← Quay lại trang sách

CHƯƠNG IV

Cuộc kiểm kê diễn ra trong thành phố Sài Gòn vào đúng ngày Nguyệt đã được biết trước. Hôm ấy, mọi sinh hoạt thường nhật gần như hoàn toàn tê liệt. Thành phố mất đi vẻ ồn áo náo nhiệt nhưng lại bao trùm một bầu không khí u uất, nặng nề, nhuốm vẻ nghiêm trọng. Tin đồn thổi chạy từ khu này qua khu khác mỗi lúc một nhiều và nhanh như điện sẹt. Người ta nói chỗ này có kẻ nhẩy lầu tự tử, chỗ kia có kẻ điên khùng, mất trí. Có cả tin đã có những cuộc phản kháng tích cực, như người này thì thủ sẵn lựu đạn để cho nổ banh xác luôn cả kẻ bị kiểm kê lẫn kẻ đi kiểm kê, người khác thì hoảng loạn mang dao, mang búa ra rượt chém cán bộ. Tuy nhiên, tất cả chỉ là tin đồn mà không ai có điều kiện để kiểm chứng. Báo chí sau ngày 30 tháng tư đã mất đi hoàn toàn chức năng thông tin của nó ngoại trừ việc thông tin về những qui chế, luật lệ hay nghị quyết của nhà nước. Mà việc này lại có vẻ hơi thừa, vì nếu không có báo chí, thì các cơ quan thông tin văn hóa phường quận cũng đã sẵn sàng bắc loa vào khắp các hang cùng ngõ hẻm để phổ biến, giải thích hướng dẫn tận tình cho toàn thể bà con, đồng bào rồi.

Một số trường hợp xẩy ra hết sức cụ thể và đồng loạt ở nhiều nơi, khiến nhiều người cùng nói tới thì không còn thuộc loại tin đồn nữa.

Như thể đúng 0 giờ ngày khởi sự kiểm kê, nhiều xe bít bùng đã đi hốt trọn một số (không thể kiểm chứng được là bao nhiêu) những gia đình được Cách mạng đánh giá là có nợ máu với nhân dân. Họ là những người, trước đây được xếp vào loại thành phần tư sản dân tộc và được trấn an là không có vấn đề gì phải lo âu thắc mắc. Đó là giai đoạn Cách mạng còn đang bận tay đối phó với những loại được gọi là Tư Sản Mại Bản. Nay thì Tư Sản Mại Bản đã dẹp xong, Cách mạng chĩa mũi dùi vào đám đông mà lời trấn an họ đưa ra chưa được ráo mép. Người Sài Gòn nhìn thấy ngay số phận của mình mà chẳng cần chờ có kẻ cầm dao kề cổ khi tới lượt. Sau Tư Sản Dân Tộc hẳn sẽ tới giới tiểu thương. Sau giới tiểu thương sẽ tới giới buôn thúng bán mẹt. Nhiều người từ Hà nội vào đã chẳng nói rằng ngay giới buôn thúng bán mẹt cũng đã bị kiềm chế chặt chẽ đó sao. Như thể đăng ký bán chè thì chỉ được bán chè, bán xôi thì chỉ được bán xôi. Nếu bán cả xôi lẫn chè thì lại phải có quy chế riêng, xem sự kinh doanh đến mức độ nào.

Nhà nước cộng sản rất sợ «chế độ tư hữu sẵn sàng ngóc đầu dậy» thông qua những hoạt động buôn bán cá thể. Vì thế. họ đã chèn ép toàn dân miền Bắc trong bao nhiêu năm đến độ không còn mầm mống để giới tiểu thương có thể nẩy nở. Trên phương diện lý thuyết, thì mục đích của những cuộc chèn ép này nhằm thiết lập chế độ công hữu về tư liệu sản xuất. Nó được vẽ ra một tương lai mà ở đó lợi ích cá nhân và gia đình gắn liền với lợi ích xã hội. Nếu cá nhân và gia đình đóng góp công lao của mình vào xã hội, thì ngược lại xã hội mà đại diện là nhà nước phải chăm lo hạnh phúc của mỗi cá nhân, mỗi gia đình, bảo đảm quyền lợi và nâng cao đời sống của mỗi người mỗi ngày một tốt đẹp hơn.

