← Quay lại trang sách

CHƯƠNG III

Sau khi các cơ sở Công đoàn đã được thiết lập dù trong hoàn cảnh hết sức vội vã với nhiều luộm thuộm thiếu xót, Thành phố Sài Gòn đi vào công tác cải tạo Thương Nghiệp tư bản, tư doanh. Nói trắng ra là kiểm kê và tịch thu tài sản của tất cả những thương gia thuộc đủ mọi ngành nghề, ngoại trừ những người buôn thúng bán mẹt. Nguyệt được biết kế hoạch này từ trước qua sự trình bày mơ hồ, hết sức tổng quát của Vũ.

Vũ nói:

– Sau ngày cách mạng thành công, giai cấp tư sản và các phần tử bóc lột khác tuy đã bị đánh đổ nhưng chưa bị xóa bỏ. Chúng nó còn tài sản, còn những liên hệ đối với nền kinh tế cũ chưa được cải tạo, còn tiếp tục âm mưu ngóc đầu dậy để thu hồi lại «thiên đường» vừa bị mất. Do đó, cuộc đấu tranh giữa Cách Mạng với các thành phần này còn gay go quyết liệt. Nhiệm vụ trước mắt là phải tiến hành công tác cải tạo song song với công cuộc bảo vệ và xây dựng Chủ Nghĩa Xã Hội.

Nguyệt liên hệ ngay đến số phận bị bắt đi cải tạo của các cấp Sĩ Quan trong Quân Đội nên tròn mắt lên hỏi:

– Nghĩa là tất cả các thương gia đều bị bắt hết à?

Vũ mỉm cười bí mật:

– Cũng còn tùy ở mức độ và thiện chí của từng người. Nói đúng ra, những bọn tư sản mại bản có liên hệ nhiều đến việc xuất nhập cảng, giao dịch với nước ngoài thì cũng đã bị bắt hết rồi. Lần này, nếu có tiến hành công tác cải tạo thì cũng chỉ ở mức độ «nhẹ» hơn.

Cái nhẹ hơn mà Vũ nói thật ra cũng đã làm trời long đất lở và khiến cho toàn dân ở Sài Gòn cũng như các đô tỉnh thị phải rúng động bàng hoàng.

Trước hôm kiểm kê độ năm ngày, Nguyệt được biết một cách rõ nét hơn về một «công tác to lớn và cực kỳ quan trọng» sắp tới. Nàng đi giữa thành phố Sài Gòn ồn ào, nhộn nhịp với tâm trạng của một kẻ biết trước tai họa sẽ xẩy ra cho mọi người mà ai nấy vẫn còn đang nhởn nhơ. Những sạp vải ở quanh chợ vẫn đầy nhóc hàng hóa. Dọc đường Trần Hưng Đạo, Lê Lợi, Đồng Khánh, Nguyễn Trãi, những tiệm buôn vẫn tiếp tục mở cửa đón khách ra vô nườm nượp, phần đông vẫn là những cán bộ, công nhân viên ở miền Bắc vào công tác đi mua sắm trước khi trở ra. Giới thương gia vẫn còn tiếp tục hốt bạc nhờ nguồn khách hàng cứ mỗi lúc một đông này. Thực ra, tin tức về kiểm kê đã được lọt ra ngoài từ mấy tháng trước. Lúc đầu, dư luận đồn nháo lên. Sau không thấy gì thì nghe ngóng, bàn tán. Rồi lại nháo lên nữa. Một vài lần xẩy ra như vậy, riết đâm nhàm. Mọi người trở thành ngủ quên trong niềm tin dễ dãi; chỉ toàn tin đồn nhảm.

Riêng lần này thì Nguyệt biết chắc công cuộc kiểm kê sắp sửa xẩy ra. Một số thanh niên nòng cốt trong chi đoàn đã được gửi đi học tập với nhiệm vụ lệnh không ghi rõ ngày trở về. Nhìn nét mặt đăm chiêu, hối hả, nghiêm trang của những cán bộ tổ chức mà Nguyệt có cơ hội tiếp xúc, nàng đoán được ngay cái ngày «trọng đại» sắp sửa diễn ra.

Trong khi đó, mẹ của nàng vẫn tiếp tục tung vốn để mua vào đủ loại mặt hàng. Sạp vải của bà ở chợ Bến Thành là một trong những sạp bề thế nhất. Nguyệt đã phải đấu tranh tư tưởng dữ dội với chính mình để tự hỏi xem rằng có nên cho mẹ biết rõ sự thực hay không. Nói cho ngay, nàng không phải là người thuộc loại cơ hội chủ nghĩa. Thoạt tiên, nàng tham gia công tác đoàn thể với mục đích ham vui, cộng với hình ảnh sương gió thu hút của Vũ mang phần nào tính cách lãng mạn, tiểu thuyết. Rồi thông qua học tập, nàng chợt tìm thấy những điều mới lạ phù hợp với bầu nhiệt huyết đầy lý tưởng của tuổi thanh niên. Vũ đã từng nói với nàng bằng một giọng sôi nổi:

– Đất nước bây giờ đã hòa bình. Đây là cơ hội tốt nhất để tất cả mọi người cùng nhau góp phần gây dựng lại quê hương đã đổ vỡ và đầy rẫy những điêu tàn.

