← Quay lại trang sách

Chương 12

Mình đi xuống kiểm tra lại và thấy quả là số báo Công An Nhân Dân hôm nay chưa kịp tới. Lần đầu tiên mình cảm thấy có ích cho chú. Nhưng mình cũng phân vân không hiểu chú nhắc lại chuyện cũ ấy để làm gì. Mình tra trong phích tìm cuốn sách anh Thuận hỏi mượn thì nghe tiếng huýt sáo. Chị Thu nhún nhảy đi vào. Ðàn bà huýt sáo thì ngồ ngộ, hơi ngỗ nghịch, mất hết cả dục tính.

- Trả Những thằng già này. Ðọc phát rồ lên.

Chị Thu đặt cuốn sách lên bàn ghi phiếu. Chị không mượn nữa, muốn nghỉ một thời gian. Chị Thu bảo chị bắt đầu mê nhắn tin. Mình nghĩ lúc này chị không nên ở đây vì anh Thuận hẹn chiều là phải có sách cho anh ấy. Nhưng chị Thu có vẻ chưa muốn đi, chị ngồi xuống, nhìn mình tra phích, nói đủ thứ chuyện, rồi lại lân la tới chuyện tình ái. Bạn chị chán chồng, một tay rất trẻ, bắt bồ với một ông tuổi tác đã kha khá.

- Buồn cười nhỉ, Hiếu thấy có buồn cười không?

Chị hỏi mình, mắt hơi sẫm lại kèm theo nụ cười ý vị. Mình không thấy buồn cười, đó là chuyện bình thường.

- Chị thì sao?

Mình hỏi cho có chuyện.

- Sao là sao cơ?

Chị hỏi lại, mi mắt lật lên.

- Thích trẻ hay già?

Giọng mình ỡm ờ ngoài ý muốn của mình. Chị Thu lại cười. Mình không tìm nữa, quay ra ngồi vào ghế. Mặt chị Thu hồng hào hơn mọi khi, má đỏ, cằm trắng, ngực cao hơn và cả người toát ra hơi nóng rần rật, mình nghĩ có thể chị vừa sạch kinh. Chị ngồi lệch về một góc nhưng cả cánh tay trắng lại vắt lên mặt bàn như con bạch xà đang vươn về phía mình. Nếu không có Cú Vọ xuất hiện, mình đã cầm lấy tay chị. Cú Vọ hỏi Công An Nhân Dân số mới nhất. Mình bảo chưa thấy bưu điện mang tới, họ chậm, họ luôn chậm. Mình còn đai thêm, nhiều khi họ để đến tận hôm sau mới chuyển. Vậy là Cú Vọ đã đánh hơi thấy bài báo đó. Nhưng tại sao lão lại không ra ngoài mua một tờ về mà đọc. Lão tìm báo thư viện khác gì thách thức chú. Cú Vọ định nán lại, nhưng ngó quanh thấy không còn cái ghế nào thì quay ra. Chị Thu nhìn theo lão, hơi rụt cổ, môi trề xuống.

- Hiếu thi thoảng có ra ngoại thành chơi không? Có mấy chỗ thích lắm.

Rõ ràng là chị Thu muốn rủ mình. Mình bảo không có ai đi cùng, nếu chị rỗi thì hôm nào hai chị em cùng đi.

- Cuối tuần nhé.

Chị Thu sốt sắng hẹn. Còn lại một mình, mình phân vân có nên cho chú biết cái chi tiết Cú Vọ tìm Công An Nhân Dân hay không. Cuối cùng mình nghĩ cứ kệ bọn họ, việc này tịnh không liên quan tới mình.

Mình gọi điện cho Vân Ly tới đưa nguyên cả sấp tiền của Trang.

- Bao nhiêu đây ạ?

Vân Ly hỏi, giọng lễ phép. Mình bảo:

- Không rõ, chắc đủ đóng.

Vân Ly cầm tiền vội vã như sợ mình đổi ý. Mình hỏi:

- Trang đã gọi điện cho em chưa?

Vân Ly lắc đầu:

- Chưa. Có gì không anh?

Mình đáp:

- Không có gì.

Vân Ly đi rồi, mình mò ra hàng nước ngay cổng cơ quan làm một chén trà thì lại thấy tờ Công An Nhân Dân mà bà chủ quán hay ai đó vứt lại ngay trên ghế nhựa. Mình tranh thủ cầm xem. Có một vụ bắn nhau giữa hai băng tội phạm ở Long An. Một chết, bốn bị thương nặng và khả năng là chúng còn gặp lại nhau. Vụ của công ty thím chỉ chiếm một phần ba trang, lại trình bày đơn giản nên không gây chú ý gì. Bà bán nước than thở với mình chẳng hiểu sao mấy hôm nay lại lắm mèo đến réo trên nóc nhà bà. Mình vừa đọc vừa ậm ờ cho qua. Có mẩu tin lôi cuốn mình, nó viết về sự kiện người ta tìm thấy một đống không biết của người hay của động vật chôn ven sông, đang bị phân hủy. Bài viết thứ hai dài hơn, về khả năng chữa bệnh bằng nhân điện của một ông thầy ở Hải Dương.

Bà chủ quán liếc thấy mình đọc bài đó liền nổ chuyện. Bà nói ở Cầu Diễn có một người chữa được bại liệt chỉ bằng cách đơn giản là đặt tay vào chỗ kín của bệnh nhân. Mình phì cười vì thông tin ngồ ngộ ấy. Bà tưởng mình giễu, mới trợn ngược mắt lên phân trần đó là chuyện thật. Con dâu bà bị liệt nửa người thế mà cái vị chữa bệnh kia đặt tay vào chỗ kín của cô ấy có ba hay bốn lần gì đó, đã khỏi ngay tắp lự. Mình hình dung cái bàn tay đặt vào chỗ kín kia nó run rẩy thế nào. Tuồng như bắt được ý nghĩ ấy, bà bán nước bảo:

- Gọi là thầy chứ thực ra thì đấy là đàn bà. Mới hơn năm mươi một chút thôi. Giỏi thế đấy.

Mình bị hẫng. Tưởng thầy là đàn ông thì câu chuyện xem ra kỳ thú. Ðàn bà lại khác, nó làm mình tởm. Mình trả tiền chén nước, lững thững về.

Trong cái vùng ẩm ướt thoang thoảng gọi là trí nhớ hay giống như trí nhớ lúc này của mình, thì khi ấy hắn đã cắt ngang hình ảnh những bước chân lững thững trở về cơ quan của mình bằng cách gợi đến sự dịch chuyển của những cây cột mốc. Và mình đã bình luận một câu rất hùng hồn về biên giới. Mình không nhớ chính xác câu ấy, chỉ mang máng rằng nó giống như nhát cuốc làm bung đê và những dòng ghi chép trong cuốn sổ của anh mà mình nhớ được cứ tuôn ra ồng ộc.