Hơn ba mươi năm xây dựng Xã Hội Chủ Nghĩa ở miền Bắc, đã quá đủ thời gian để cho người ta thấy cái lý thuyết ở trên chỉ là một cái bánh vẽ! Chưa bao giờ đời sống dân chúng lại có thể bần cùng đến như thế. Người già thiếu thốn cơ cực, trẻ em thất học, thiếu dinh dưỡng, người khỏe mạnh thì hết cuộc thi đua này đến chiến dịch khác khai thác sức lao động của họ cho đến lúc sức cùng, lực kiệt. Tuyệt đại đa số quần chúng, lớp người được tôn lên là kẻ làm chủ tập thể Xã Hội Chủ Nghĩa mặc nhiên trở thành nạn nhân của một giai cấp bóc lột mới: giai cấp của những kẻ nắm trọn trong tay mọi phương tiện của bạo lực. Vì nắm trọn bạo lực trong tay, nên bọn quyền lực trong chế độ mới đã là những kẻ thực sự làm chủ các công cụ sản xuất, làm chủ việc phân phối sản phẩm. Bọn này giành lấy phần thơm tho nhất trong của cải của Xã Hội, trong khi nhân dân được gì trong số thành quả lao động do chính mình làm ra? Một ít gạo. Một rúm đường. Quanh năm không biết mùi vị của miếng thịt. Có những làng đánh cá ở ven biển, dân chúng suốt đời chỉ ăn muối! Miền Bắc, dưới ánh sáng của Chủ Nghĩa Xã Hội, đã trở nên điêu tàn, con người sinh sống trong những điều kiện dưới cả những điều kiện tối thiểu để làm người, kể cả tinh thần lẫn vật chất.

Sau cuộc kiểm kê, nhà in Hồng Phát được đổi tên thành Cơ Sở Ấn Loát Số 10. Không ai buồn thắc mắc là tại sao lại số 10. Hầu hết đã có được thói quen là ở trên đưa xuống cái gì thì tuân theo cái đó. Những ý nghĩ hồ hởi phấn khởi, những ảo tưởng rằng kể từ khi «Mỹ cút, Ngụy nhào» thì công nhân sẽ làm chủ tập thể xí nghiệp của mình, đã tan xèo sau một vài kinh nghiệm kiểm chứng. Ông Hồng Phát, sau cuộc kiểm kê, đã thoát được biện pháp cải tạo. Ông lại còn được phối trí để làm việc lại trong khâu kiểm phẩm. Ông ba hoa với mấy đứa đàn em thân tín:

– Cách mạng nó sáng suốt lắm mà. Ngộ lương thiện, ngộ đâu có sợ!

Nhưng nói vậy thì nói, ông vẫn cảm thấy lợn cợn mỗi khi đụng phải cái nhìn đăm chiêu, lầm lì của ông Năm Tỏa. Vẻ mặt của ông càng lầm lì đối với ông Hồng Phát hơn nữa sau vụ cái tủ lạnh xẩy ra trước đó một tuần. Nguyên hôm đó vào buổi ăn trưa, lúc mở cái lon guigoz của mình ra, ông Năm Tỏa phát giác thức ăn của mình lên mùi thiu dữ dội vì bữa đó, ông được vợ làm cho một khoanh cá. Cá lãnh ở hợp tác xã về đã ươn thối, bà lại bận công chuyện để mãi đến chiều mới đem ra làm. Nó bốc mùi um lên. Bỏ thương, vương tội, nhưng lâu lâu mới có chút vị đậm đà, bà đem om mặn lên rồi trút vào lon của chồng để hôm sau làm bữa trưa. Mùi cá lợm giọng đồn ra làm cả nhà in ai cũng biết. Ông Hồng Phát chớp ngay lấy cơ hội ấy để mua chuộc người cán bộ già. Ông ta xuất tiền mua một cái tủ lạnh mới, đem chở thẳng về nhà ông Năm Tỏa lúc ông còn đang ở sở làm. Bà Năm Tỏa là một người quê mùa, trông thấy cái tủ lạnh mới cắt chỉ được khuân vào cứ ngạc nhiên há hốc miệng ra nhìn. Cả một đời bà, chưa bao giờ bà dám mơ ước có một đồ dùng quí giá như thế. Hỏi ra, bà được mấy anh công nhân nhà in lãnh việc chuyên chở, trả lời:

– Cái này của ông Năm. Bà Năm cứ xài, đừng băn khoăn, thắc mắc gì hết.

