến mức khi nghe hai con đười nói chuyện với nhau thì ai cũng não lòng chảy nước mắt. Ngày kia, viên huyện lệnh được một người mời đến nhà khoản đãi. Viên huyện lệnh nhìn quanh, không thấy đồ nhắm gì ngoài cái cũi nhốt một con đười trong đó, bèn hỏi chủ nhà: Ðãi ta món gì đấy? Chủ nhà chưa kịp trả lời thì đười nói: Chỉ có rượu nhắm với thịt tôi thôi. Mình cho rằng đười thực ra cũng là một loại người thiểu số như những người thiểu số bây giờ. Gan của Haitce, viên thông dịch viên người Pháp ở Móng Cái, cùng với đoàn tùy tùng của ông ta đã từng bị đám người bên kia nướng ăn nhồm nhoàm ngay giữa hàng phố. Trảo Sành Phú, từ khi nổi phỉ cho tới lúc kết thúc cuộc đời, đã ăn cả thảy mười một buồng gan người. Thế gian này, xét cho cùng, từ khởi nguồn đến giờ, chưa hề mất đi một cái gì, kể cả sự mông muội.

- Có biết tại sao bà ấy vẫn được mọi người nể không? - Hắn hỏi, giọng đã bớt đi chút bực bõ. Thấy mình lắc đầu, hắn nói luôn - dạo Tháng Hai, vợ chồng bà ấy lấy mạng mười bảy thằng địch đấy.

Trang e hèm, ngó ra ngoài. Người đàn bà ấy sống như tảng đá giữa những âm ỉ, đồn thổi về vụ ăn thịt người. Năm đó, khi họ kéo quân sang, dân chạy như vịt về xuôi thì người đàn bà ấy, sau khi giấu con vào hang núi cùng với số lương thực đủ dùng trong nửa tháng, đã lặng lẽ cùng chồng chia làm hai hướng quay trở lại huyện.

Thời gian địch đóng lại, quân báo của Quân khu được cử lên thám thính đã báo về là địch có biểu hiện hoảng loạn, luôn căng thẳng vì vấp phải một lực lượng nhỏ lẽ nào đó của địa phương. Quân khu hỏi tỉnh, tỉnh hỏi huyện, huyện báo đã rút hết lực lượng ra vòng ngoài, chưa cho tham chiến. Quân địch vẫn tiếp tục báo động và căng thẳng cho đến khi đánh thông được đường để lui qua hướng Cao Bằng. Khi địch rút, chủ lực lên thì bà ta cùng với chồng đón bọn trẻ trong hang về nhà. Họ nằm trong danh sách nghi ngờ vì có hành tung mờ ám trong thời gian địch chiếm đóng huyện. Cho đến khi chủ tịch huyện tới gặp thẳng vợ chồng họ để nói chuyện thì bà ấy mới khùng lên, túm lấy ông ta hất lên vai, cứ thế vác chạy vào khe núi. Dân quân và cán bộ huyện rầm rập theo để cứu chủ tịch. Ðến một cái hỏm núi ăn chếch xuống lòng đất, bà ta thả chủ tịch huyện xuống và kéo cành cây khô ra. Mọi người rụng rời khi thấy mười bảy đầu người chất đống trong ấy.

Mười bảy thủ cấp quân địch bị vợ chồng bà cắt, vết cắt nào cũng gọn ghẽ. Hiện tượng quân báo của Quân khu còn thắc mắc vì sao không gặp phải sự kháng cự của quân ta mà địch vẫn hoảng loạn đã được làm rõ. Huyện và tỉnh đề nghị trên thưởng huân chương cho hai vợ chồng họ nhưng trên lờ đi một cách khó hiểu. Thiên hạ rỉ rách với nhau rằng trên thấy nêu điển hình không tiện nên mới lờ đi như thế. Mình nhớ trong số báo Công An Nhân Dân cách đây hai năm có đăng một vụ giết người ở Thái Nguyên, thủ phạm giết năm xe ôm, chôn trong vườn nhà hắn. Khi khai quật hố chôn người lên thì thấy cả năm cái xác đều mất đầu. Hóa ra hắn đã chôn năm cái đầu dưới gốc cây ổi cách đấy vài chục bước.

- Nghỉ một lát được không ạ?