Bên ngoài vẫn trập trùng núi, gần thì xanh lá cây, gần nữa thì những thớ đá vân xám pha những vện trắng biểu hiện của tầng địa chất nửa granit nửa vôi, xa hơn nữa thì màu lam và sau dải lam là nét thoảng khó đoán định mây hay núi. Cái dải biên cương này lý lịch cũng phức tạp, chồng chéo và oan khuất.

- Biên giới giống như cái hĩm vợ, luôn luôn bị thằng hàng xóm nhăm nhe thò sang sờ mó, chôm chỉa.

Mình vươn người lên, ghé sát tai hắn, nói nhỏ. Hắn ngạc nhiên ngoái nhìn mình, chưa kịp phản ứng gì thì Trang đã dài giọng:

- Ðã biết vợ biết con là cái gì đâu mà ăn nói tinh tướng thế.

Hắn lại quay lên, nhìn thẳng ra phía trước. Sau đó hắn than thở tòa soạn hắn trang thiết bị đã quá cũ nát mà chưa biết làm cách nào để nâng cấp. Lái xe tiện thể chỉ trích tay phó phụ trách nội bộ không chịu mở rộng ngoại giao để cải thiện tình hình cho cơ quan. Hắn ờ ờ trong cổ, mình biết hắn không muốn đem chuyện nội bộ tòa soạn xích mích ra nói trước mặt khách. Nhưng lái xe dường như đã quyết, nhất định phải bóc mẻ cái tay phó nội bộ, mới bảo rằng tay đó vừa móc được với Sở Văn Hóa một suất biên chế cho con gái hắn.

- Anh bảo việc ấy thì nhanh thế, việc xin trang bị mấy cái máy vi tính thì chả thấy khỉ gì.

Giọng lái xe phẫn nộ, không còn chút kiêng nể e dè gì nữa. Nếu hắn có cản, mình tin lái xe sẽ cãi lại. Mình chuyển đề tài, hỏi hắn về việc nghiện hút. Hắn hóm hỉnh bảo nghiện hút ở trên này không thể gọi là tệ nạn mà nên gọi là bản sắc văn hóa.

Hình như có tiếng còi xin đường. Lái xe liếc nhìn gương chiếu hậu, nói:

- Thằng Hứa, con chủ tịch huyện.

Chiếc xe máy đang tìm cách lách lên trước. Ðó là loại xe máy địa hình do nước ngoài tài trợ cho vùng sâu vùng xa, bánh to, cao, gầm xe cũng cao

Lái xe đánh vô lăng cho xe dạt vào bên phải rồi thò đầu ra. Xe máy vượt lên, người điều khiển ngoái sang. Một khuôn mặt lưỡi cày, trắng, đầy tàn nhang với hàng ria lún phún và đôi mắt một mí kéo dài hơi xếch lên. Một ông con giời thực thụ. Thằng con chủ tịch nhận ra người quen, cười, gật đầu rồi vọt trước, khuất vòng cua. Dư ảnh của nó là bộ quần áo sặc sỡ và cái đuôi tóc buộc túm như đuôi ngựa non. Lái xe bảo đó là con trai duy nhất của chủ tịch huyện, ăn chơi khét tiếng vùng này. Mới chỉ học hết cấp Hai rồi bỏ, nhưng nó điều hành cả một đội quân chuyên săn lùng và buôn bán động vật quý hiếm sang Trung Quốc.

- Bao nhiêu gái đẹp ở vùng này, nó đều tìm cách ăn cả.

Lái xe khẳng định chắc nịch. Một vệt nắng sải xuống, dập dềnh bám riết lấy đầu xe. Có hai điều mình cho luôn giống nhau, đó là con cái những vị có máu mặt đều giống nhau và sự sa đọa ở đâu cũng giống nhau. Hắn bảo thằng nhóc này chưa là gì so với đội chơi của con mấy vị giám đốc sở.

Năm thằng, năm con xe Zép của Mỹ, kèm theo năm con bé cũng thuộc diện hoa khôi, cứ tuần hoặc hơn tuần lại kéo lên trang trại ở gần Yên Minh ăn ở như người nguyên thủy rồi tổ chức đua xe. Năm thằng đàn ông cởi truồng, năm đứa con gái cởi truồng, điều khiển năm con Zép phóng điên dại, vào cua không giảm tốc độ. Cách đây độ nửa năm thì vụ việc mới vỡ lở ra khi một chiếc do không làm chủ được đã lao xuống vực. Xe với lái xe cháy thành than nhưng con bé ngồi trên xe lại không chết, nó bị hất văng ra, mắc vào cành cây, dập tủy sống và liệt toàn thân. Công an truy mới biết khi đua bọn oe con ấy đều dùng thuốc. Hắn là người theo dõi viết bài nên rất tường tận vụ này. Riêng chuyện các ông bố chạy tiền để xí xóa cho con đã lên đến cả trăm triệu.

-Không hiểu bọn oắt bây giờ chúng nó muốn gì nữa.

Hắn trề môi nói.

Trang vẫn ngả người ra sau, lim dim nghe héc phôn.

“Tao không tài nào ngủ được vì vết thương ở góc trái đầu cứ nhay nháy cắn, đã thế lại cừ rừm, cừ rừm. Chúng nó nhét mấy chục người vào cái phòng bé bằng cái lỗ mũi với một lỗ thông hơi cũng bằng lỗ mũi. Tất cả đều phải nằm trên nền đất chi chít lỗ giun đùn. Nhiều người mệt quá, lăn quay ra ngủ, còn số khác thì nửa nằm nửa ngồi chả hiểu thức hay ngủ. Vài ba người rền rĩ nói chuyện với nhau.”

Giấc ngủ của tù binh không bình thường, anh viết là lúc ấy anh nghĩ thế, vì thấy rất nhiều người mê sảng, quẫy đạp. Người nằm cách anh một dãy đang nằm thiêm thiếp bỗng nhiên tru lên, bật dậy, ngã ịch xuống, thiêm thiếp một lúc rồi lại ú ớ. Anh hỏi người bên cạnh, cũng đang ngồi tì cằm lên đầu gối, thì người ấy bảo đó là cậu liên lạc của tiểu đoàn. Cậu ta dân Hà Nội gốc, nhà ở phố Hàng Thiếc hay Hàng Thùng gì đó. Anh muốn đánh thức cậu liên lạc dậy nhưng mấy người không đồng ý, họ bảo cứ để cậu ta ngủ lấy sức.

“Tao nói ngủ thế này còn mệt hơn là thức. Một giọng Thanh Hóa ở tít trong góc nói:

- Thức hay ngủ thì chắc rồi cũng toi cả.