Rồi họ tận tình ráp nối đường dây, chỉ dẫn bà Năm cách xài, chỗ này làm đá cục, chỗ kia để rau, để thịt, để nước ngọt, la de. Họ cứ làm như bà Năm lúc nào cũng sẵn sàng có tất cả những thứ ấy để dự trữ. Khi đám công nhân ra về, bà Năm hồn nhiên chạy đi khoe bà con lối xóm để kéo mọi người qua trầm trồ, ngắm nghía cái vật dụng mà nhà ai cũng ước mơ.

Nhưng đến lúc ông Năm trở về thì có một cuộc cãi vã dữ đội xẩy ra. Mọi người nghe thấy ông Năm to tiếng:

– Ai cho bà nhận! Bà đã hỏi tôi chưa mà bà cho phép chúng nó khuân vào.

Tiếng bà Năm lí nhí:

– Thì người ta nói đó là của ông thì tôi mới nhận chứ.

– Của nào là của tôi! Bà không biết đồng lương của tôi thế nào sao mà nghĩ rằng tôi có thể mua được cái đồ mắc tiền đó.

– Vậy sao người ta chở tới?

– Chúng nó chở tới là chúng nó muốn mua chuộc tội. Bà muốn tôi sống đường hoàng lương thiện hay là móc ngoặc với bọn bóc lột để bôi đen con người của mình.

Bà Năm bùi ngùi, giọng pha một đôi chút tiếc rẻ:

– Ông không nhận thì gọi họ đến mà trả. Nhưng có cái tủ này chứa đồ ăn thì cũng tốt lắm đó.

– Muốn tốt thì để dành tiền mà mua. Cả đời, không bao giờ tôi nhận hối lộ của ai hết.

Nói xong câu đó, ông Năm biết mình nói chỉ để mà nói. Làm sao cả đời ông lại có thể dành dụm mà mua được tới một cái tủ lạnh. Nó là thứ vật dụng đi ra ngoài ước mơ của tất cả những con người cán bộ như ông, trừ khi làm việc phi pháp. Nhìn bà năm lủi thủi đi vào buồng trong, ông bỗng mủi lòng, và cảm thấy tràn ngập thương xót. Ông đứng sững ở giữa nhà, hai môi của ông mím chặt lại, hai cánh mũi phập phồng, mắt ông long lanh, cay sè như muốn khóc. Nhưng phút yếu lòng đó trôi qua rất nhanh. Ông trở lại con người phản ứng lanh lẹ thường ngày. Ông tức tốc đạp xe quay trở lại nhà in và nói với Nguyệt:

– Cô bảo thằng Hồng Phát đến nhà tôi chở cái tủ lạnh về. Nó đánh giá tôi quá thấp.

Sau lần đó, ông Hồng Phát lúc nào gặp ông Năm Tỏa cũng len lét như rắn mồng năm. Trước mặt thì sợ đấy, nhưng sau lưng, ông Hồng Phát vẫn thì thào với đàn em:

– Để coi ai thắng ai trong cái cơ sở này. Ngộ sẽ cho nó đi cái một.

Ông Hồng Phát không phải là kẻ chỉ nói chơi. Trong vòng hai tuần lễ sau đó, ông Năm Tỏa nhận được giấy thuyên chuyển công tác. Ông ra đi lầm lũi không chào ai. Ông chỉ nói riêng với Nguyệt:

– Cháu cẩn thận giữ mình, nghe cháu. Thời buổi này chưa phải là thời cháu thi thố được cái gì đâu.

