← Quay lại trang sách

CHƯƠNG V

Vào thời gian đó, có một nhà văn miền Bắc lui tới để sửa chữa bản in cho một tờ báo phát hành ở miền Bắc. Mọi người gọi ông ta là ông Hoàng chiếu theo bút hiệu trên bài vở là Phạm Ngọc Hoàng. Hoàng thuộc lớp nhà văn trung niên, nổi danh sau thời kỳ Nhân Văn Giai Phẩm, và hiện là Hội viên Hội Văn Nghệ Việt Nam, vừa là biên tập viên của tuần báo Văn nghệ, xuất bản ở Hà Nội. Hoàng gốc gác tiểu tư sản. Trước năm 1954, khi hiệp định Genève được ký kết, chàng mới chỉ là học sinh lớp đệ tam trường trung học Chu văn An. Gia đình chàng không di cư vào Nam. Khi Cộng sản chiếm Hà Nội, chàng bước vào sinh hoạt đoàn thể với một lý lịch rất đơn giản: học sinh. Cậu học sinh Hoàng rất say mê và ngưỡng mộ hầu hết các nhà văn trong phong trào Nhân Văn Giai Phẩm, đặc biệt là Phan Khôi và Trần Dần. Cậu coi văn nghệ sĩ như những người có nhiều khả năng để cải tạo xã hội. Dưới sức nặng những bài viết của họ, tiếng nói của những người bị áp bức được cất lên. Rồi quần chúng tích cực hỗ trợ bằng cách phổ biến rộng rãi tiếng nói của họ nhưng cũng là tiếng nói của chính mình. Một phong trào chống đối nổi lên, một thời kỳ tự do ngắn ngủi duy nhất trong hơn ba mươi năm xây dựng Chủ Nghĩa Xã Hội. Đảng run sợ. Đảng tạm lùi. Nhưng rồi Đảng phản công quyết liệt. Những người đầu não của phong trào bị truy kích đến suốt cuộc đời của họ. Những tên tuổi lẫy lừng Phan Khôi, Trần Dần, Phùng Quán, v. v... Như những ngôi sao rực rỡ chỉ lóe lên một thời ngắn ngủi rồi vĩnh viễn tắt lịm trong bầu trời Văn Học Nghệ Thuật của Cộng sản. Những thành phần độc giả của họ cũng bị chiếu cố ráo riết, đặc biệt là giới sinh viên, học sinh. Nhiều đợt học tập đường lối chính sách của Đảng và nhà nước được tung ra nhằm tẩy rửa tàn dư của «Nhóm văn nghệ phản động» trong trí não của những con người trẻ. Mầm mống lãng mạn tiểu tư sản, tình yêu chung chung, lòng nhân ái chung chung, quan điểm giai cấp lệch lạc, phản động đều bị truy nã ráo riết đến độ nhiều sinh viên, học sinh bị o ép, dồn nén quá mức đã khóc òa ngay trên bản tự kiểm của mình trong những buổi sinh hoạt học tập.

Bài học sâu sắc mà mọi người thu nhận được sau phong trào Nhân Văn Giai Phẩm là nhìn ra chân tướng sắt máu của từ ngữ «chuyên chính vô sản». Nó đã được Karl Marx khẳng định: «Giữa xã hội tư bản chủ nghĩa và xã hội cộng sản chủ nghĩa là thời kỳ cải biến cách mạng từ xã hội nọ sang xã hội kia. Thích ứng với thời kỳ ấy là một thời kỳ quá độ chính trị, trong đó nhà nước không thể là cái gì khác hơn là chuyên chính vô sản».

Cho nên nhà nước chuyên chính vô sản là công cụ bạo lực để giai cấp vô sản trấn áp, đè bẹp sự phản kháng của giai cấp tư sản. Giai cấp vô sản thiết lập nhà nước của mình không phải để đảm bảo quyền tự do «cho tất cả mọi người» không phân biệt giai cấp, mà là để trấn áp kẻ thù của mình và những kẻ không chịu qui phục giai cấp vô sản. Trên cơ sở luận lý này, Đảng và nhà nước tha hồ «phóng tay» tạo nên những thời kỳ trời long đất lở, như vụ cải cách Nông Nghiệp với những màn đấu ốổ làm rung chuyển miền Bắc năm 1953, vụ trấn áp phong trào Nhân Văn Giai Phẩm năm 1958, hay vụ cải tạo Thương nghiệp tư bản tư doanh ở Hà Nội, xẩy ra tương tự như vụ cải tạo thương nghiệp ở Sài Gòn sau năm 1975. Và đấy mới chỉ là những vụ sôi nổi bên ngoài, có tính cách liên hệ trực tiếp đến đời sống của quần chúng. Ngoài ra, trong âm thầm lén lút, còn có biết bao nhêều đảng phái, nhân sĩ, trí thức, văn nghệ sĩ và những thành phần tiểu tư sản chống đối nhà nước đã bị bắt cóc, thủ tiêu, hay tù đày rồi bỏ xác ở những vùng rừng sâu núi thẳm.