Nguyệt tin Vũ. Mãi mãi nàng vẫn còn tin Vũ vì trực giác nhạy bén của nàng cho nàng biết là Vũ đã nói thật về chính ước mơ của chàng. Mà số người mang cùng một ước mơ như Vũ không phải là nhỏ. Nàng nhớ đến chị Bảy, chị Chín ở tòa soạn báo Phụ Nữ Giải Phóng, do nhu cầu công tác, đã cho nàng nhiều cơ hội tiếp xúc. Đấy là những người đàn bà bình dị, hiền hòa. Họ đã trải qua nhiều năm sinh hoạt trong rừng sâu nên thân thể gầy gò, ốm yếu, lúc nào cũng húng hắng ho, phải mang trên mình một cái áo len mỏng dù tiết trời đang ở mùa hạ. Các chị ấy đã vẽ ra một tương lai tốt đẹp cho quê hương sau ngày giải phóng:

– Bây giờ chúng ta đã làm chủ trên chính quê hương của mình. Chúng ta sẽ tự do xây dựng một xã hội theo đúng như mọi người mơ ước: không còn tham nhũng thối nát, không còn cường hào, ác bá bóc lột. Cái xã hội bảo đảm được các quyền công dân, bảo đảm sự phát triển phong phú của nhân cách, bồi dưỡng và phát huy được sở trường và năng khiếu của cá nhân, tạo điều kiện cho mọi người tự do tìm tòi và sáng tạo trên các lãnh vực sản xuất, khoa học, kỹ thuật, văn hóa nghệ thuật...

Một xã hội như thế, ai mà không mơ ước! Phải chăng, mấy trăm ngàn sĩ quan các cấp thuộc quân lực cũ sẵn sàng đi trình diện học tập trong khi guồng máy công an, cảnh sát của chế độ mới hãy còn ở giai đoạn phôi thai chưa đủ khả năng ruồng bắt, tóm gọn, ấy cũng là vì xuất phát từ một tấm lòng tha thiết muốn được góp phần vào công cuộc xây dựng lại quê hương sau bao nhiêu năm hoang tàn vì chiến tranh.

Việc tham gia công tác đoàn thể của Nguyệt, do đó dần dần mang tính cách của một con người phục vụ cho lý tưởng. Nàng miệt mài làm việc, có khi quên ăn, quên ngủ. Nàng tham dự vào những cuộc đấu tranh tư tưởng dựa trên một số kiến thức về lý luận mới thu thập được, cộng với chính những cảm nghĩ xuất phát từ tấm lòng bồng bột, hăng say của nàng mà ra.

Vụ học tập về trường hợp của Lê văn Nam ở nông trường Lê Minh Xuân là một thí dụ điển hình.

Lê văn Nam thuộc thành phần thanh niên xung phong ở khu kinh tế mới Lê Minh Xuân. Anh ta lao động cật lực như tất cả các thanh niên khác, và không ai được cung cấp đầy đủ thực phẩm để bồi dưỡng. Người có gia đình thì còn được tiếp tế. Nam chẳng có thân bằng quyến thuộc nào nên đói thưởng xuyên. Một hôm, đói quá, Nam đã cất giấu mấy củ khoai mì ở dưới luống, sau khi đã đổ mồ hôi để đào mà gom lại nộp cho Ban điều hành nông trường.

Đến tối mịt, anh ta trở lại luống mì, đào lên mấy củ đã cất dấu và ăn sống nuốt tươi trong bầu không khí nhá nhem thê lương của nông trường. Việc làm vụng trộm của anh bị phát giác và anh bị lôi ra trước tập thể để làm kiểm thảo. Sui cho anh, sự việc xẩy ra lại rơi đúng vào thời gian toàn thành phố đang phát động chiến dịch đấu tranh tránh sai trái, chống tẩu tán tài sản của Xã Hội Chủ Nghĩa. Thế là phóng viên tờ Tuổi Trẻ, cơ quan ngôn luận của Thành Đoàn Thanh Niên đưa vụ này lên mặt báo làm trường hợp điển hình. Đơn vị của anh Nam được tuyên dương ầm ĩ.

Là một bí thư chi đoàn, Nguyệt có bổn phận phải khai triển vụ điển hình này để cho các thanh niên trong cơ sở nhà in Hồng Phát được học tập. Nhưng thay vì cổ võ việc làm của đơn vị anh Lê văn Nam, trái lại Nguyệt thực sự nổi giận. Nàng tức tốc đi tìm Vũ và nói với chàng:

– Các anh hết sức sai lầm khi đem vụ này ra học tập. Các anh thử nghĩ coi, một người lao động trên luống mì đến không đủ no, phải ăn cắp rồi ăn tươi nuốt sống ngay chính trên sản phẩm lao động của mình. Một trường hợp như thế ta không lấy làm đau lòng hay sao? Cái lỗi của anh Nam thì có, nhưng nhỏ, nhưng cái bất nhân của chế độ điều hành nông trường kiểu đó còn to lớn hơn nhiều.

Vũ chia xẻ ngay với sự phẫn nộ của nàng. Chàng hứa sẽ đặt vấn đề với toà soạn báo Tuổi Trẻ. Chẳng rõ việc đặt vấn đề này dẫn tới kết quả ra sao, nhưng ít nhất, Vũ cũng đã chấp thuận để Nguyệt bỏ qua một vụ học tập điển hình có tính cách «bất nhân» này.

Cũng có thể hiểu rằng, vụ Lê văn Nam chỉ là một vụ nhỏ, không động chạm gì đến những vấn đề cốt tử của chế độ. Do đó, hành động của Nguyệt được dễ dàng chấp thuận. Nhưng còn những vụ bắt bớ, giam cầm, tịch thu tài sản có khi thì diễn ra âm thầm, có khi thì ồn ào sôi nổi thì sao? Nguyệt có đủ thông minh để không dại gì húc vào những lãnh vực to tát như thế. Can đảm lắm thì Nguyệt cũng chỉ nêu lên những câu hỏi để trấn át sự lợn cợn trong lòng mình:

– Anh Vũ, mình có cần phải bắt bớ hết, giam cầm hết những thương gia làm nghề Xuất nhập cảng trước đây hay không?

– Tại sao không! Đó là thành phần Tư sản mại bản, nặng nề hơn thành phần tư sản dân tộc.

– Nhưng dưới chế độ cũ, họ cũng là người làm ăn buôn bán lương thiên.

– Không thể lương thiện được khi nhìn dưới góc độ của con người Cách mạng. Trước hết là họ cấu kết với tư bản ngoại quốc để bóp chết những thành phần sản xuất những hàng nội hóa. Sau nữa là họ đầu cơ để thao túng thị trường làm giầu trên mồ hôi, nước mắt của tập thể nhân dân lao động, họ đã trở thành những vua đường, vua sữa, vua gạo, lại có cả vua kẽm gai nữa. Họ có nợ máu đối với nhân dân.