*

Những chuyện xẩy ra ở nhà in như thế, bao giờ Nguyệt cũng báo cáo lại cho Vũ biết. Sau cuộc kiểm kê đánh tư sản, Vũ gầy sọp hẳn đi. Chàng có vẻ đăm chiêu nhiều hơn so với thời gian trước, lúc nào Vũ cũng nhanh nhẹn, hoạt bát và trên môi luôn luôn có nụ cười tươi tắn. Chàng trấn an Nguyệt, nhưng cũng là để trấn an mình:

– Thật ra, những vụ cán bộ mất phẩm chất không phả chỉ vài trường hợp cá biệt. Em có biết trong khám Chí Hòa hiện nay có bao nhiêu đồng chí ta bị giam cầm vì hủ hóa không?

Chờ cho Nguyệt biểu lộ vẻ bất lực trong việc suy đoán về câu trả lời, Vũ mới giằn giọng nói:

– Ba chục nghìn! Em nghe rõ chưa, ba chục nghìn! Thật là con số không thể tưởng tượng nổi và cũng vô cùng đau xót. Những đồng chí ấy trước đây không gục ngã trong gian lao, cực khổ vì chiến tranh, vậy mà đã ngã thảm thê trong tiện nghi vật chất của Sài Gòn. Tuy nhiên, không phải vì thế mà ta không kiên trì. Ta đã có thành quả chiến thắng «một ngày bằng hai mươi năm» thì ta không thể vì thiếu cảnh giác, thiếu tinh thần triệt để mà làm tiêu vong cái thành quả vĩ đại đó.

Vũ cứ nhắc đi nhắc lại mãi về những thành công mà Cách mạng đã đạt được. Chàng làm như thể, khi đã có những cái ấy trong tay rồi thì mọi nhược điểm, yếu kém đang xảy ra ở chung quanh đều có thể chấp nhận được. Cái lý luận rằng đó chỉ là hiện tượng chứ không phải bản chất đã giúp chàng một chỗ ẩn náu an toàn mỗi khi chàng bị những mũi dùi thực tế xuyên thấu vào tâm can mạnh đến nỗi, chính chàng cũng có lúc hoang mang, chao đảo. Tình trạng hoang mang chao đảo này không chỉ riêng ở chàng mà đã có cơ hội trở thành phổ biến. Nhiều cán bộ khi mới vào thành, có lời nói lớn lối, có niềm tin hăng say, nồng nhiệt, thì bây giờ, nhiều người đã trầm tĩnh xuống hơn, đôi mắt mang nhiều tâm trạng u uẩn hơn, sự nói năng cũng theo đà đó chậm lại, dè dặt hơn. Nhiều người bây giờ công khai rượu chè be bét và đã bắt đầu nói đổng. Nhiều người lén lút, sợ hãi khi phải đối diện với người thân thích ruột thịt và bị cật vấn về đủ mọi vấn đề: Cách mạng về rồi, sao đời sống ngày cứ càng thấp kém đi, Cách Mạng chủ trương xóa bỏ giai cấp bóc lột sao đời sống lại cứ ngày một thêm những kẻ giàu có hưởng thụ, với nếp sống xa hoa, chả kém gì sự xa hoa trước đó đã từng bị lên án là phồn vinh giả tạo. Rồi vấn đề kinh tế mới, vấn đề kiểm kê, vấn đề công chức, quân nhân đi cải tạo vô thời hạn mà trong số đó có vô số những người có liên hệ ruột thịt với các tầng lớp cán bộ.

Phút hăng say, cuồng nhiệt với những điều mới mẻ qua đi như một cơn gió thoảng để lại một thực tế xã hội hết sức bầy nhầy rối rắm. Người dân lao động, sau một cơn mơ những tưởng thời của mình đã tới, nay càng thất vọng hơn. Vì không có gì để mất, những người này đã là những kẻ tiền phong, công khai chỉ trích chế độ, thông qua hàng ngũ cán bộ mà họ có cơ hội tiếp xúc. Cán bộ trở thành những mục tiêu để mọi người đàm tiếu.