- Toi thế nào mà toi, ăn với nói như cựt.

Giọng Nghệ An vặc lại.”

Anh biết, cái tay kia đã nói đúng vào nỗi sợ thoang thoảng của mọi người. Cái ô thông gió bé tí hin trên góc căn phòng biến thành cái chấm sáng xanh mờ mờ. Ðó chính là bầu trời. Giọng Thanh Hóa lại chuyển chủ đề:

- Xe chở tôi đi tốc độ nhanh, đường êm mà chạy mấy tiếng đồng hồ, cho nên chắc chắn là mình phải ở trong đất chúng nó cả trăm cây số.

“Thằng liên lạc lại ré lên. Tao quyết định lay nó dậy. Khi chạm vào người mới biết nó ướt đầm. Thằng liên lạc hốt hoảng đẩy bật tao ra hét lên:

- Ai đấy?

Tao đáp:

- Quân mình.”

Cậu liên lạc đần ra một lúc, trong bóng tối mờ mờ cổ cậu ta rụt lại trông như con chim ướt. Hình như đã nhớ ra tình cảnh của mình, câu liên lạc ngồi thụp xuống, ôm mặt thút thít khóc.

Hỏi mới biết cậu liên lạc đi theo tiểu đoàn trưởng thị sát trận địa thì chạm thám báo luồn sâu. Nhóm có sáu người, bị tấn công bất ngờ, ba chết ngay tại chỗ, một quăng súng chạy, còn tiểu đoàn trưởng bị dính hai viên, một ở ngực, một ở đùi trái. Ðoạn ấy nhiều cây và đá, rậm rạp, lộn xộn nên không xác định được đối phương ở vị trí nào. Bọn họ bắn rất nhanh, sau đó im lặng. Cậu liên lạc xiết hú họa trọn cả băng AR15 ra xung quanh rồi lôi tiểu đoàn trưởng lùi vào cái khe đá ngay cạnh. Tiểu đoàn trưởng bảo cậu ta chạy đi, mặc ông nhưng cậu ta không nghe, cứ nghiến răng nghiến lợi túm hai tay ông mà kéo. Mới kéo được vài bước thì bị mấy tay nhao ra đè nghiến lấy. Bọn họ xem xét rất kỹ vết thương của tiểu đoàn trưởng sau đó nhìn nhau lắc đầu. Vết thương ở ngực quá nặng, máu phun ra ồng ộc ướt hết cả người ông. Cậu liên lạc nói với bọn họ: Ông ấy là chỉ huy cấp cao đấy.

Cứu cho ông ấy đi. Bọn họ trố mắt nhìn mồm cậu liên lạc. Một tay cúi xuống vạch mắt tiểu đoàn trưởng rồi bĩu môi đứng lên. Cậu liên lạc hoảng quá lại hét: Cấp cao, cấp rất cao đấy, có giá trị đấy, mang ông ấy đi. Cái tay cúi xuống vạch mắt tiểu đoàn trưởng giờ lại cúi xuống lần nữa, dửng dưng tì nòng AK vào thùy trán ông và siết cò.

“Thằng liên lạc bảo tiểu đoàn trưởng của nó ở huyện Quế Võ, ông ấy năm mươi ba tuổi, con gái út vừa ăn hỏi mấy ngày trước. Cừ rừm.”

- Thủ trưởng em đánh Mỹ không chết, đánh Pôn-pốt không chết. Thế mà... mẹ chúng nó.

Cậu liên lạc ấm ức chửi.

- Tớ mong nó bắn đại trưởng của tớ như thế mà nó đếch bắn.

Anh buột miệng nói ra câu ấy, may chỉ vài người nghe thấy. Lỗ thông hơi rạng lên, ánh sáng nhấm nhẳng đi vào. Tất cả đã dậy, nhìn nhau với thái độ rất lạ. Cậu liên lạc trẻ măng, trông giống con gái, da trắng, mắt to đen, mũi thẳng, hàng ria mép lún phún viền lên cái miệng gọn xinh. Giọng Thanh Hóa là tay lùn, mập mạp, mặt đầy dặn, đôi mắt ngả vàng, có những xoáy tròn. Mắt ấy thì khôn lõi đời. Giọng Nghệ An là tay vóc xương xương, cằm bạnh, lông mày rậm, mồm hơi dẩu, tai và cổ đỏ nhừ. Hạng ấy có đút xuống âm phủ vẫn cứ gàn gàn dở dở. Anh đếm, có khoảng hơn hai chục người tất cả. Trong số đó anh không quen ai. Cửa mở, cả bọn rụt rè không dám bước ra, cứ đùn đẩy nhau. Anh nhớn đầu nhìn ra cửa chỉ thấy khoảng sân rộng sáng lóa. Ðám lính gác thấy không ai bước ra thì ngạc nhiên, cùng ló mặt vào. Một tay quát rất to, rồi lên đạn roàn roạt. Lúc ấy mọi người mới miễn cưỡng lục tục bước ra. Một bãi đất rộng, xung quanh rào dây thép gai, mấy dãy nhà cấp bốn lợp prôximăng dải theo hình chữ u. Cái nhà nhốt tù binh nằm ở nét cong cong của chữ u. Ðám lính súng ống xênh xang, đi lại gườm gườm, mắt tay nào cũng kéo vếch lên.

“Chúng nó dồn mọi người theo ba hàng dọc. Tao thấy đói, bụng cứ vặn vẹo, ùng ục toàn hơi và bong bóng.”

Anh hỏi tay nói tiếng Nghệ An:

- Chúng nó định giở trò gì không biết.

Tay này đáp vẻ sành sỏi:

- Huấn dụ mấy câu rồi cho ăn.

Tay giọng Thanh Hóa xì một tiếng:

- Có mà ăn đạn.

Một lúc sau từ cổng trại xuất hiện chiếc xe com măng ca mới coong đi vào. Ðám lính đứng nghiêm chờ, mắt vẫn canh chừng tù binh. Xe dừng, một người mặc áo đại cán, cũng mới coong như chiếc xe, cổ cài kín, bước xuống. Tay trại trưởng chạy tới đứng nghiêm báo cáo cả tràng dài. Cậu liên lạc giờ đã bình tĩnh, ghé tai anh:

- Lão này cỡ tuổi thủ trưởng của em.