– Những «vua» ấy thì có, nhưng đâu phải tất cả. Thành phần còn lại, tưởng chỉ cần tịch thu tài sản là đủ rồi chứ.

– Em lại sắp rơi vào chủ nghĩa chung chung mà xa rời tính cách triệt để của bạo lực cách mạng rồi. Làm cách mạng mà không triệt để thì các phần tử xấu sẵn sàng lúc nào cũng cấu kết với nhau, ngóc đầu dậy, chống phá, lũng đoạn có khi làm tiêu tan cả thành quả phôi thai mà cách mạng vừa đoạt được. Cho nên phải dứt khoát rũ bỏ tình thương chung chung. Nó không đem lại một điều gì lợi ích cụ thể mà có khi còn hại cho chính bản thân của em sau này.

Sau lời nói đó, Nguyệt không còn muốn đề cập gì thêm với Vũ nữa. Nàng biết rằng có trao đổi thì vấn đề cũng đứng lại ở lằn mức như vậy. Lằn mức mà ở đó, Nguyệt chưa đủ nhẫn tâm để vượt qua. Lằn mức mà ở đó, lòng nhân bản của Nguyệt không cho phép nàng chấp nhận quan điểm đem sắt máu trấn áp những người thuộc chế độ cũ dù người đó thuộc vào bất cứ thành phần gì trong xã hội. Rút cục, Nguyệt ẩn dấu trong lòng một tâm sự sâu kín, nó khiến cho nàng không thoải mái trong rất nhiều sự kiện đang liên tục diễn ra ở chung quanh. Lần đầu tiên từ ngày Sài Gòn sụp đổ, Nguyệt cảm thấy cô đơn trên con đường mình vừa chọn lựa. Danh từ Cách Mạng nghe đầy vẻ sôi nổi, hấp dẫn nhưng nó vẫn hàm chứa một cái gì ghê gớm, tàn bạo, lạnh lùng mà nàng không thể nào vượt qua được. Nhưng công việc bận rộn mù mịt không cho Nguyệt nhiều cơ hội để suy nghĩ, đặt vấn đề. Gần tới ngày thực sự kiểm kê, Nguyệt chỉ nói với mẹ:

– Con nghĩ rằng dưới chế độ mới, việc mua bán không thể kéo lâu dài.

Mẹ nàng đáp:

– Được ngày nào hay ngày đó chứ. Nếu không, lấy gì mà ǎn.

– Nhưng tính làm ăn tạm bợ như vậy, sao mẹ buôn thêm vào làm chi lắm mặt hàng thế.

– Buôn bán thì phải vậy chứ. Đã gọi là sạp hàng thì cũng phải cho đầy đủ. Với lại tiền Cách Mạng như giấy lộn, để hàng thì còn đó, để tiền trắng tay lúc nào không biết.

Nguyệt nói xa xôi:

– Nhưng hàng có thể bị kiểm kê bất cứ lúc nào. Mẹ không thể nghĩ rằng bất chợt, nhà nước có thể ra lệnh niêm phong, kiểm kê hết sao.

Bà cụ chép miệng:

– Ôi dào! Nghe làm gì mấy cái tin đồn. Nhà nước họ còn cả nghìn thứ việc, rỗi hơi đâu mà họ đi lo mấy cái sạp vải lăng nhăng.

Nguyệt phấn đấu tư tưởng dữ dội lắm, nhưng rút cục nàng nhận thấy không thể không cho mẹ biết về những dữ kiện đang âm thầm xảy ra:

– Lần này không phải tin đồn đâu mẹ. Con biết chắc rằng việc kiểm kê chỉ xẩy ra trong vài ba hôm nữa. Họ chuẩn bị xong hết rồi.

– Lần nào tao cũng nghe nói chuẩn bị hết rồi mà có thấy gì đâu. Nhưng thôi, để bán xong mớ hàng này rồi tao tính.

– Mẹ tính thế nào thì tính, nhưng nếu có bị niêm phong, mẹ đừng có trách con là không nói trước.

Bà cụ bật cười:

– Con mẹ mày! Có bao giờ tao trách mày đâu. Thông báo xong với mẹ, Nguyệt thấy nhẹ người.

Nàng tự cho như thế đã là quá mức của nàng. Và nàng biết chắc, chỉ trong thời gian ngắn nữa, mẹ nàng sẽ mất hết. Nhưng mất thì mất, đó là con đường chung mà tất cả mọi người phải đi qua. Rồi đây, ai ai cũng như nhau, cùng một điều kiện sống, cùng một hoàn cảnh và cùng nắm tay nhau khởi đầu trong một ván bài đi làm lại. Nàng cảm thấy hoàn toàn yên tâm khi nhớ đến một đoạn trong bài giảng thuộc một khóa học ở Thành đoàn Thanh niên:

– Rồi đây chúng ta sẽ tạo ra lực lượng sản xuất mới lẫn quan hệ sản xuất mới, tạo ra cơ sở kinh tế mới lẫn kiến trúc thượng tầng mới, tạo ra cả đời sống vật chất mới lẫn đời sống tinh thần và văn hóa mới.

Nàng lấy làm ngạc nhiên sao một con người hiểu biết, có tâm hồn hướng thượng như Toàn, lại không thể chia xẻ một mảy may nào với nàng về một viễn tượng tương lại tốt đẹp như thế.