Trong hoàn cảnh đó, mỗi người cán bộ có một cung cách phản ứng khác nhau. Lì lợm có mà lẩn tránh cũng có. Có người bỏ cuộc trở về với đời sống âm thầm. Có kẻ bấu víu để cố vớt vát lại công lao nhờ đôi chút hào quang mà mình đã có. Vũ có thể thuộc loại tâm trạng này. Chàng không ngừng níu lấy cái thành quả vĩ đại để biện minh cho chặng đường tiếp tục của chàng, mặc dù chàng biết, nó chẳng hứa hẹn tới đâu, nhưng ít nhất cũng giúp cho chàng còn địa vị, còn quyền hạn, trong một số lãnh vực nào đó. Trên căn bản chàng đã hành động không giống như ông Năm Tỏa.

Đó là lý do sau này, mỗi khi gặp Nguyệt, Vũ vẫn còn giữ được cái vẻ sôi nổi của mình. Một lần, chàng hối hả đến gặp Nguyệt và nói:

– Nói để cho em mừng. Bên cạnh những kẻ thiếu đạo đức cách mạng, mất phẩm chất, hủ hóa như thế, ta vẫn còn những đồng chí có trình độ giác ngộ rất đáng đề cao. Kỳ này, Thành Đoàn sẽ phát động những chiến dịch học tập về những người tốt, việc tốt, lấy trường hợp của Huỳnh Quang Huy làm trường hợp điển hình để phát động sâu rộng về phía quân chúng.

Huỳnh Quang Huy là con một chủ tiệm vàng giàu kếch sù ở đường Khổng Tử, Chợ Lớn. Lúc Cách mạng vào thành phố, Huy mới chỉ là một học sinh lớp mười.

Anh ta tham gia ngay công tác đoàn thể và sau một thời gian tích cực, đã được kết nạp Đoàn. Trong thời kỳ vận động các thành phần tư sản khai báo của cải, tài sản, Huy đã cố thuyết phục ba, má của mình đem toàn bộ tài sản ra cung hiến. Nhưng ba má của Huy bề ngoài thì giả bộ thành khẩn khai báo tích cực, nhưng bên trong đã chôn cất hai trăm lạng vàng ở một chỗ bí mật trong nhà. Huỳnh Quang Huy biết được sự kiện này. Trong chiến dịch kiểm kê, đích thân Huy đứng ra tố cáo chỗ cha mẹ mình cất giấu vàng bạc. Nhờ hành động này, chiến dịch kiểm kê đã thu hồi lại toàn bộ tài sản mà cha mẹ Huy tẩu tán. Thành Đoàn đánh giá rất cao «trình độ giác ngộ Cách mạng» của Huy. Bên Thành ủy cũng gửi văn thư sang ngợi khen nhiệt liệt. Đó là cơ hội để các đoàn viên thanh niên được đem trường hợp của Huy ra học tập. Một chiến dịch rầm rộ sau đó đã được mở ra. Huy được mời lên Quận, lên Thành phát biểu và nói lên tình cảm của mình đối với những công tác cách mạng.

Báo chí, truyền thanh, truyền hình cũng phổ biến rầm rộ hình ảnh, tác phong, đạo đức cách mạng của một thanh niên trẻ đã «vươn lên từ hoàn cảnh bùn nhơ của một gia đình tư sản bóc lột để phấn đấu trở thành con người mới Xã Hội Chủ Nghĩa.»

Khi trở về sinh hoạt ở Cơ Sở số 10, Nguyệt đã chuẩn bị công phu đợt học tập này cho toàn thể các công nhân, cả bên Chi đoàn lẫn Công đoàn cơ sở. Những khẩu hiệu, những bích chương, những câu ca dao lục bát đề cao «con người mới Xã Hội Chủ Nghĩa» được dán la liệt ở tất cả mọi chỗ trống có thể dán được trong nhà in. Nguyệt cũng mở lại những đống tài liệu học tập để nhuần nhuyễn thêm về cái gọi là mẫu người mới Xã Hội Chủ Nghĩa được hoạch định theo những lý luận kinh điển. Vào những đêm chong đèn thao thức sửa soạn chiến dịch, có lúc Nguyệt chợt phát giác ra rằng nàng đổ công vào đợt học tập này không phải chủ yếu là nhắm tới những đối tượng thanh niên, đang làm việc ở đây, mà thực sự là cho chính mình. Tiềm thức đã thúc đẩy nàng đi tìm một sự trấn an cho những tư tưởng đang mơ hồ, manh nha chao đảo của mình. Niềm tin của nàng về một vận hội mới, ở đó, «mọi con người đều có cơ hội chung vai góp sức xây dựng lại quê hương đã vô cùng điêu tàn», đang bị những thực tiễn trước mắt làm cho sứt mẻ. Đó là hình ảnh diêm dúa, tác phong hưởng thụ, quan liêu, cửa quyền của những người cán bộ cỡ lớn như Sáu Thu.