Thấm nhuần bài học «chuyên chính vô sản», toàn thể quần chúng miền Bắc trở nên len lét như rắn mồng năm. Thêm vào đó là chế độ phân phối thực phẩm theo qui chế hộ khẩu, một hình thức xiết bao tử để cai trị, đã khiến cho mầm mống chống đối không có cơ hội để nẩy nở. Như một cục đất sét đã bị nghiền cho nhão nhoét, tâm tư tình cảm của quần chúng đã bị Đảng và nhà nước uốn nắn theo đúng đường lối chính sách của mình. Bầu trời miền Bắc như phủ một màn tang u uất. Bên cạnh sự thiếu thốn đói khổ là một đời sống tinh thần nghèo nàn, vô vị. «Thứ nhất ngồi lì, thứ nhì đồng ý» trở thành một triết lý sinh tồn khi con người biết rõ thực tế mà không còn muốn suy nghĩ sâu xa, hay nếu có suy nghĩ sâu xa thì cũng không dám nói lên những ý nghĩ của mình. Điều này đã tạo nên điều kiện thuận lợi để nhà nước bưng bít những sự thực đã xẩy ra ở miền Bắc, đối với quần chúng «giác ngộ cách mạng» ở miền Nam, hiểu như là thành phần đi theo Mặt Trận Dân Tộc Giải Phóng. Có bao nhiêu người trong hàng ngũ Mặt Trận Dân Tộc Giải Phóng hiểu rõ được danh từ «dân tộc» mà người cộng sản đưa ra làm chiêu bài lôi cuốn các tầng lớp quần chúng. Có bao nhiêu người hiểu được rằng hai chữ «dân tộc» ở đây đã ẩn dấu một ý nghĩa mới: đó là dân tộc Xã Hội Chủ Nghĩa. Chính sách vở kinh điển của Hà nội đã nhắc đi nhắc lại nhiều lần quan điểm của Marx và Engels: «Giai cấp vô sản trước hết phải giành lấy sự thống trị chính trị, phải vươn lên địa vị một giai cấp dân tộc, phải tự mình trở thành dân tộc, cho nên do đấy, họ vẫn còn tính chất dân tộc tuy hoàn toàn không phải hiểu theo cái nghĩa như giai cấp tư sản hiểu. Người tư sản hiểu dân tộc là một tập thể quần chúng gắn bó với nhau trong những giai đoạn thăng trầm của lịch sử, cùng có chung với nhau một truyền thống văn hóa, cùng chia xẻ chung với nhau những di sản tinh thần đã được truyền lại qua nhiều thế hệ.

Người vô sản quan niệm dân tộc phải là dân tộc xã hội chủ nghĩa, một loại hình thức dân tộc mới, xuất hiện cùng với sự thiết lập chuyên chính vô sản. Dân tộc Xã Hội Chủ Nghĩa trước hết nó có nền kinh tế thống nhất với chế độ công hữu Xã Hội Chủ Nghĩa về tư liệu sản xuất, và được đặt dưới sự lãnh đạo của nhà nước chuyên chính vô sản. Nói khác đi, dân tộc Xã Hội Chủ nghĩa công nhận sự xóa bỏ chế độ tư hữu và chấp nhận sự lãnh đạo của giai cấp vô sản.

Đấy là bản chất của vấn đề dân tộc mà rất đông những người đi theo Mặt trận dân tộc giải phóng miền Nam không biết tới hoặc khi đã biết tới rồi thì đã quá trễ!

Cho nên đừng vội tin những chiêu bài dân tộc mà người cộng sản tung ra với đầy đủ những hỏa mù dễ làm lóa mắt những người nặng lòng với quê hương, chả hạn như ca vũ dân tộc đề cao những phong tục tập quán cổ truyền, khơi lại hình ảnh những anh hùng dân tộc như Hai Bà Trưng, Lê Lợi, Quang Trung... «Dân tộc» chỉ là vỏ đường bọc ngoài. «Dân tộc Xã Hội Chủ Nghĩa» mới thực sự là thuốc đắng bên trong. Nếu họ chưa công khai phổ biến từ ngữ Dân tộc Xã Hội Chủ Nghĩa thì chẳng qua tình hình chưa chín mùi đó thôi.