Từ hôm đi làm trở lại, Toàn có một thái độ chăm chỉ hơn, tích cực trong công việc xếp chữ những trang Toán của chàng hơn, nhưng đồng thời chàng lại có vẻ lạnh lùng, câm nín hơn. Nguyệt không thể biết được rằng sự chăm chỉ ấy đã do bàn tay của ông Hồng Phát nhúng vào. Còn nhiều điều khác nữa ở trong cái cơ sở in này. Nguyệt cũng không hề hay biết. Nàng là một con người có khả năng nhạy bén về tài liệu sách vở, và có óc tổ chức rất sáng suốt, linh hoạt, tuy nhiên tất cả những cái đó chẳng qua cũng chỉ là lý thuyết, mang hoàn toàn tính cách hình thức trang trí. Đi vào đời sống thực tế, Nguyệt chẳng có qua một chút kinh nghiệm nào. Cho nên trong lúc nàng lo hăng say sắp đặt lại khâu này, tái phối trí lại khâu kia, thì những nhân sự bề ngoài có vẻ tuân theo chỉ thị của nàng một cách răm rắp, nhưng bên trong lại đầy những âm mưu, lén lút ở những chỗ không bao giờ Nguyệt để mắt tới.

Vụ in giấy đi đường giả là một thí dụ nhỏ. Dưới chế độ mới, việc di chuyển từ tỉnh này đến tỉnh kia phải có sự chấp thuận của cơ quan. Đương sự thuộc cơ quan nào thì nơi đó cấp giấy. Còn diện nhân dân di chuyển thì phải qua công an Phường, Quận. Đi xa hơn nữa, qua khỏi ranh giới Huế ra Bắc, thì phải cứ sự chấp thuận của Công an cấp Thành.

Hình thức đặt ra trông có vẻ như là một sự kiểm soát chặt chẽ. Nhưng trong thực tế, đó là một duyên cớ béo bỏ để đủ loại người có thể xúm lại làm ăn. Một lần, nhân ngồi rủ rỉ tâm sự với một vài nhân viên thân tín cũ, (mà hiện nay vẫn còn tiếp tục nhận tiền rấm rúi của ông Hồng Phát để bù đắp vào đồng lương chết đói do Cách mạng qui định cho công viên), ông Hồng Phát gợi ý:

– Cái giấy đi đường thì tụi bây in nhấp nháy là xong chớ gì.

Một anh thì thào:

– Xếp chữ dễ, in mới khó... Máy nó chạy xoành xoạch, đứa nào cũng thấy.

Ông Hồng Phát cười rung cả hai má núng nính:

– Mầy lâu trong nghề mà ngu. Ba cái giấy vật ấy đâu cần lên khuôn cho máy chạy. Xài cái bàn lăn vẫn để vỗ bài «bông» ấy chớ.

Mấy người ngồi quanh reo lên:

– Chịu ông thầy! Lăn cái đó chỉ mười lăm phút một ngày là dư giấy phép đem xài.

Thế là dịch vụ in giấy đi đường giả tiến hành trước mũi của Nguyệt mà nàng không hề hay biết gì cả. Kẻ chủ chốt xếp chữ là Hùng, một thanh niên đã được kết nạp vào Đoàn, lại vừa được Nguyệt đề nghị cấp giấy khen về thành tích tiên tiến nữa! Rồi từ giấy đi đường giả, được trớn, Hùng và nhóm thân tín in luôn giấy chứng minh giả, giấy bầu cử giả, giấy nghỉ phép giả, Hùng có đủ lý do «chắc nịch» để bào chữa cho hành động của mình:

– Vừa có tiền xài, vừa giúp đỡ bà con tránh khỏi nạn kềm kẹp!

Sự việc mờ ám bỗng nhuốm một mầu sắc ái quốc, mặc dầu ngân quỹ phục quốc chẳng hề được hưởng một đồng xu teng nào. Cũng như trong thời gian đó, cái tệ đoạn cướp giật, tráo đồ, ăn gian nói dối, lừa gạt tráo trở xẩy ra đầy rẫy ở những khu chợ trời, mà nạn nhân phần đông là những anh bộ đội ngu ngơ (nhiều khi rất hiền lành) đều đã được những kẻ chủ mưu tự khoác cho mình nhãn hiệu yêu nước để giải tỏa cái mặc cảm bất lương nếu có, của mình:

Mấy thằng bộ đội cho nó chết luôn! Mình «ngụy» mà!! Chữ Ngụy bỗng nhiên trở thành một bình phong che dấu rất nhiều hành vi tồi tệ. Chợ trời Sài Gòn, trong tình thế ấy, như lên một cơn sốt kinh niên. Chẳng ngày nào lại không xẩy ra vài trường hợp có những anh cán bộ, bộ đội đứng ở giữa chỗ đông người vừa mặt xanh không còn hạt máu, vừa gào mồm lên văng tục, nói bậy, đào mồ ông mồ cha bọn ngụy lên mà chửi vì phút chốc vốn liếng cả đời đổ vào cái đài, cái đổng, cái xe nay bỗng tiêu tan vì bị cướp giật bằng đủ mọi loại hình thức.