Đó là sự đi ra, đi vào, bắt đầu vênh váo và có thái độ mục hạ vô nhân của ông Hồng Phát. Rồi hoàn cảnh của những sĩ quan chế độ cũ được hứa hẹn đi học tập

30 ngày nhưng sau đó là đi biền biệt. Rồi sự thuyên chuyển nhanh chóng, bất ngờ của ông Năm Tỏa. Nhất là lời của ông dặn dò lại với Nguyệt: «Thời buổi này, chưa phải là thời cháu có thể thi thố được cái gì đâu». Tất cả những cơn sóng tấn công vũ bão vào niềm tin của nàng. Nguyệt muốn níu lấy lòng kiên trì của Vũ để làm chỗ bấu víu cho lập trường hoạt động của nàng. Nàng rất cần một vỏ bọc vững chắc để hứng chịu vô số những mũi dùi đã và đang còn chĩa vào công việc mà nàng đang theo đuổi. Ở gia đình, mẹ nàng chì chiết bất cứ lúc nào hai người có dịp đối diện nhau. Lý do dễ hiểu vì bà đã mất gần trọn vẹn số vốn đã đầu tư cho sập vải. Dù Nguyệt đã báo động trước, và dù bà đã tự nói ra rằng: «Con mẹ mày! Có bao giờ tao trách mày ở đâu», nhưng trước sự mất mát quá lớn lao, lại cảm thấy con gái đánh đu với những thành phần cách mạng, mà bà ghét cay ghét đắng, bà không thể không có thái độ truy kích con gái mình được. Sau nhiều lần cãi vã tổn thương trầm trọng đến tình mẹ con, Nguyệt manh nha ý định thoát ly gia đình.

Trong khi đó, ở Sở làm, thái độ khang khác của nhiều thanh thiếu nữ, ngay cả những kẻ đã được kết nạp Đoàn, đã gieo vào lòng nàng một cảm giác mơ hồ, bất ổn. Thật ra, chưa có ai ở đây trực diện đối nghịch với nàng (trừ lần Toàn nói độp vào mặt nàng rằng: Tôi không phải là kẻ phản bội). Nhưng sự thông minh, nhạy bén cho nàng thấy đang có chuyển hướng về sự suy nghĩ của thành phần thanh niên ở trong nhà in mà nàng vẫn đánh giá là ưu tú. Họ như những kẻ đang khao khát một lý tưởng phù hợp với tâm hồn trong sáng và nhiệt huyết của thanh niên, tìm đến cách mạng như tìm thấy một cái phao, nhưng lúc túm lấy được phao rồi thì thực tế, nó chỉ là một đám bọt giữa dòng. Nhưng cũng phải kể rằng đã có những thành phần thực sự «ba mươi». Đây là loại nói năng bẻo lẻo nhưng mang một tâm trạng phản trắc, đòn sóc hai đầu. Bọn họ tuy đã giúp Nguyệt trong một số công tác, nhưng thâm tâm, Nguyệt rất khinh bỉ. Họ tố cáo với Cách mạng về người này, người kia, nhưng sau lưng khi có dịp, họ cũng chửi bới Cách mạng không hết lời. Đấy là bọn cơ hội chủ nghĩa, không hơn không kém. Không đáng để Nguyệt phải bận tâm. Nhưng cũng có nhiều tâm trạng thanh niên mà Nguyệt không thể không suy nghĩ tới. Như Thanh là một trường hợp điển hình. Trước năm 75, gia đình Thanh thuộc loại nghèo. Ba của Thanh là một Thiếu Úy già, loại sĩ quan leo mòn mỏi cả một đời người mới được từ cấp binh sĩ lên hàng ngũ sĩ quan. Ông ta cũng bị đi học tập cải tạo như những người khác. Thanh tin tưởng ở lời hứa hẹn của nhà nước:

– Sĩ quan chỉ phải học tập có ba mươi ngày.