Người mặc áo đại cán điềm tĩnh tiến lại phía bọn anh, đưa mắt nhìn cả lượt sau đó mới nói. Ông ta nói chậm rãi, mặt lạnh tanh, răng rin rít. Nói xong ông ta dừng lại nhìn một lượt nữa rồi lên xe đi thẳng. Phiên dịch nhắc lại, đại khái là nói bọn anh là tù binh và sẽ được đối xử theo chính sách khoan hồng nhân đạo của nước họ. Ai không tuân theo nội quy thì sẽ bị trừng phạt. Phiên dịch vừa dứt lời, mọi người đều ồ lên. Họ cho bọn anh ăn sáng giống như cho lợn ăn sau đó lại dồn tất cả vào trong nhà khóa cửa lại. Buổi trưa mắt đang chờn vờn thì cửa sầm sập mở và bọn họ lôi ba người ra ngoài. Mọi người lại ồn ào lấp lõm đoán có thể đi hỏi cung, lại đoán có thể bị lôi đi thủ tiêu. Nghe nói hai phần ba tù binh trong cuộc trước bị thủ tiêu. Bàn tán, phỏng đoán cứ loạn xị cả lên, không tài nào chợp mắt được. Nửa tiếng sau cửa sầm sập mở, ba người trở lại.

Họ bảo bị hỏi cung, cụ thể là hỏi phiên hiệu đơn vị, chức vụ, quê quán sau đó thì kiểm tra sức khỏe. Lại ba người khác bị gọi, lần này có tay Nghệ An. Khi trở về chỉ có hai người, tay tiếng Nghệ An biến mất. Cả đám dồn vào hỏi thì hai người kia lắc đầu bảo cũng chẳng biết vì mỗi người một phòng, hỏi han ghi chép rồi cho về. Chỉ thế thôi. Anh hỏi:

- Ai biết người nói tiếng Nghệ An ấy ở đơn vị nào, cấp gì không?

Không ai biết. Ðợt thứ ba lại ba người và khi trở về đều đủ cả ba. Ðợt thứ tư có tay giọng Thanh Hóa. Cửa lại mở nhưng chỉ có mấy tay lính lấy đi thêm ba người nữa. Vậy là tốp thứ tư không ai trở về. Không khí bắt đầu căng thẳng. Cậu liên lạc sụt sịt khóc.

“Tao xui nó:

- Em cứ coi như em chết rồi, thế đỡ sợ hơn.

Thằng liên lạc lắc đầu, thì thào:

- Em thử cố rồi nhưng vẫn cứ thấy mình sống sờ sờ ra.

Thực ra tao cũng hoang mang, không hiểu bọn Tàu làm quái gì với những người kia. Cừ rừm cừ rừm cừ rừm cừ rừm...”

Phải rất lâu sau cửa mới mở lần nữa, một người lảo đảo lao vào, ngã lăn cu chiêng ra. Cửa đóng lại, họ không nhặt thêm ai. Cái người vừa mới trở về là Hán, quê ở Phú Bình.

Hán cỡ tuổi anh, lúc bị dẫn đi Hán cứ bấu lấy tay anh, dặn là nếu anh về được thì đến nói với mẹ Hán sang hàng xóm xin lỗi giúp Hán chuyện Hán gây ra với họ ngày xưa. Anh không biết đó là chuyện quái gì. Mọi người lay Hán dậy hỏi nhưng Hán không nói, mắt cứ trợn trừng lên, mồm há ra, thở hồng hộc từng chặp như vừa gặp ma. Cậu liên lạc ghé tai anh bảo:

- Cứ đấm thật mạnh vào mặt anh ấy, thế nào cũng hồi.

Anh thấy hay hay, liền gạt mọi người ra, lấy hết sức thọi một quả vào mặt Hán.

“Tay tao ê đi, cảm giác gãy bố nó xương cổ tay. Thằng Hán ngật hẳn ra sau, cũng may đầu nó va vào đùi người phía sau. Tao bảo:

- Mày không nói thì mọi người biết chuyện gì để mà tránh.”

Hán kể bị hỏi cung ở trong một căn phòng cũng nhỏ, sau đó thì có bác sĩ vào khám sức khỏe. Tay bác sĩ chập ngón trỏ và ngón giữa vào rồi luồn ra sau áp vào đoạn gần đốt sống cuối của Hán nghe ngóng rồi lắc đầu đi ra. Tay hỏi cũng cầm tập giấy đuổi theo tay bác sĩ. Còn một mình, Hán tranh thủ quan sát xung quanh, phát hiện ra bức tường ngăn với phòng bên có cái lỗ nhỏ. Hán nhòm qua lỗ ấy thì thấy sáu cái xác người trần truồng nằm ngay ngắn sát với chân tường bên kia, xác nào cũng bị mổ phanh ra. Hán bảo lúc ấy Hán run quá, chân tay chảy nhão, nghĩ rồi mình chắc cũng vậy. Nhưng tay hỏi cung quay vào cùng với một tay lính khác và hất đầu ra hiệu cho tay lính dẫn Hán đi ra. Hán quan sát cửa của căn phòng sát nơi Hán vừa bị hỏi cung, thấy cửa bằng sắt, sơn trắng và có mấy người mặc quần áo trắng đứng lởn vởn ở bên ngoài. Một ai đó hỏi:

- Xác ấy có phải người mình không?

Cậu liên lạc cự ngay:

- Vừa vặn sáu mống còn gì.

“Tao sực hiểu ra vấn đề. Chắc mày chả đoán ra đâu. Tao nói to:

- Tôi biết chúng nó làm gì rồi.

Không ai hỏi câu nào, chỉ nhìn tao chằm chằm, quên béng cả tay người Phú Bình.”

Cậu liên lạc rùng mình buột ra một cái rắm.

Chiều phấp phỏng nhưng không thấy tay lính nào lảng vảng tới. Ðến khi có tiếng kèn báo ra ăn thì không ai nhúc nhích. Anh phải động viên mọi người cố lên, phải ăn để có sức mà tìm cách thoát về. Ðến tối thì họ lại tiếp tục lôi đi ba người, sau đó trả lại hai, trong đó có cậu liên lạc. Anh hỏi thì cả hai đều bảo không nhìn thấy gì, vì bị đèn chiếu thẳng vào mặt. Họ cũng không nghe thấy bất cứ một tiếng kêu gào hay rỉ rên nào.

Cuộc hỏi cung vẫn chỉ mang tính hình thức với vài ba câu về đơn vị tên tuổi, quê quán.

“Ðến khi tao đang thiu thiu thì có tiếng động mạnh, cửa đột ngột mở, đèn pin soi thẳng vào mặt tao...Cừ rừm.”

- Ðể ý nhé, cái lối nhỏ mờ mờ cạnh bụi dứa ấy, không, kia cơ, bên trái ấy, đúng rồi.

Hắn đang cố gắng chỉ trỏ cho Trang.

- Ðó chính là con đường của dân buôn lậu đấy. Nó ly kỳ chả kém gì đường mòn Trường Sơn đâu em ạ.