Ở nhà in Hồng Phát, những cơn sốt âm ỉ, trái ngược cũng vẫn đang âm thầm diễn ra. Trong khi ở căn nhà dưới về khuya, những anh thợ làm ca đêm vừa chạy máy in sách giáo khoa, vừa thay nhau canh chừng để in lậu những giấy tờ giả mạo, thì ở tầng xét trên, Nguyệt và một vài thành phần thu hẹp chụm đầu thì thào thảo luận với ông Năm Tỏa về những biện pháp sắp đem ra áp dụng cho ông Hồng Phát một khi cuộc cải tạo tư bản tư doanh bùng nổ toàn thành phố. Cứ chiếu theo tập hồ sơ thu thập được từ nhiều nguồn tin tức khác nhau đánh giá về quá trình sinh hoạt bản thân của ông Hồng Phát, thì ông ta là một người có nhiều... nợ máu! Buôn lậu, chợ đen, đầu cơ tích trữ, bóc lột đời sống công nhân để có một tài sản kếch sù, thôi thì đủ thứ tội tình mà dưới chế độ mới, ít lắm ông ta cũng bị lôi đi cải tạo vô thời hạn song song với biện pháp tịch thu toàn bộ tài sản. Nói cho ngay, những hồ sơ này không phải là những thứ bịa đặt, chụp mũ. Ông Hồng Phát là một thương gia, đúng nghĩa hiểu theo quan niệm của xã hội cũ. Buôn đi, bán lại không phải là một tội tình. Ông chỉ bước thêm một bước quá trớn, vượt qua khỏi lằn ranh buôn bán đúng nghĩa bằng cách sử dụng tiền bạc có sẵn để giam hàng hóa lại một thời gian thích hợp trước khi bán ra. Nghĩa là đầu cơ, tích trữ. Luật pháp của chế độ cũ không dung dưỡng cho loại hoạt động phi pháp này. Nhưng đó chỉ là lý thuyết. Trong thực tế, nó đã được hỗ trợ ngầm bởi nhiều phía có quyền lực, vì có sự ăn chia. Rút cục chỉ khổ cho lũ dân chúng lao động nghèo khổ, sống bằng đồng lương cố định hoặc giật vá tiền bạc từng ngày. Họ đã trở thành con mồi cho gian thương xiết họng. Hộp sữa, ký đường hôm nay một giá, tuần sau lên một giá khác. Những hàng nhu yếu phẩm thoắt biến, thoắt hiện trên thị trường nhịp nhàng như chịu ảnh hưởng dưới bàn tay của những tên phù thủy. Dân cứ nghèo, cứ than, nhưng gian thương và bọn quyền thế cứ ních đầy túi tham một cách không bao giờ thỏa mãn.

Ông Năm Tỏa đã nghiên cứu hồ sơ cá nhân của ông Hồng Phát với một vẻ mặt lạnh lùng và những tia mắt đầy thù hận. Rồi ông cùng ký tên với Nguyệt vào bản phúc trình mật sau khi buông gọn một câu:

– Tất yếu là phải như vậy thôi!

Dưới mắt Nguyệt, số phận của ông Hồng Phát coi như đã được an bài. Khi tới ngày G, giờ X, mọi thân bằng quyến thuộc sinh sống trong gia đình ông sẽ bị cấm chỉ ra vô. Mọi đồ đạc, ngăn kéo, tủ kệ và két sắt sẽ bị niêm phong. Riêng ông sẽ phải ra đối chất với toàn thể công nhân nhà in Hồng Phát về mọi hành vi mà ông đã làm trong quá khứ (Nguyệt đã chuẩn bị một số đoàn viên làm nòng cốt trong việc đối chất này). Rồi nhà in Hồng Phát sẽ chánh thức chuyển sang tay công nhân dưới hình thức làm chủ tập thể. Ông sẽ bị còng tay và dẫn đi học tập cải tao.

Nói chung, số phận của ông sẽ giống y chang như những người đã bị liệt vào thành phần tư sản mại bản đã bị quản chế trước đây. Hồi đó, Nguyệt được giải thích:

– Cách Mạng rất sáng suốt, chỉ áp dụng bạo lực với thành phần tư sản mại bản cấu kết với bọn nước ngoài mà thôi. Còn thành phần tư sản dân tộc, nói chung là những thương gia không có liên hệ với nước ngoài, thì ít nhiều gì cũng có những điểm tốt, nên không sao, cứ khuyến khích họ bình tĩnh, yên tâm làm ăn.

Nay thì lời trấn an đó đã hoàn toàn trở thành vô nghĩa. Nguyệt học thêm được một điều là trong chế độ mới, chỉ thị, nghị quyết, biện pháp gì gì đi chăng nữa, tất cả đều chỉ có tánh cách giai đoạn. Chuyện này được bỏ qua trong hiện tại, nhưng không có nghĩa là sẽ được bỏ qua trong tương lai. Như một con thú đói khát đứng trước một con mồi ngon lành, nó sẽ ngoạm dần từ miếng đầu tới miếng chót. Điều này. Nguyệt phải hiểu đó là sự đương nhiên, vì nàng đã được học tập rằng: Giai cấp bóc lột không những rèn ra vũ khí để sẽ giết chính mình mà còn sinh ra những người sử dụng cái vũ khí đó, tức là những kẻ đã từng ở giai cấp bị bóc lột! Cái quan niệm bạo lực sắt máu đó sẽ không bao giờ dành một chỗ dung thân cho những con người như ông Hồng Phát cả.

Bây giờ, thời điểm ấy đã tới. Mọi sự xếp đặt đã được hoàn tất ở phần vụ cơ sở, chỉ còn cần một sự duyệt xét và thông qua của cấp có thẩm quyền cao hơn.

Ông Năm Tỏa thỏa thuận để Nguyệt mang toàn bộ hồ sơ đến hội ý và xin quyết định cuối cùng của ông Sáu Thu. Nàng liên lạc với ông qua số dây nói ở nơi làm việc, nhưng lại được ông hẹn ở nhà riêng với lý do cần sự bảo mật. Ông Sáu Thu được sở nhà đất thành phố cấp cho một căn biệt thự ở đường Công Lý. Căn nhà rộng rãi, tĩnh mịch có lầu trên, có dãy nhà ngang ở dưới, có cây cối um tùm bao quanh, nhưng vì chỉ có một mình ông và một anh bảo vệ nên trở thành tuênh toang, trống trải. Theo sự hiểu biết của Nguyệt, thì ông Sáu Thu đã có vợ, có con ở Hà Nội. Chương trình dự liệu của ông là sau một thời gian ổn định, ông sẽ đón tất cả mọi người vào Nam. Nhưng hình như thời gian «ổn định» đó chưa tới, nên chưa thấy dấu hiệu gì có vẻ như ông đang sắp xếp, chuẩn bị nơi ăn chốn ở cho người thân cả. Căn phòng khách ở phía ngoài, ngoài bộ sa lông và một cái tủ kính đựng ly, tách, hãy còn nhiều chỗ trống chưa có đồ đạc, hay cây cảnh trang trí. Trên vách tường cũng vậy, những bức tranh cũ (chắc là mang dấu vết của sự đồi trụy) đã được gỡ ra, bỏ lại những khoảng trống mang mầu sắc đậm hơn so với màu tưởng đã cũ kỹ theo thời gian.