Trang đề nghị với lái xe. Hắn lại châm thuốc hút cùng lái xe và vẫn tiếp tục nói với mình về người đàn bà kia. Hình như hắn còn cay mũi câu mình nói bà ta chả có gì đặc biệt thú vị. Theo hắn bà ta còn lập một chiến công ngoạn mục nữa vào năm Tám Tư, năm bước vào cuộc chiến thứ hai giữa ta với họ, cuộc này dữ dội hơn cuộc đầu nhưng lại kín đáo, âm thầm hơn. Tháng Sáu năm Tám Tư, bà ta lặn lội qua Thanh Thủy và dự trận kịch chiến giành lại cao điểm Một nghìn năm trăm linh chín vừa bị họ chiếm. Trong hàng tháng trời ròng rã quần nhau dưới làn đạn pháo của cả hai bên, dưới những cơn mưa như trút làm trương phình các xác chết, bà ta đã bắn hạ rất nhiều kẻ thù, nhưng ngoạn mục nhất là phát B40 làm tan tành chiếc hầm chỉ huy của đại đội pháo binh địch. Bà ta lật xác một người lính lên, lấy khẩu B40 đã lắp sẵn đạn, xõa tóc, đứng thẳng người và bóp cò. Có thêm chi tiết nữa mà người ta không nhắc tới trong bản báo cáo thành tích: khẩu B40 khi bắn ra đã đốt cháy luôn nửa mặt của cậu lính thông tin đứng phía sau. Cả kẻ bắn lẫn người bị cháy mặt đều quên béng rằng có lửa phụt ra ở đằng sau. Cú bắn ấy cũng là cú cuối cùng cho đợt đánh giành cao điểm.

- Mãi rồi thì cũng kiếm được cái bằng khen của Quân khu.

Hắn thả khói theo hình tròn, nói đầy vẻ tự mạn. Cái hình tròn song sóng bay trong không khí, méo xệch rồi tan ra không còn chút dấu tích nào.

- Có sóng rồi này.

Trang reo lên. Hắn phẩy tay định nói gì đó, sau lại thôi. Phong cảnh mượt lịm, không có dấu tích nào của cuộc chiến. Mọi thứ còn nguyên sơ, núi không tróc lở, cây không đổ, đường phẳng lừ lượn sóng một cách điệu đàng. Ðến cả hình dung về phỉ ở chốn này cũng lạc lõng, mình nghĩ thế.

- Sòng phẳng ra thì bà ấy phải được phong anh hùng mới đúng.

Hắn lại nói, khàn khà, ồ ề. Trong cái khung cảnh hùng tráng đến tức ngực này mọi công trạng trở nên loi choi chẳng đâu vào đâu. Mình nhặt một viên đá lia nó ra xa nhưng viên đá rơi ngỏm xuống vực.

Trời chiều phủ lên cao nguyên khiến mình chạnh nghĩ sự có mặt của mình ở chốn tít mù tắp này chẳng có nghĩa gì cả. Vài ba người dân tộc say rượu gật gà, lầm lầm đi, mỗi khi thấy xe họ lại nép vào vệ đường, giương đôi mắt xầm xì, vô cảm nhìn theo. Giữa mình với họ là ngàn trùng.