Ðã có những cuộc giao tranh dữ dội xảy ra giữa con chủ tịch huyện và đám buôn lậu khác để giành lấy con đường này. Ðã có cả những cuộc đọ súng giữa biên phòng và đám buôn lậu mà dĩ nhiên không ai dám chắc thằng Hứa có mặt hay không có mặt. Con đường chỉ là cái vệt mờ nhưng lại hằn vết trong tâm trí dân vùng này. Theo hắn, đây là con đường ngắn nhất để vượt sang Trung Quốc, rất dễ đi, nhưng mắc một đoạn cực hiểm trở, đoạn ấy có nút thắt chỉ vừa đủ một con trâu chui qua. Những người thợ săn vô tình phát hiện ra lối tắt đó khi họ đuổi theo con hổ trắng, thấy nó lao tọt vào miệng hang nhỏ và biến mất. Ðám thợ săn liều lĩnh mò vào, đi cả đoạn dài dưới những vòm đá ướt rượt với hàng trăm con cuốn chiếu to cỡ ngón chân cái lẫn với rết vàng. Khi thoát ra, họ sửng sốt nhận thấy mình đã ở trong đất Trung Quốc. Con đường bí mật của tự nhiên được tìm thấy, đám buôn lậu đã nhanh chóng chiếm lĩnh. Tốp buôn lậu đầu tiên mang hàng đi qua có bốn người thì hai biến mất không rõ nguyên nhân. Chỉ thấy khi vào đến đoạn rộng nhất, có nhiều ngách nhất của hang, nghe tiếng gừ mạnh rồi đèn pin văng ra và người mất hút. Các chuyến sau đám buôn lậu đi theo đám đông lại mang theo súng nên có vẻ an toàn hơn nhưng thi thoảng vẫn có một vài người bị bốc hơi vào cái ngách tối mò mò nào đó.

Hắn kể ề à, chậm chạp trong khi xe lại phóng với tốc độ lớn vì đường đã bằng. Núi được trả lại kích thước thực và chúng không chứa những bất trắc nữa. Núi đẹp hơn, thơ mộng hơn, hàng lối rành mạch hơn. Qua lớp kính đã hơi mờ, xa xa, xen kẽ giữa vài ba ngọn núi nhỏ bé như non bộ, đã nhìn thấy những mảng tường trắng của các ngôi nhà. Cái vệt bụi la đà phía trước kia là do xe của con trai chủ tịch huyện cuốn lên.

- Mấy giờ rồi ấy nhỉ?

Hắn hỏi. Lái xe đáp:

- Ðúng ba giờ.

- Còn sớm.

Hắn nói, ngáp rõ to, ngoái lại bảo.

- Tối nay huyện tổ chức văn nghệ. Ông đã xem người Mèo múa khèn bao giờ chưa?

Mình lắc đầu. Lái xe bảo:

- Dân Mèo say rượu múa khèn giống như đánh võ ấy, vui ra phết.

Mình nhớ là lúc ấy mình rất nhớ bố. Bố đã múa võ cho mình xem, vào cái đêm mình suýt chết đuối. Càng về sau mình càng nhận ra rằng võ thuật là sự lại giống của con người.

Cửa ngõ vào huyện lị qua một con suối nhỏ, nước văn vắt, hai bên bờ không nhiều sỏi như các con suối khác mà là dải cát trắng lóng lánh những vảy thủy tinh. Hắn bảo con suối này cũng không rõ nguồn gốc từ đâu, nó đột ngột hiện ra dưới chân núi, giăng ngang đường vào huyện rồi chạy tiếp đoạn nữa và biến mất vào chân một quả núi. Hắn phỏng đoán có lẽ đây cũng chính là một đoạn của suối Thâm Tiềm. Có ba lý do để hắn kết luận thế: Thâm Tiềm là con suối duy nhất ở vùng này tải theo cát trắng. Thâm Tiềm là con suối duy nhất chảy từ Nam ngược lên Bắc. Thâm Tiềm cũng là con suối duy nhất lặn sâu xuống dưới và chưa ai xác định được hướng chính của nó. Lái xe lại lập luận nếu nối hai đoạn của Thâm Tiềm với đoạn suối này thì lại thành ra cạnh vuông, như thế không hợp lẽ.

Một dãy nhà lè tè, mái ngói đen xỉn võng oằn ở giữa, tỏa lên mấy ngọn khói trắng trông thật thích mắt. Rồi một cái đền nhỏ xây cẩu thả, qua quýt, rêu phong ố ái, lật phật mấy lá bùa màu hồng bợt, nép dưới tảng đá rất lớn nhưng đứng đơn độc. Kế đó một đoạn ngắn là ủy ban nhân dân huyện, khang trang sau hàng sa mu thẳng vút gai ngạnh. Tòa nhà ủy ban nhân dân huyện ba tầng tựa lưng vào dãy núi, nhìn thẳng ra thung lũng rộng lớn.

Lại một cuộc bắt tay nồng nhiệt mà suồng sã nữa, giống như huyện trước. Hắn giới thiệu mình là cán bộ văn hóa Trung ương đi thực tế, lấy tư liệu. Ngoái sang định giới thiệu tiếp thì thấy Trang đã lỉnh ra cổng trụ sở ngó những người dân tộc sặc sỡ diễu qua lại. Trang không muốn tiếp xúc với họ. Chủ tịch huyện thấp tè, nhưng đi đứng thoăn thoắt như con dúi. Ngồi phòng chủ tịch huyện chưa nóng đít đã bị chánh văn phòng huyện mò sang cầm theo chai rượu bắt uống phủ đầu cả chén đầy. Mình từ chối viện cớ muốn ra bể rửa mặt mũi một chút. Chánh văn phòng huyện giọng rền như sấm bảo:

- Ở đây cả năm không cần rửa mặt vì làm gì có bụi như dưới xuôi mà rửa.

Nói rồi cả chánh văn phòng lẫn chủ tịch huyện và đám bậu sậu cười khơ khớ. Bị chánh văn phòng dí cái chén vào tận miệng nên mình đành nhắm mắt nhắm mũi làm một hơi. Vẻ tự mãn pha thêm chút khệnh khạng vênh váo hiện rõ trên mặt, hắn ghé tai mình:

- Bọn này nó thế. Ông cứ lỉnh đi, để tôi xử lý cho.

Ðược lời, mình tranh thủ lúc nhộn nhạo chuồn ra với Trang. Bò đi lẫn với người, những con bò nâu đen, da căng, sừng vểnh lên đầy uy vũ nhưng mắt lại ngờ nghệch. Bầu trời ngả vàng với vài ba vết nhăn cắt ngang trên đỉnh dãy núi đã thẫm lại. Mình rủ Trang vào chợ nhưng mới đi vài bước đã ngại, liền tháo lui vì phân bò và rác ngập lên, ruồi thì bay thành từng mảng lớn như ong động tổ.