Lúc ra đi, ông mang theo vỏn vẹn có một nắm cơm và một lọ thịt bông mặn. Ông từ chối cả chiếc áo len mà mẹ Thanh cứ nhất mực nhét vào cái túi xách nhẹ tênh. Ông nói:

– Bà làm như tôi bị phát vãng không bằng. Ba mươi ngày nhấp nháy là tôi trở về, đâu cần gì tới áo len.

Bây giờ, trong cái lạnh lẽo của núi rừng, và những cơn đói rét, bệnh tật, hẳn ông đang hối tiếc vì đã không để cho vợ mình xếp vào túi một cái áo len. Thanh lao vào công tác đoàn thể với một ước mơ làm đổi mới xã hội. Anh ta hoàn toàn bị chinh phục vì những lý luận của cán bộ đoàn thể ở những ngày khởi đầu:

Sài gòn quả có hoa lệ thật, nhưng bao nhiêu người được hưởng những tiện nghi hoa lệ đó. Bên cạnh những building bảy tám từng thì vẫn có những nhà cửa chui rúc như ổ chuột, ở những xóm lao động nghèo. Trong khi bọn lãnh đạo, bọn có quyền thế, bọn làm giàu trên xương máu của nhân dân hưởng thụ phè phỡn thì vẫn có những thiếu nữ, phụ nữ, phải bán mình đi để nuôi sống gia đình, trong đó có cả thành phần gia đình của lính, những con người bị thiệt thòi nhất của xã hội cũ.

Rồi cách mạng vẽ ra đủ thứ hình ảnh đẹp làm chóa mắt tâm hồn người thanh niên trẻ:

– Khác với tất cả các chế độ trước kia trong lịch sử, chế độ Xã Hội Chủ Nghĩa nhằm mục đích chăm lo đến mỗi gia đình, xây dựng các gia đình ấm no, hạnh phúc chính là để mỗi gia đình có thể góp sức nhiều hơn trong việc xây dựng xã hội mới. Mỗi người không chỉ chăm lo đến đời sống hạnh phúc gia đình mình mà còn phải chăm lo đến hết thấy mọi người trong xã hội. Vì thế, chế độ mới xây dựng con người Xã Hội Chủ Nghĩa theo tiêu chuẩn: «Mỗi người vì mọi người, mọi người vì mỗi người».

Thanh sớm «giác ngộ» được sự thực trong chiêu bài bánh vẽ này, qua một số thân nhân ở miền Bắc vào Nam thăm viếng:

– Đừng tin những gì chúng nó nói, cháu ơi. Xã Hội miền Bắc sau gần 30 năm tiến hành xây dựng Xã Hội Chủ Nghĩa, đời sống vật chất ngày càng nghèo đi, mà đời sống tinh thần cũng theo đó mà suy sụp theo nữa. Con người không còn tâm trí nào khác hơn là lo toan đến những nhu cầu vật chất tối thiểu. Như một đàn cừu dưới lằn roi vọt, con thì được chia nhiều cỏ hơn, con thì được ít hơn. Nhưng chung qui vẫn chỉ là những con cừu thụ động đi theo sự hướng dẫn của Đảng và nhà nước. Đó là đỉnh cao trí tuệ của văn minh loài người.