Trong bóng tối từng mảng lớn do núi đổ xuống, mình thấy nghi ngại. Không hiểu sao mình cứ trờn trợn nghĩ đến tình huống nào đó giống như con chó của ta bỗng dưng không nhận ra chủ chẳng hạn. Hắn lại châm thuốc, cường độ hút của hắn ngày một tăng lên theo đà hăng hái của câu chuyện. Ở cơ quan, chú bắt tất cả mọi người phải cam kết bỏ thuốc. Còn tại đây, không khí thật dồi dào, hắn có thể hút đến cả nghìn bao một ngày mà chẳng thấm tháp gì đến môi trường. Cao nguyên này có thể dung chứa tất cả những kẻ nghiện thuốc lá của thế gian. Mình nhớ lại khuôn mặt người đàn bà ấy, thấy gò má của bà ta như có than ở bên dưới. Trí nhớ lần xuống cổ, xuống cánh tay để trần của bà ta, và nhận ra rằng vẫn có sự mịn màng, vẫn còn gì đó mướt mát lắm, ở cái tuổi trên dưới năm mươi. Hắn tiết lộ thêm, bằng cách hạ giọng để Trang khỏi nghe, bà ta rất mực chung thủy với chồng. Biết bao nhiêu lái xe qua tuyến đường này gạ bà ta và đều nhận được sự cự tuyệt thẳng thừng dù cho có những gã vạm vỡ và đẹp trai đến mức hoa hậu còn khó từ chối. Người đàn bà đó đã đâm thủng lá lách một lái xe chỉ vì hắn dám khùa tay lên ngực của bà ta vào buổi trưa, đúng lúc trời mưa như xối. Khi ấy trong nhà chẳng có ai ngoài bà ta, chồng con đi vắng cả. Chính bà ta đã hì hục cõng gã lái xe đó đi hơn chục cây số đường rừng giữa mưa để đến bệnh xá cấp cứu. Sau này gã lái xe đó nhận bà ta là chị nuôi. Còn những chú lính trẻ măng tơ, hừng hực đóng quân gần đấy, sểnh cái là ra quán của bà chị ngồi lê la, chỉ huy có đá đít, bạt tai cũng phớt lờ. Vài ba chú lính, chẳng hiểu phét lác hay nói thực, rỉ tai nhau rằng bà chị thương đàn em thi thoảng cũng cho sờ ti, nhưng chỉ sờ ti thôi, cấm đi xa hơn. Mình không tin, đàn bà, khi đã nắm được tay là sờ được ti, mà đã sờ được ti thì có thể nằm lên bụng bất cứ lúc nào. Hoặc bà ta lăng loàn với rất nhiều người, hoặc bà ta chung thủy đến nghiêm khắc luôn, làm gì có chuyện cho sờ ti và chỉ có sờ ti thôi, ai mà chịu được. Lính tráng hay hoang đường chuyện đàn bà.

Có một khúc gỗ nữa văng từ trên sườn núi xuống nóc xe sau đó lăn tới khúc gỗ đen bóng đang nằm chắn ngang đường. Bọn họ dạt ra, lẫn vào với màn sương đùng đục.

- Trăn!

Tiếng ai đó thảng lên và đôi trăn ngóc đầu nhìn về phía xe. Người cầm bộ đàm rút phắt khẩu súng ngắn ra, miệng lầm bầm:

- Từ từ, từ từ, đừng ai cử động.

Lái xe ngồi như hóa đá, hai tay bấu chặt vô lăng, người hơi ngửa về sau. Trang rúc vào mình, cố rúc thật sâu. Nửa thân trên của đôi trăn vẫn im phắc, nhưng nửa dưới bắt đầu chuyển động. Mình thấy những cuộn sóng co rút nhoang nhoáng, chúng đan vào nhau, rồi lẩn ra và không thể nhận biết phần của con nào với con nào nữa. Bốn mắt vàng khé, tròn vo như bốn quả bóng bàn căng lộng, chực bắn vút về phía trước.

- Ðây có phải là Nhiêm xà từng bạt vía đội quân chinh phạt của Mã Viện không?

Không ai trả lời mình, trần trụi thế này thì lấy đâu ra câu trả lời. Lại có tiếng lên đạn, lần này kìm nén hơn.

- Quay cửa kính đi - Người cầm bộ đàm nói. Lái xe quay. Người cầm bộ đàm lại nhắc - từ từ thôi.

Khi cửa kính đã đóng kín hết thì một ý nghĩ vụt trào lên trong mình. Xe đang dừng ở đúng khúc cua tay áo và một phần đuôi xe gần như thò ra khỏi mép đường. Chỉ cần một lực tác động không quá mạnh là xe có thể sẽ rơi xuống vực, xuống cái khoảng tối mờ mờ đang dềnh dàng những luồng sương trắng kia. Thời gian dường như ngưng lại, chỉ có tiếng rì rầm của gió uốn qua ngàn hẻm núi. Xe đã tắt máy, đèn sáng một cách phập phù. Và nếu nó tắt, sự hiểm nguy chắc chắn sẽ đến. Ðôi trăn uyển chuyển, đĩnh đạc tiến lại gần xe. Mình thấy rõ lớp da sáng nhấp nhánh có những đường kẻ đen lịm pha với các đường kẻ vàng ươm của chúng. Dưới lớp da xếp hình quả trám là những đợt sóng ngầm cứ cuồn cuộn trào lên rồi lặn mất, lại trào lên. Hai cái đầu trăn song song nhau, giống hai tảng đá hình thoi, uy nghi, lạnh lùng, thi thoảng từ miệng chúng lại phóng ra hai tia chớp đen. Còn cách xe khoảng hơn mét thì đôi trăn tách ra, một con bên trái, một con bên phải. Khi cái đầu trăn bên phải ghé vào mặt kính thì Trang gần như không thở. Rồi thì đôi trăn cũng bỏ đi, êm ru như chúng chưa từng xuất hiện. Mình đã chứng kiến tất cả, bọn họ đều rúm ró, đều nhũn nhùn. Mình nhớ tới người đàn ông bắt trăn, nhưng ông ta lại không có mặt trên chuyến xe này. Ông ta còn lậm lụi với bà vợ ăn thịt người của ông ta.