Bữa tối, mình không thể giữ chừng mực được vì liên tiếp bị mời chào, ép buộc. Chén thứ hai mình bảo với chủ tịch huyện rằng thằng con của anh ta trông rất phong độ, mình đã nhìn thấy nó phóng xe máy như một tay đua chính hiệu. Chủ tịch huyện nhìn mình trờn trợn nhưng chút trờn trợn đó qua rất nhanh. Ðến chén thứ sáu hay thứ bảy gì đó thì tai mình bắt đầu ù đi, hình bóng lẫn vào nhau và nhảy múa loạn xị. Lái xe múc một bát nước bảo mình uống. Nước đó là dịch vị dạ dày của bò. Nó đắng như mật gấu nhưng lại hiệu nghiệm đến mức kinh ngạc. Mình đỡ váng vất, hình với bóng dần dần tách rời nhau. Chánh văn phòng huyện lại tới, khề khà gây sự:

- Rượu không uống mà uống hết cả nước đắng của anh em thế này thì phải phạt thôi.

Mình lắc đầu, lái xe nháy mắt, phồng hai má ra hiệu cứ uống nhưng không nuốt. Mình làm theo, chờ chánh văn phòng quay đi liền nhổ nhanh xuống gầm bàn.

Ðống lửa đã đốt lên giữa sân ủy ban để phục vụ cho chương trình văn nghệ của đoàn thanh niên.

Trong tiếng hát ê a, trong bập bùng lửa, mình nghe xen kẽ giọng Vân Ly van nài: Em không biết tí gì cả. Anh nói giúp với Trang hộ em một câu đi. Sau đó thì lửa quẫy mạnh... Máy lại rung lên vì tin nhắn. Chị Thu hỏi, “Dem o day co gi vui k?” Mình cố gắng nhắn lại thật ngắn, sau đó tắt máy.

Và mình thiếp đi lúc nào không hay.

Anh đến, áo quần nham nhở, bốc ra mùi khét ghê sợ. Anh bảo mày khôn hồn thì đừng có mò lên, bị vồ đấy. Mình cãi, chỉ có anh mới để bị vồ, em thì còn lâu. Anh bỏ đi, không rõ vì ngượng hay vì giận dỗi. Phiền muộn giăng tơ khắp cả giấc ngủ của mình.

Sáng, hắn là người dậy muộn nhất. Mình với Trang và lái xe ăn sáng cùng chủ tịch huyện xong, ngồi uống nước thì hắn mới mò xuống. Thấy chủ tịch huyện đang sân sin hươu vượn với Trang, hắn hênh hoang:

- Hình như đêm qua chỉ có một mình tôi uống thì phải.

Chủ tịch huyện tủm tỉm cúi xuống lôi can rượu để ngay dưới chân đặt lên bàn. Hắn hoảng quá, lắc đầu quầy quậy lấy lý do còn phải làm việc. Bí thư huyện đoàn láu táu hỏi:

- Sáng nay đoàn mình định đi đâu ạ?

Chủ tịch huyện bảo;

- Cháu đưa các anh ấy lên Tà Vần để các anh ấy viết bài.

Mình hỏi:

- Từ đây lên Tà Vần có xa không?

Bí thư huyện đoàn đáp:

- Cũng không xa, nhưng đường khó đi.

Hắn ngồi vào bàn, vơ lấy đĩa xôi bốc ăn. Lái xe thắc mắc:

- Trước tớ lên đấy, thấy đường sá tốt cơ mà.

Chủ tịch huyện giải thích:

- Năm vừa rồi lũ nó quét mất cả mấy cây số, đã sửa được đâu, phải đi đường vòng.

Theo tính toán thì đi mất hai tiếng, về hai tiếng, vị chi là bốn tiếng cả đi lẫn về. Chủ tịch huyện hẹn chiều sẽ gặp nhau rồi phăm phăm ra xe để xuống xã kiểm tra công tác chuẩn bị bầu cử. Mình mở điện thoại, đổ về liền một lúc hai tin nhắn, đều của chị Thu. Tin thứ nhất: “say a? Sao lai: Van Ly oi cho anh xin loi?” thời gian gửi là mười hai giờ hai mươi. Tin thứ hai: “Van Ly la ai????!!!!” gửi một giờ kém mười bảy. Mình kiểm tra lại tin đã gửi đêm qua cho chị Thu và ớn chính mình.

Bí thư huyện đoàn chỉ tay lên cái chóp núi xa hút, mờ mờ trong dải mù trắng, bảo đó chính là đỉnh Tà Vần. Trước khi lên xe hắn hỏi:

- Kiểm tra xăng chưa?

Lái xe đáp vừa mới đổ đầy. Mặt lái xe có vẻ không tươi tỉnh lắm. Bí thư huyện đoàn ngồi giữa mình với Trang. Xe mới đi một đoạn đã thấy cậu ta ngả hẳn về bên Trang. Thoạt đầu đường cũng tốt, trải nhựa phẳng, nhưng chỉ được hơn chục cây, khi bắt đầu rẽ sang đường vòng thì quả là xóc. Con đường đá lổn nhổn, cục cựa khiến xe lắc lư liên tục. Bí thư huyện đoàn nói đỉnh Tà Vần là ranh giới giữa mình với họ. Cột mốc cắm ở trên đỉnh bên này của mình, bên kia là của họ. Ðiều đặc biệt nhất của Tà Vần là cây cỏ cũng chia hướng theo biên giới. Nửa bên họ thì cỏ và cây ngả hết về phía họ, nửa bên mình thì cỏ cây ngả hết về bên mình. Vì thế đỉnh Tà Vần giống như đường rẽ ngôi. Theo sách cũ ghi lại thì có hai quả núi phân chia theo biên giới như thế, một quả núi ở phía Nam, phân chia ranh giới giữa An Nam và Chămpa. Ngọn thứ hai nằm ở phía Bắc, nhưng trên địa bàn của Cao Bằng. Giờ nghe bí thư huyện đoàn nói thì hóa ra thêm ngọn nữa.

- Nó ngả về hai bên thật ấy à?

Trang háo hức hỏi. Bí thư huyện gật đầu chắc nịch. Hắn xen vào, giải thích có hiện tượng như thế vì núi nằm ở giữa hai luồng gió thổi ngược nhau cho nên cây cỏ mới rạp về hai hướng.

Bí thư huyện đoàn xem ra không tin cách giải thích ấy, nhưng cũng không phản bác lại, cậu ta chỉ nói bóng gió rằng biên giới là do sách Trời vạch mà cỏ cây thì cũng có linh ứng. Lái xe bác lại, bảo thế tại sao chỉ có linh ứng mỗi cái chóp núi ấy mà không linh ứng cả mấy trăm cây số đường biên. Bí thư huyện đoàn có vẻ bí, lảng sang chuyện khác nhưng hẳn là cậu ta vẫn tin theo lý lẽ của cậu. Ðường đã xấu, cảnh sắc hai bên lại không có gì khác lạ, vẫn núi vây, rừng lấp ló, một vài vạt ngô còi cọc nhao ra sát đường rồi lùi xa, vài ba nếp nhà loi thoi trên các sườn cao. Trang chơi trò mèo vờn chuột với bí thư huyện đoàn bằng cách đùi khi chạm vào khi xích ra.