Thanh thực sự choáng váng trước hình ảnh đàn cừu khốn khổ đã được vẽ ra. Hình ảnh này lại càng sinh động hơn nữa khi chính mắt Thanh được nhìn thấy những con người từ miền Bắc đi ra, đi vô chen chúc nhau trên đường phố Sài gòn, ở những bến xe, trên những toa tàu, trong các cơ quan xí nghiệp. Họ nghèo túng rõ rệt. Họ mất bản sắc rõ rệt. Ở giữa đám đông, không ai dám biểu lộ ý kiến riêng tư của mình, nhất là trong lãnh vực chính trị. Họ đã được đào tạo trở thành thói quen như những cái máy. Từ lời nói, cử chỉ, cung cách bầy tỏ thái độ cho đến quần áo, ăn mặc tất cả đều giống nhau như được rập ra từ một khuôn, được sản xuất ra từ một lò. Phút nói thật chỉ diễn ra trong phạm vi gia đình, thân thích ruột thịt, và trước khi nói, dù chung quanh chẳng có ai xa lạ, họ cũng sớn sác nhìn quanh như bị ám ảnh bởi một bóng ma quyền lực vô hình. Chế độ cộng sản bạo ngược tinh thần con người tàn bạo nhất ở chỗ nó có tính cách đều khắp, không một ai có thể thoát khỏi, và triền miên vì nó kéo dài cho cả một đời người.

Thanh bị giao động một thời gian thì tìm ra con đường giải thoát cho mình: phải tìm cách ra đi. Trong khi chờ đợi cơ hội thuận tiện, anh ta sinh hoạt một cách bình thường. Công tác nào được giao cho thì làm, nhưng không còn tinh thần xung phong hăng hái như trước nữa. Nguyệt rất tinh ý, nên chỉ cần nhìn thoáng qua vẻ mặt của Thanh là nàng đã linh cảm thấy có sự thay đổi bất thường trong tư tưởng của anh ta. Nàng sợ hãi với ý nghĩ tới bao giờ thì sẽ đến lượt nàng. Nhất là trong sinh hoạt học tập, nàng (cũng như toàn thể Thành đoàn) bị một vố quá nặng. Số là cả thành phố xì xào tin đồn Huỳnh Quang Huy, người thanh niên được đem lên diện điển hình vì có công tố cáo chỗ chôn dấu vàng bạc của cha mẹ, đã cùng gia đình vượt biển thành công. Thì ra đó chỉ là một màn kịch lớn dưới bàn tay đạo diễn tài tình hơn cả những chuyên viên thượng thặng bên Thành Ủy. Số vàng mà Huy tố cáo chỉ là một số lượng nhỏ so với tài sản mà cha mẹ Huy cất dấu. Sự tố cáo của Huy có tác dụng làm lạc hướng soi mói, tìm tòi của những người làm công tác kiểm kê. Rõ ra là vỏ quít dày thì có móng tay nhọn. Sự suy sụp tinh thần của các thanh niên trong chi đoàn đem lại cho ông Hồng Phát và những tay em cái cơ hội «ngóc đầu dậy».

Công cuộc làm ăn mờ ám qua các dịch vụ của nhà in, tuy vẫn diễn ra âm thầm nhưng có vẻ bớt dè dặt hơn trước. Chẳng rõ ông Hồng Phát đã phải mua Sáu Thu bao nhiêu, nhưng ông có vẻ ra sức mánh mung để thâu hồi số vàng bạc đã tiêu hao trong việc lo lót. Cho đến bây giờ, ông đã nắm vững một chân lý mới trong đời sống của xã hội mới. Đó là bốn chữ Đạo Đức Cách Mạng chỉ là những ngôn từ hoàn toàn rỗng tuếch. Trước đây, người ta tưởng Cán bộ Cách Mạng là một cái gì sắt đá, bền vững lắm. Nhưng bây giờ, rõ ràng nó đã nằm trong vòng kiểm soát dưới khả năng vung vít tiền bạc của ông. Điều này dễ hiểu thôi, vì ai cũng là con người. Những kẻ chưa mua được không có nghĩa là không mua được. Một khi tham nhũng, hủ hóa đã trở thành quá phổ biến trong xã hội, thì kẻ kiên trì cách mấy cũng có lúc phải lung lay. Thời nào cũng thế, chế độ chính trị nào cũng vậy. Mỗi lần hoàn tất một vụ trao đổi, ông lại nheo mắt với các tay em và cười khà khà:

– Kinh tế quyết định mà, đó là sách của mấy ổng!