- Mẹ nó.

Người cao lớn bật ra tiếng chửi như giải thoát cơn sợ hãi. Lái xe lại nổ máy và xe chầm chậm tiếp tục lăn. Không ai nói gì, họ im lặng, cố nhớ lại giây phút đã qua, vừa để tận hưởng lại, vừa để kiểm điểm xem mình có bộc lộ cử chỉ nào đáng xấu hổ không. Trang thút thít. Mình chưa bao giờ thấy Trang khóc, giờ thì được nghe. Tiếng khóc cố dằn lại mà không được. Người cầm bộ đàm ngoái xuống, qua ánh sáng hắt ngược, mắt anh ta ngả tím. Mình hạ người, gạ cằm lên vai Trang an ủi. Không rõ Trang khóc vì sợ hãi hay vì gì khác. Nếu đôi trăn tấn công, nếu chúng hất chiếc xe xuống vực thì có lẽ mình đã biết trong Trang là gì rồi cũng nên.

Ðường giống như con trăn lớn, xe thì cứ đổ xuống trên cái thân trăn đó. Cảm giác rờn rợn còn lởn vởn trong xe, ở từng người, bởi sự im lặng, dĩ nhiên không loại trừ mình. Lái xe là kẻ phá vỡ sự ngượng ngùng này.

- Ðến bây giờ mà vẫn còn loại khủng như thế.

Người nhỏ bé hỏi với lên:

- Cái gì khủng?

- Hai cái con khỉ gió ấy chứ còn cái gì nữa.

- Hai con khỉ gió nào?

Hóa ra có một người ngủ khì và không hề biết gì đến chuyện vừa xẩy ra.

- Chịu bố thật đấy - Người to lớn dài giọng - có khi cả bọn nằm dưới vực rồi mà bố vẫn ngủ.

Người nhỏ bé nghe thuật lại chuyện hai con trăn thì ố á liên tục ra vẻ tiếc rẻ.

- Thế mà chả ai gọi một câu.

- Sợ gọi ông dậy, ông lại chết ngất luôn.

Lái xe trêu. Người nhỏ bé nghiêm giọng:

-Sao không bắt?

Mình phì cười nhưng bọn họ không để ý.

- Lúc ấy tớ thấy hoảng thực sự. Nó to quá.

Người cầm bộ đàm giờ mới thú nhận. Nhưng ngay cả khi thú nhận giọng anh ta vẫn trầm trầm đầy bản lĩnh. Bọn họ rào rào đoán trọng lượng của đôi trăn, quên luôn cả việc Trang đang khóc. Tranh thủ lúc ồn ào, mình hỏi Trang:

- Làm sao thế em?

Trang lắc đầu, mình không nhìn thấy Trang lắc đầu nhưng biết vì mạng sườn mình có những cú xoáy.

Ngoài xe, đêm vẫn đang trải đến vô tận. Bọn họ lại hiện ra từ lúc nào, bình thản ngó mình chờ đợi.

Dưới chân núi, bên hông xe, một dòng sông nhỏ oằn oại, xanh lục bám theo xe từ rất lâu. Thi thoảng nó lại khuất sau những lớp mây trắng mỏng bất thần từ đâu đó dạt qua, rồi lại hiện ra, nhẫn nại, mê mải giữa hai dãy núi đang gầm gừ đối diện nhau. Rìa sông có dăm ba nóc nhà dài nằm xộc xệch không theo hướng nào cả. Mình gạt chủ đề về loài chó săn dữ tợn của người Mèo mà hắn đang say sưa ca ngợi bằng cách hỏi xem đó là sông gì. Hắn hơi cụt hứng, nghển cổ ngó ra, bảo:

- Sông Nho Quế.