Ông Sáu Thu tiếp Nguyệt trong một bộ pyjama còn nguyên nếp phủ bên ngoài bằng một cái áo kimono màu đỏ tía. Trông ông hoàn toàn diêm rúa và thật tương phản với với bộ quần áo màu xanh bộ đội ông mới mặc hôm nào khi đứng trên bục thuyết trình tại khóa đào luyện Cán bộ Công đoàn Cơ sở. Mặt mũi của ông cũng nở nang và có khí sắc hơn so với nước da mai mái, đen sạm của ông mới chỉ trước đó vài tháng. Trông thấy Nguyệt, ông nở một nụ cười thật tươi và chạy lại vồn vã, ôm lấy ngang bờ vai tròn trĩnh sau lần áo cánh bằng phin mỏng của nàng. Ông nói cười ồn ào:

– Sao cô Nguyệt, công tác tốt không? Có gì căng lắm không? Nhà cửa của tôi còn luộm thuộm lắm, cô đừng chê nhé. Rồi ông tự tay đi lấy ly tách đem vào phòng trong sửa soạn để bưng ra ngoài cho nàng một ly nước cam đầy ắp. Riêng về phần ông, ông pha cho mình một ly soda trong có chế một ít rượu mạnh Cognac, Whisky gì đó, độ rượu không mạnh lắm nhưng cũng đủ để cho mặt ông trở nên hồng hào sau khi nhâm nhi một vài ngụm. Trong lúc ông chạy loay hoay đứng lên, ngồi xuống làm đủ thứ chuyện, thì Nguyệt vẫn ngồi khép nép ở một ghế salon, lòng không khỏi so sánh hình ảnh của ông với ông Năm Tỏa để thấy rõ sự khác biệt giữa hai con người đang cùng đi chung với nhau trên một con đường. Con đường Cách mạng!

Ông Năm Tỏa quanh năm xuê xòa với bộ quần áo kaki đã bạc mầu. Từ ngày Vô Thành phố, ông ta vẫn lê đôi dép râu cùn mòn mà lâu lâu ông cứ phải cúi xuống buộc lại cái quai hậu thỉnh thoảng bị tuột ra. Ông nghiện thuốc lá, mỗi lần ông châm điếu thuốc, Nguyệt thấy ông dùng cái bật lửa cũ kỹ mà nước kền mạ ngoài đã bị mài mòn đến độ để lộ ra màu đồng ở trong cũng đã lên nước sáng bóng. Thường thì ông phải bật đi bật lại năm bảy lần cái bấc mới bắt lửa. Đầu ông hơi nghiêng, cặp mắt với đôi lông mày rậm đã ngả mầu đốm bạc hơi nhíu lại, đôi môi dày và thâm của ông chu lại để ngậm điếu thuốc đang được mồi. Cử chỉ ấy của ông trông tội nghiệp như cuộc đời thanh đạm, thiếu thốn của ông. Công tác gần gũi với ông lâu ngày, Nguyệt coi ông như một ông chú. Nàng rất quý ông ở tính tình xuề xòa, đơn giản của ông. Trong công tác, ông là một cán bộ trung thành với đường lối kinh điển. Ngoài đời sống, ông vui vẻ, dễ hòa hợp với mọi người. Ông tin tưởng ở con đường mà ông đã đeo đuổi. Ông hay say sưa kể cho Nguyệt nghe về những ngày mà ông cho là vẻ vang khi còn chiến đấu thiếu thốn ở ông trong rừng. Sự say sưa nhắc lại quá khứ của ông chợt có lúc Nguyệt khám phá ra rằng ông đang ở cái tâm trạng chỉ hoài niệm về những huyền thoại đã đi qua không bao giờ trở lại. Có lần nàng hỏi ông về những chuyện hiện tại, bây giờ, những gì đang diễn ra sôi nổi ở chung quanh, thì ông trả lời, giọng đăm chiêu, xa vắng:

– Cả cuộc đời tôi đi làm Cách mạng, đâu phải để thể hiện một cái xã hội như thế này.

Đấy là một lần duy nhất, ông Năm Tỏa thổ lộ những ý nghĩ sâu kín nhất của ông. Nhưng ông không còn cách nào khác hơn là buông xuôi phó mặc đời sống cho guồng máy đang rầm rộ vận chuyển. Kẻ ở vị thế này, người ở hoàn cảnh khác. Những khuôn mặt có thể đồng dạng với nhau khi cùng đồng lao cộng khổ, nhưng đến lúc có cơ hội để thụ hưởng thì vô số những khác biệt mới lộ ra.

Như ông Sáu Thu là một trường hợp điển hình. Ông đã miệt mài đấu tranh để loại bỏ một giai cấp, nhưng ông lại đang ở trên đà trở thành kẻ thay thế lớp người cũng ở giai cấp đó. Nói khác đi, Cách mạng đâu có xóa bỏ nổi giai cấp áp bức, bóc lột. Nó chỉ thay thế lớp người đi làm công cuộc áp bức, bóc lột đó thôi. Nguyệt nhận thấy, lần đầu tiên mình manh nha ý nghĩ này qua cuộc đối thoại với ông Sáu Thu buổi tối hôm đó.:

– Hôm nay Em đại diện Cơ Sở lên xin ý kiến chót của Ông về trường hợp của ông Hồng Phát.

Sáu Thu nhíu mày:

– Hồng Phát nào nhỉ?

– Dạ, ông ấy là chủ cũ của cơ sở in Hồng Phát.

Ông Sáu Thu «à» lên một tiếng như người vừa chợt nghĩ ra, rồi ông nói:

– Tôi biết. Tôi cũng đã có những báo cáo về trường hợp của tên này. Còn ý kiến của Chi đoàn và Công đoàn

Cơ sở ra sao?

Nguyệt đẩy tập hồ sơ về phía ông:

– Thưa, mọi dữ kiện, mọi phân tích, mọi đề nghị đều đã ghi trong hồ sơ này.