Mình nhớ rõ câu anh gạch chân: tao nghĩ thế là mình chết ở Tà Vần này. Ðoạn ấy kể lại chi tiết tay lính tháo con lê khỏi nòng súng AK, chậm chạp tiến về phía anh, lúc ấy đang bị trói giật cánh khuỷu và bị ấn quỳ gập gối xuống. Nhưng trong sổ không ghi chi tiết cây cối ngả về hai bên như bí thư huyện đoàn nói. Ðỉnh Tà Vần vẫn chờn vờn phía trước, khi lắc sang phải, khi lắc sang trái, đôi lúc biến mất sau cả một tán rừng xanh thẫm.

“Thằng trinh sát có vẻ cuống, mặt hơi tái đi. Ðại trưởng hỏi lạc đường rồi phải không. Thằng trinh sát mếu máo gật đầu. Thằng bỏ mẹ, mang danh là tổ trưởng phân đội trinh sát bổ sung, thế quái nào lại dẫn bọn tao lạc sang đất Tàu đến cả nửa ngày. Bọn tao theo nó, luồn rừng đi, vượt qua những dãy núi cao ngất, tưởng vẫn ở bên đất mình. Tao đã thấy nghi nghi vì nghe đại trưởng bảo đất Tàu chỉ cách đây hơn cây số, theo đường chim bay, nếu vòng vo thì cũng chỉ gấp ba lần đường là cùng. Thế mà nó lại dắt bọn tao loanh quanh đến cả nửa ngày giời. Ðại trưởng vừa tức vừa sợ, mới chửi thằng trinh sát. Nó văng tục lại:

- Chỗ nào cũng giống nhau, anh bảo phân biệt thế cứt nào được.

Nó có lý, đất bọn Tàu với đất mình chả khác chó gì nhau. Cừ rừm. Ðến tối thì bọn tao hoảng thực sự. Thằng trinh sát bị cằn nhằn nhiều quá mới bảo đã trót lạc rồi thì câm mõm để nó tìm đường về. Chửi nó nó đéo dẫn về nữa. Bọn tao ngủ sáng sớm dậy thì nghe tiếng ồn ào như cả một đàn chim ở quanh. Hóa ra bọn tao lạc mẹ nó vào đúng chỗ đóng quân của khựa.”

Những chiếc lều bạt dã chiến dày đặc vây thành cụm dưới chân núi cách chỗ bọn anh ngủ chỉ vài trăm thước. Hú vía y như lúc ở Thung Lũng Oan Khuất. Bọn anh lỉnh sâu vào trong cái hốc núi, ngụy trang rất kín rồi mà súng vẫn mở chốt khóa an toàn đề phòng bị phát hiện.

“Nói là đề phòng thế thôi, chứ thằng nào cũng biết, bị phát hiện thì coi như đi đứt.”

Ðợi đến gần một tiếng vẫn chưa thấy bọn họ nhúc nhích. Ðại trưởng chỉ cho anh thấy cái mỏm núi hình bầu bầu như ngón chân cái, bảo đó là nơi phân định biên giới. Tìm về tới đấy là thoát. Trinh sát lầm lầm cắn móng tay, mắt cứ quắc lên. Sau cùng thì trinh sát bảo nếu đợi đến tận tối thì trinh sát cũng không đảm bảo dẫn đúng đường về. Ðại trưởng đành quyết định cứ liều lĩnh quay lại giữa ban ngày. Bọn anh ra khỏi hốc đá, vòng sâu thêm chút nữa về phía Ðông Nam để tránh đám quân đang tụ tập gần đấy rồi quặt lại hướng cũ, cứ nhằm theo đỉnh núi làm chuẩn.

“Ði mới thấy lạc quá xa. Qua một bãi đá toàn những viên cao ngang ngực, vuông chằn chặn, xung quanh chân cỏ xanh mướt, tao thấy bên trái có vũng nước lớn trong vắt, định tạt lại để uống thì thằng trinh sát giỏng tai rồi kéo giật tao lăn vào sau một tảng đá. Ðại trưởng với thằng Tấn cũng vội lăn theo.”

Từ chỗ vũng nước có sáu tay lính mặc quần áo rằn tiến về phía bọn anh. Trông tay nào cũng to cao, súng khoác chéo, lựu đạn đeo thành chùm quanh thắt lưng. Họ đi ngông nghênh không theo hàng lối nào, chứng tỏ chưa phát hiện ra bọn anh. Sáu tay lính vừa đi vừa nói chuyện, cách tảng đá chỗ bọn anh nấp gần hai trăm thước thì dừng lại.

“Tao nghĩ, phen này đứt rồi. Bỗng dưng tao oán thằng trinh sát, mẹ cha cái đồ Nam Ðịnh, nghiệp với vụ kiểu chó gì mà làm hại nhau đến nước này.”

Sáu tay lính bỏ súng sang bên, ngồi quây lại, giở lương khô ra ăn. Trinh sát hỏi đại trưởng đánh hay lặng lẽ chuồn. Ðại trưởng bảo nếu đánh thì bị lộ, mà chuồn thì chắc gì không lộ. Tấn xui đánh. Theo Tấn thì cứ giết hết, sau đó chuồn nhanh, bọn khác có phát hiện ra cũng chẳng biết hướng nào mà đuổi. Ðại trưởng hỏi anh, anh nói Tấn có lý. Thế là chia nhau làm hai hướng, anh với trinh sát vòng sang bên trái, còn đại trưởng với Tấn thì đánh trực diện.

“Chúng tao tiếp cận bọn khựa còn khoảng hai chục bước thì bị phát hiện ra. Không rõ phát hiện từ hướng của tao hay của đại trưởng. Chỉ biết mấy thằng đó cuống cuồng vơ lấy súng đứng dậy”.

Trinh sát thét rất to:

- Bắn.

Anh với trinh sát thi nhau lia đạn về phía đám lính. Ðại trưởng với Tấn cũng nổ súng. Bốn tay trúng đạn chết ngay tại chỗ, còn hai tay thì một cắm đầu lao về phía anh, một bị thương vừa nằm vừa bắn về phía đại trưởng. Không hiểu do sợ hay không phát hiện ra mà tay ấy cứ hùng hục chạy thẳng về tảng đá anh với trinh sát nấp. Bọn anh cùng rút dao, mỗi người nép sát vào một cạnh của tảng đá.