Sau Ðổ Chú, đây là con sông thứ hai được các sử gia lưu tâm ghi chép nhiều nhất mặc dù nó không có giá trị gì đặc biệt ngoài cái vẻ nhẫn nhịn, tuân phục chảy giữa hai dãy núi chất ngất. Nho Quế giống như những người đàn bà dân tộc, sinh ra chỉ để mà sinh ra. Ðó là lời tổng kết hoa mỹ của hắn về dòng sông đang chảy tút hút, mờ mịt bên dưới. Nho Quế, tiếng bên họ là Phổ Mai, hắn nói, cố gắng phát âm cho giống giọng của họ nhưng xem ra không ăn thua.

Trong lịch sử, sông Nho Quế có hai lần ngầu máu. Lần thứ nhất vào năm một nghìn bảy trăm sáu bảy, cả một đạo quân bên kia chạy loạn men theo bờ sông sang đây nhưng bị truy sát liên tục và khi nhóm người cuối cùng trong số hơn mười vạn chạy được tới khu vực này thì chỉ còn có non nghìn người. Vào một đêm rằm, số người ấy cũng bị xóa sổ. Gần nghìn cái đầu bị cắm dọc theo bờ sông, chạy ngút mắt. Lần thứ hai thì máu của người Mèo chảy. Cả bản Mèo hơn bốn chục hộ gia đình biến mất. Ai cũng nghĩ họ đã vượt sang vùng khác để sinh sống, nhưng thực ra họ đã bị chặt nhỏ ra và dìm dưới dòng Nho Quế này. Ngày những hộ Mèo bị giết, người dưới hạ nguồn thấy nước sông chuyển thành đỏ mà không hiểu vì cái gì. Sau này, khi bắt được những con cá Lăng khổng lồ bụng phồng căng thức ăn thì nguyên nhân sông chuyển đỏ và sự biến mất của đám Mèo kia mới được giải thích. Lái xe lắc cổ, xương kêu rôm rốp, đủng đỉnh bảo:

- Bảy chín sông này lại đỏ.

Hắn liếc mình dò xét thái độ. Mình tò mò hỏi lái xe vì sao. Hắn lanh chanh nói rằng quân xâm lược bị ta giết. Lái xe lại khủng khỉnh chêm vào:

- Có cả máu của mình nữa.

Mình nhớ lúc ấy mình nhớ cậu nói với mình rằng cuộc Bảy Chín sông Bằng cũng đỏ lừ máu.

Một dải núi xanh lam trong veo giăng ngang tầm nhìn, chia thế giới thành hai phần bằng nhau. Nắng trượt xuống từ vạt núi bên trái làm con sông quắc lên gay gắt.

Trang ghé điện thoại sang để mình đọc tin. “Dang o Hai duong.” Tin đó của thằng Quých.

- Ở huyện có bán báo không anh?

Trang hỏi hắn.

- Ma nó đọc báo.

Hắn cười chua lè, ngay sau đó lại nghiêm giọng.

- Huyện ủy có, nhưng chỉ có Nhân Dân và báo tỉnh thôi. Em cần à?

Trang lắc đầu:

- Em hỏi cho biết thế.

Hắn xốc lại thế ngồi, giọng kẻ cả:

- Chữ nghĩa ở trên này là thừa em ạ. Chả ai cần báo cả. Chỉ một cái vô tuyến là xong hết. Nhà nào cũng có chảo ba-ra-bôn của Tàu, bắt được đủ mọi kênh, có khi còn bắt được cả kênh phim con lợn nữa.

Trang nghe nhưng tay thì nhoay nhoáy soạn tin nhắn. Mình bắt đầu khó chịu vì những tin của thằng Quých. Có gì đó đã khiến Trang không thể dứt nó ra khỏi chuyến đi này.

Hắn quay về chủ đề sông. Tính hắn thế, đã dính vào chủ đề gì thì thật khó dứt. Hắn bảo đoạn chếch về phía Tây có con suối chảy ngầm trong lòng đất, dân địa phương gọi là Thâm Tiềng nhưng hắn nghi Thâm Tuyền, hoặc Thâm Tiềm thì chính xác hơn. Người ta không tìm thấy nguồn suối, mặc dù vẫn đoan chắc là nó chảy từ Nam lên Bắc, có nghĩa là từ mình sang họ. Suối chỉ lộ ra hai đoạn ở hai thung lũng, còn thì lặn ngầm như một con rồng rúc trong đất. Ở hai đoạn suối nổi lên ấy, trước khi lặn mất hút vào chân núi còn kịp để lại hai bãi cát mỏng dính nhưng trắng muốt và rất nhiều những hang ngầm ven bờ. Cá ở sông này có hai loại chính, loại ăn thì chết đứ đừ, đấy là những con cá lưng xanh lét như lá cây, loại kia màu trắng bạc, thịt chắc như thịt gà, thơm như lá móc mật.