– Vậy cô để đấy tôi sẽ đọc và cho ý kiến sau.

Quen với cung cách làm việc tại chỗ, giải quyết tại chỗ, Nguyệt ngơ ngác hỏi:

– Vậy là em phải chờ tới hôm khác? Em nghĩ là thời gian khẩn trương lắm rồi.

Ông Sáu Thu cười:

– Có gì mà khẩn trương đến thế. Trường hợp của Hồng Phát «nhẹ» mà, đâu có gì gấp gáp.

Nguyệt tròn mắt lên nhìn Sáu Thu như không tin ở tại nghe của mình. Nhưng nàng không thấy gì khác hơn trên khuôn mặt của ông ta ngoài ánh mắt đĩ thõa đang nhìn xuống đôi gò ngực căng phồng dưới làn áo phin mỏng. Mặt Nguyệt hơi đỏ lên. Nàng vờ làm một động tác để thay đổi thế ngồi, rồi nói:

– Thưa Ông, Công đoàn cơ sở và Chi Đoàn Thanh Niên đã hết sức khách quan trọng công việc thu thập những dữ kiện về đời sống quá khứ của đương sự. Nhiều trường hợp có cả những dữ kiện và nhân chứng cụ thể.

Sáu Thu đổi giọng nói:

– Đồng ý! Đồng ý! Tôi không nói là các đồng chí làm sai. Nhưng Cách Mạng xử sự bất cứ việc gì cũng phải có lý, có tình. Cô không thấy là Hồng Phát đã chứng tỏ thiện chí cung hiến nhà in ngay từ phút đầu Cách mạng vào thành à?

– Thưa ông, đấy đâu có phải là một biệt lệ. Tất cả mọi thương gia thuộc mọi ngành đều sẵn sàng cung hiến cơ sở của họ ngay sau ngày 30 tháng tư.

– Sự kiện thì đúng, nhưng động cơ thì khác nhau. Có kẻ cung hiến vì sợ sệt, vì đã tẩu tán tài sản chỉ còn để lại một cái cơ sở rỗng không, có kẻ thì cung hiến vì... vì thiện chí, vì muốn đóng góp với Cách Mạng. Thế cho nên, không thể phân đoạn sự kiện theo kiểu chung chung, cá mè một lứa được.

Nguyệt lặng người đi một giây. lát sau nàng mới nói:

– Cái đó là tùy ở trên định đoạt. Ở dưới Cơ Sở chung em chỉ làm nhiệm vụ tổng kết, đánh giá và nêu ý kiến thôi.

– Nhân danh Đảng Ủy, tôi rất cám ơn các đồng chí đã hăng say và hoàn tất nhiệm vụ một cách xuất sắc. Tuy nhiên, kết luận tối hậu thế nào, tôi sẽ cho biết sau.

Rồi ông đổi giọng:

– Thôi. Bây giờ công tác xong rồi. Cô Nguyệt uống nước cam đi kẻo đá nó tan ra hết. Ngoài ra, tôi muốn hỏi riêng cô về môi trường cô đang làm việc. Cô thấy thể nào, có thoải mái không, có căng lắm không.

Nguyệt đáp:

– Dạ, cũng thường thường. Lúc đầu thì có căng, nhưng sau cũng quen đi.

– Nguyệt ạ, tôi đã nghiên cứu kỹ quá trình làm việc của em rồi. Tôi thấy em có nhiều khả năng, nhiều sáng kiến, lại có trình độ nhận thức rất cao. Một cán bộ như thế mà chỉ đặt ở một cơ sở ấn loát thì không đủ môi trường hoạt động để thi thố hết tài năng. Em có ý định rời chỗ ấy để làm việc ở một nơi khác cao hơn không?

– Thưa Ông, đã phục vụ thì ở đâu cũng thế. Ông Sáu kêu lên:

– Thế sao được! Mỗi người một hoàn cảnh, một địa vị, một chức năng làm việc khác nhau chứ. Tôi, sau vụ cải tạo này chắc sẽ về Bộ. Tôi đề nghị lấy Nguyệt về, em có chịu không?

Nguyệt đáp ngay:

– Thưa Ông, Thanh Niên là môi trường sinh hoạt dễ thích hợp với em hơn.

– Đành là thế, nhưng không lẽ cứ chết rí ở cái nhà in tùm hụp đó. Em theo tôi đi, mình sẽ có tương lai hơn nhiều.

Vừa nói, Ông vừa thò tay ra nắm lấy bàn tay có những ngón búp măng thuôn dài và trắng muốt của Nguyệt. Nàng hoảng hốt như tay mình vừa đụng phải làn da nhão nhoẹt của một con rắn. Nàng vội vã đứng phắt dậy, cố tình không nhìn vào mặt ông để tránh khỏi phải chứng kiến cái vẻ ngỡ ngàng, tiu nghỉu mà dù chỉ tưởng tượng thoáng qua, nàng cũng thấy mình bị lợm giọng. Nàng bước nhanh ra ngoài cửa và nói:

– Thôi chào ông, tôi về.

Không để cho ông ta kịp chạy theo đưa tiễn hay nói năng vớt vát lại điều gì, nàng đi vội xuống sân nhỏ và bước như chạy ra khỏi cổng. Anh bảo vệ đang ngồi hút thuốc trên một chiếc ghế gỗ kê ở gần hàng rào, thấy Nguyệt chạy qua, vội đứng dậy. Anh ta chưa kịp có ý định về mình sẽ phải làm gì thì ở trên hành lang đã có tiếng tác xác của Sáu Thu:

– Thằng Bẩy đâu! Bảo vệ mà trốn mất mặt mất mũi thì còn bảo vệ cái nỗi gì nữa.