“Thằng ấy chạy xiên qua mép đá chỗ tao đứng. Tao đã xỉa nó, chỉ một phát. Thằng khựa thoạt nhìn tưởng đô con hơn tao nhưng khi đè ra mới thấy nó cũng chỉ cỡ cỡ như tao thôi, có khi gầy hơn. Mày còn nhớ cái ông chuyên gia ngày xưa ở gần nhà mình không? Thằng này giống y thế, cả cái mũi hơi vẹo sang bên, cả đôi mắt một mí xếch ngược lên, cả cái cổ cao ngẳng gân chằng chịt.”

Anh xỉa vào đúng cái cổ đó, dao cắm lút cán, nếu không vướng xương cổ thì chắc chắn đã xuyên sang bên kia. Tay lính không kêu được, hai mắt trợn trừng toàn lòng trắng nhìn anh.

“Lúc ấy trông nó càng giống ông chuyên gia trợn mắt đóng Tôn hành giả cho anh em mình xem.”

Thấy anh đứng trân trân nhìn, đại trưởng chạy xộc đến quát, không chạy đi còn đứng đấy tế bố cậu à? Anh vùng chạy, được mấy bước, sực nhớ, vội quay lại rút con dao khỏi cổ tay lính, không kịp chùi máu, cứ thế nhằm theo mông trinh sát mà chạy thục mạng. Chạy tới chân núi thì cả bọn lẩn sâu vào bên trong một vạt cây rậm. Lúc ấy trinh sát mới hỏi đại trưởng là chắc chắn mấy tay kia chết hết chưa. Tấn nhanh nhảu khẳng định trước khi chạy Tấn còn kịp bọp cho năm tay mỗi tay một phát. Ðại trưởng ra lệnh tranh thủ vượt lên đỉnh núi.

“Tao thắc mắc đây có đúng là chân núi Tà Vần không. Thằng trinh sát lúng túng nói lảng, cứ tìm lên đỉnh đã, đúng sai hẵng tính sau. Bọn tao cắm đầu cắm cổ tìm đường leo lên đỉnh núi. Cây cối không to, nhưng dây rợ, gai góc nhiều. Cừ rừm cừ rừm. Thằng Tấn dặn tao chú ý khéo bị rắn xanh cắn, có khi chả chết vì bọn Tàu mà lại chết vì mấy con rắn xanh vớ vẩn.”

Mình ớn lạnh. Rắn xanh, cái con rắn xanh quái đản như chớp của trời đã từng có mặt ở thị xã của mình.

- Rừng ở đây nhiều rắn không em?

Mình hỏi bí thư huyện đoàn. Cậu ta đáp:

- Cũng khá anh ạ.

Hắn xen vào, khẳng định chắc lừ rằng vùng này nổi tiếng là xứ sở của rắn lục. Loại rắn ấy cắn một phát chỉ năm phút sau là liệt, hai mươi phút sau là chết. Hắn kiếm được tài liệu của bên phía họ cho biết trận tháng hai ở hướng Tà Vần này có tới bốn mươi mốt trường hợp lính bị rắn lục cắn, trong đó bảy chết, mười sáu liệt toàn thân và phải giải ngũ. Cuộc Tám tư, rút kinh nghiệm, mỗi trung đoàn lính của họ đều có biên chế thêm một lương y chuyên trị nọc rắn lục.

- Bị rắn xanh cắn thì chỉ còn cách chặt phăng chỗ bị cắn đi may ra mới thoát.

Hắn bảo vậy. Lái xe nói:

- Phần lớn mọi người bị cắn vào cổ vì nó phục ở trên cao phóng xuống.

Bí thư huyện đoàn tham gia rất ơ hờ vào câu chuyện này vì bị Trang mê hoặc bằng cái trò cọ đùi. Khói bốc cuồn cuộn ở cánh rừng phía trái con đường. Người ta đốt rừng làm nương. Khắp cả nước đâu cũng khói.

Rồi cũng có điểm nhấn trên con đường gập ghềnh mà tẻ nhạt này. Dưới chân núi, một dải phẳng phiu, lốm đốm giữa cỏ xanh và đất nâu tím, đột ngột mọc lên bốn năm cây cổ thụ đứng châu vào nhau thành một khối lớn xùm xòa như trái núi đen. Giữa mấy cây cổ thụ, có một ngôi miếu nhỏ, chắc chắn là miếu vì hình chữ nhật dựng đứng, mái cong vểnh lên, chỉ một cửa và không có cánh. Người tò mò đầu tiên là Trang:

- Chỗ kia là cái gì mà đẹp thế hả anh?

Bí thư huyện đoàn bảo đó là miếu thờ, còn thờ ai thì bản thân bí thư huyện đoàn cũng không rõ. Mình chờ hắn lên tiếng nhưng hắn tảng lờ. Lái xe thấy hắn không nói gì thì giải thích:

- Miếu này hình như thờ một người tên là Nguyễn Công Thế.

Ðến lượt hắn ngạc nhiên:

- Ông ấy ở thời nào?

Lái xe lắc đầu bảo chịu, lâu rồi, lần đưa phó tổng biên tập cũ lên qua đây, nghe mọi người nói vậy. Mình biết người này, nếu như không nhầm. Ông ta là Tế tửu Nguyễn Công Thái, quê ở Kim Lũ, Thanh Trì, đậu tiến sĩ năm Ất Tỵ triều Vĩnh Trị. Thời kỳ ấy, triều đình Trung Hoa phải trả lại đất cho ta ở phần châu Vị Xuyên chỉ với điều kiện khi nhận lại phần đất ấy thì làm theo lễ nghi ba lạy chín xá đối với hoàng đế Trung Hoa. Tả thị lang Nguyễn Huy Nhuận và Tế tửu Nguyễn Công Thái thay mặt triều đình lên nhận đất. Giới hạn của biên giới được xác định là con sông Ðổ Chú. Thế nhưng viên thổ ti Khai Hóa lại giở trò tháu cáy, lấy con sông nhỏ, ở sâu trong địa phận Tuyên Quang bảo đó là sông Ðổ Chú và đòi phân biên giới tại đó. Nguyễn Công Thái biết mưu ấy, mới đích thân lặn lội đi mấy ngày đường tìm ra bằng được con sông Ðổ Chú thật để cắm mốc. Té ra con sông Ðổ Chú nằm rất sâu trong địa bàn Khai Hóa. Bia được dựng lên vào năm 1728. Không hiểu sao miếu thờ viên tế tửu được khen là đáng làm gương cho kẻ sau, lại lạc tít sang xó cùng này. Lịch sử như con thú cuồng chân, cứ chạy loạn xà ngầu cả. Con sông Ðổ Chú cũng biến mất, để lại vài ba dấu vết mơ hồ, nghi hoặc.