- Cá khía vàng ăn cũng ngon. Nó hơi cay cay.

Lái xe chêm vào. Hắn bảo không bằng loại trắng bạc. Mình chưa bao giờ nghe nói tới loại cá thịt cay vì thế mới hỏi liệu có thể thưởng thức được không thì hắn bảo vào trung tâm huyện xem đã.

Xe đi thẳng vào huyện ủy. Cả chủ tịch huyện, bí thư huyện ủy, chánh văn phòng, trưởng công an huyện đều có mặt từ trước chờ hắn. Ðủ bộ sậu nhưng thiếu không khí long trọng. Hắn giới thiệu mình và Trang là hai cán bộ văn hóa từ thủ đô lên. Sau màn giới thiệu qua quýt đó, hắn bắt tay vào làm việc và mọi thứ chỉ diễn ra trong vòng hơn hai chục phút là xong. Sau đó cả bọn kéo nhau ra quán. Không hề có món cá lưng bạc lẫn cá khía vàng dù cho đó là quán ăn lớn nhất của huyện. Chỉ có thịt cầy và thịt trâu. Huyện ủy chiêu đãi cả hai món đó. Trưởng công an huyện bảo vừa nhận được tin có vụ đào xác người ở bản La Sin. Một ông già bị sét đánh chết trong trận mưa cách đây ba hôm. Xác ông ta bị đào lên, cắt mất bàn tay trái. Mình hỏi có phải dùng tay đó để đi ăn trộm không thì trưởng công an huyện gật đầu nhưng sau đó anh ta nói chắc chắn kẻ trộm chỉ có nước bán sang Tàu chứ không thể dùng ở huyện được vì an ninh ở đây “cực kỳ tốt,” anh ta nhấn mạnh thế. Mình nghĩ có cậu ở đây, thế nào cậu cũng đế theo câu “đểu nhỉ.” Trưởng công an huyện vừa nói về vụ án vừa uống rượu tì tì như uống nước suối. Hắn ghé sang mình:

- Cứ hỏi lão này, bao nhiêu chuyện ở đây lão ấy nắm trong lòng cả.

Trưởng công an cười, mặt mày nở nang vì hãnh diện.

- Hỏi chuyện gì thì tính sau, cứ đi hết với nhau chốc này đã.

May mà rượu cũng nhẹ, nếu không thì mình chắc là khó trụ nổi với sự mời mọc cấp tập của mọi người.

Trưởng công an huyện chạy khắp cả một vòng quanh bàn rồi lại về ngồi cạnh mình, gạ gẫm uống. Trang bị chủ tịch huyện và phó chánh văn phòng huyện vây, mặt mũi đỏ tía lia. Xem ra cả chủ tịch già lẫn phó chánh văn phòng trẻ đều mê Trang vì cả hai đều không rời khỏi chỗ từ khi ngồi xuống. Hắn thì say mê tán chủ tịch hội phụ nữ huyện, người đàn bà trắng, bụ bẫm, hay cười đến mức bất cứ thằng đàn ông nào cũng chỉ muốn đè phắt ra. Trưởng công an chép chép miệng sau khi thấy mình mạnh dạn cạn chén trăm phần trăm với anh ta. Câu chuyện càng về sau càng cởi mở hơn. Mình biết thêm rằng không hề có loại cá ăn chết người. Trưởng công an khẳng định vậy.

- Còn cá khía vàng có vị cay cay thì sao?

Mình hỏi, liếc nhìn lái xe, thấy anh ta có vẻ phấp phỏng.

- Bậy.

Trưởng công an phẩy tay như đuổi ruồi.

- Tôi ở đây từ bé, tôi biết tỏng cả. Bọn chó đểu dưới kia chúng nó bịa ra đấy.

Dĩ nhiên là trưởng công an không hề biết bọn chó đểu đang ngồi ngay trong bàn ăn này.