Anh công an hốt hoảng nhảy bổ ra chỗ có ánh sáng, định cất giọng phân trần thì Sáu Thu đã quay ngoắt trở vào. Dưới ánh mắt đầy vẻ sợ hãi của anh, anh chỉ còn kịp nhìn thấy ông Sáu Thu trong chiếc áo kimono màu đỏ chói đi thẳng vào phòng trong và có tiếng cánh cửa đóng sập thật mạnh. Cổ họng của anh như nghẹt lại. Anh có cảm giác như mình vừa vi phạm phải một tội lỗi tày trời, dù anh chẳng biết là tội lỗi gì, nhưng chắc chắn là «nó» không thể được tha thứ. Chả biết ngày xưa, bọn phong kiến bóc lột đối xử với lũ nô lệ, tôi tớ thế nào, nhưng bây giờ ở đây, anh bảo vệ chỉ thấy đồng chí Sáu Thu là một cái gì cao vòi vọi mà suốt đời anh không thể với tới, suốt đời anh phải tận tâm phục vụ.

* * *

Nguyệt gặp lại ông Năm Tỏa ở căn phòng hội họp trong nhà in. Nàng dấu diếm những điều mà Sáu Thu vừa đề nghị với nàng, và chỉ nói:

- Có lẽ trên sẽ duyệt lại những biện pháp đề nghị của mình. Trường hợp của ông Hồng Phát có lẽ «nhẹ».

Ông Năm Tỏa cũng không dấu được sự ngạc nhiên của mình:

– Cô nói sao? Đồng chí Sáu Thu cho rằng đó là một trường hợp «nhẹ» à?

Nguyệt tần ngần:

– Có lẽ vậy! Cháu chỉ nghe ông ấy nói như thế.

Ông Năm Tỏa hít một hơi dài vào lồng ngực như để trấn an những tư tưởng gay go vừa thoáng hiện trong đầu của mình. Rồi ông ta lặng lẽ bước tới bước lui trong căn phòng chật hẹp, mỗi bề không tới bốn thước mà không nói năng thêm câu nào cả. Tôn trọng sự suy nghĩ của ông, Nguyệt khép nép ngồi xuống mở chồng hồ sơ cao ngất nghểu để trên mặt bàn. Nàng lật qua vài trang của tập tài liệu trên cùng mà thật ra nàng chẳng tiếp thu được một chữ nào trong đó cả. Đầu óc nàng cũng đang làm việc dữ dội. Nàng đoán chắc ông Hồng Phát đã lén lút tung tiền ra mua đứt Sáu Thu. Cái gì chớ nghệ thuật lo lót của ông phải kể là siêu đẳng. Ngày xưa, lo lót là một mánh khỏe cần thiết trong nghề nghiệp. Nó công khai nhưng khó, vì cần phải đánh giá đúng mức độ mà đối tượng có thể đòi hỏi. Nhiều khi là một khối vàng khổng lồ hay là cả một va li bạc. Bây giờ, nó quá dễ vì có thể mua cán bộ cách mạng với một giá rẻ rề. Nguyệt không thể biết được ông Hồng Phát đã mua được ông Sáu Thu bằng giá bao nhiêu, nhưng sự thể diễn ra cho nàng kết luận một cách chắc nịch rằng ông Hồng Phát đã thi hành thủ đoạn một cách chót lọt. Hèn chi mà hồi này ông ta không còn giữ vẻ mặt của một con mèo bị bẹp tai như trước nữa. Ông ta đã bắt đầu đi lên, đi xuống quanh trong phạm vi của nhà in như một khách nhàn tản thăm viếng một cơ sở đang hoạt động. Đôi khi ông còn đứng lại bông đùa với một vài tay đàn em thân tín cũ. Ông đang có vẻ lấy lại sự thăng bằng của một kẻ thất thế vừa ngã xuống bùn đen. Bây giờ, Nguyệt mới thám thía câu nói trong một tài liệu học tập:

Bọn bóc lột tuy đã bị đánh đổ nhưng chúng vẫn còn sức mạnh. Sức mạnh đó là ở chỗ chúng còn có tài sản, còn có mối liên hệ với nền sản xuất nhỏ, chưa được cải tạo, còn ở những tập quán xấu của xã hội cũ chưa bị quét sạch, như móc ngoặc, tham nhũng, hối lộ, hủ hóa cán bộ. Nói chung, chúng vẫn còn nhiều khả năng để không từ bỏ ý đồ khôi phục lại «thiên đường» mà chúng vừa bị mất.

Một lát sau, ông Năm Tỏa trở lại bàn ngồi. Ông lại dùng cái bật lửa cũ kỹ của mình để châm cho điếu thuốc nhầu nát cuối cùng, không có vỏ bao, nằm sâu kẹt trong túi áo trên của ông. Tuy ông không nói, nhưng Nguyệt cũng đã mường tượng ra cơn thất vọng, cay đắng đang đổ vỡ trong lòng ông. Nàng nhớ đến lời ông than thở khi trước:

– Cả một đời tôi đi làm Cách Mạng, đâu phải để thể hiện một cái xã hội như thế này.

Nhưng có lẽ, lần này là lần ông thấm thía nhất về chính câu nói đó của ông. Người ông nom bạc nhược hẳn ra. Trong ánh sáng lợn cợn nhấp nháy của ngọn đèn nê-ông không đủ điện để được thắp sáng đúng mức, nước da của ông đã xám trông càng thêm xám ngoét. Ông ngồi thừ ra như thế rất lâu, rồi bỗng ông lên tiếng:

– Thôi Nguyệt a, đừng loay hoay làm gì cho mất công. Cái đời chó đẻ này, ở đâu cũng thế. Lý thuyết một đằng, thực hành lại đi một đằng khác. Như tôi, đấu tranh gần cả một đời người, gian nan nào cũng vượt, khó khăn nào cũng qua, ấy thế mà, lúc cầm được vinh quang trong tay lại là lúc chao đảo niềm tin một cách não nề nhất. Chẳng phải chỉ có một mình Sáu Thu đâu, chúng nó mất phẩm chất la liệt. Trước thì còn nghĩ được rằng đó chỉ là hiện tượng, nhưng rồi không thể chối cãi được rằng hiện tượng đó đã trở thành bản chất mất rồi