* * *

Do kinh nghiệm của vụ Nhân Văn Giai Phẩm, Hoàng biết rõ thân phận của Văn Nghệ Sĩ dưới chế độ Xã Hội Chủ Nghĩa. Nhưng cũng từ vụ Nhân Văn Giai Phẩm, Hoàng bị lôi cuốn vào thế giới sáng tạo của người cầm bút. Những ngôi sao sáng chói như Phan Khôi, Trần Dần, Phùng Quán v. v... tuy đã tắt, nhưng hào quang của họ vẫn còn làm lóa mắt những tâm hồn trẻ ngấp nghé ngoài ngưỡng cửa của văn chương. Thêm vào đó, viết văn trong xã hội chủ nghĩa miền Bắc là một hình thức thoát ly thực tại đen tối, u buồn. Hôm nay, ở đây, trên bàn viết dù chỉ lỏng chỏng có ly trà loãng nguội ngắt và đôi ba điếu thuốc hút dè cho một ngày, hai ngày, nhưng người cầm bút vẫn có thể phóng trí tưởng tượng của mình lên một tương lai tốt đẹp, nơi đó người người ấm no, nhà nhà hạnh phúc, hay ít ra là cũng bắt vít niềm tin của độc giả của mình vào đường lối chính sách của chế độ, để giải tỏa cho chính mình những nỗi chán chường, mệt mỏi. Hoặc giả, người cầm bút dưới chế độ xã hội chủ nghĩa cũng có thể dấu mình vào những vụ đấu tranh chống sai trái, mà đối tượng là những cán bộ tép riu, những lỗi lầm vặt vãnh bên ngoài phạm vi húy kỵ của Đảng như những thói hư tật xấu của chính tầng lớp nhân dân lao động chỉ vì đời sống đói khổ, thiếu thốn mà sinh ra. Không bao giờ còn những loạt bài sấm sét đánh trúng yếu huyệt của chế độ mới như thời Nhân Văn Giai Phẩm nữa. Điều này về sau giới văn nghệ sĩ trẻ quay ra oán thán những người đi trước.

– Cho nổ vụ Nhân Văn Giai Phẩm quá sớm, để chưa làm được gì nhiều đã bị dẹp tan và làm cho giới lãnh đạo văn nghệ áp đặt những biện pháp vô cùng khắt khe lên sinh hoạt văn học nghệ thuật.

Nói khác đi, vụ Nhân Văn Giai Phẩm đã dạy cho giới lãnh đạo một bài học về sự cảnh giác đối với hàng ngũ văn nghệ sĩ. Phải triệt để và không khoan nhượng. Phải thường xuyên treo lên cổ bọn viết lách một con dao biểu trưng cho sức mạnh của chuyên chính vô sản. Phải Hồng trước Chuyên sau. Phải không còn tạo cơ hội cho vụ Nhân Văn Giai Phẩm xẩy ra lần thứ hai dưới chế độ Xã Hội Chủ Nghĩa. Và còn cả ngàn thứ «phải» khác nữa đã biến thành những sợi dây xích trói buộc để giới cầm bút không được tự do viết theo ý muốn của mình.

Vậy thì còn cái gì để khiến cho những người như Hoàng tiếp tục con đường văn chương chữ nghĩa? Hoàng và những bạn của Hoàng lý luận:

– Từ khước phương tiện văn chương chỉ là một thái độ tiêu cực. Điều đó có nghĩa là phó mặc mọi việc nước cho một thiểu số mặc sức tung hoành. Kết quả, kẻ đứng ngoài cũng vẫn chịu ảnh hưởng đến đời sống của mình chứ không phải vì thế mà tránh thoát. Cho nên hãy cứ xông vào, chấp nhận qui luật của chế độ mới để tạo dựng một đất đứng cho mình. Dần dà, số người tham gia sẽ trở thành những nhân số tích cực, ảnh hưởng vào cơ chế mới, khiến cho nó thay đổi. Nhân số tích cực càng nhiều thời gian thay đổi càng rút ngắn.

Đó là quan điểm phổ biến của nhiều người cầm bút miền Bắc, ngoại trừ một số lăn xả vào ca ngợi chế độ một cách nhiệt tình, không băn khoăn thắc mắc do động cơ đã được chế độ dành cho một vài ưu đãi tương đối đặc biệt hơn những kẻ khác. Loại này được mệnh danh là giới cầm bút chính thống, phân biệt với giới không được chế độ tin cậy, gọi là bàng thống.

Dân bàng thống rất đông đảo, ít có cơ hội xuất bản được tác phẩm của mình, sinh hoạt viết lách tập trung vào những tờ báo, đa số là báo của các cơ quan, đoàn thể, xí nghiệp, không phải là báo Đảng.

Hoàng thuộc dân bàng thống. Chàng chưa có một tác phẩm nào được in, nhưng đã có nhiều truyện ngắn được đăng rải rác trên nhiều tạp chí, nhất là tờ Phụ Nữ Việt Nam, cơ quan ngôn luận của Hội Phụ Nữ. Chàng vào Sài Gòn kỳ này dưới sự bảo trợ của tờ Phụ Nữ, xuất xứ từ đề cương đã được Hội chấp thuận: «Vai trò của người Phụ Nữ ở vùng mới giải phóng trong công cuộc xây dựng Xã Hội Chủ Nghĩa». Đó là mặt nổi, lý do bên ngoài. Trong thâm tâm, Hoàng muốn được tham quan, tìm hiểu tình hình sinh hoạt và tâm tư, tình cảm của quần chúng miền Nam, đặc biệt là dân Sài Gòn. Đối tượng tiếp xúc của chàng không chỉ là phụ nữ. Chàng la cà, trò chuyện với đủ mọi loại người, từ họ hàng thân thích cho tới những người mới quen một cách tình cờ. Đi đâu chàng cũng được nghe những lời than van về sự mất mát: mất tiện nghi về đời sống, mất xe hơi, nhà lầu, mất những nguồn lương thực, thực phẩm dồi dào phong phú, mất tiền bạc địa vị.

Có một ông bác của Hoàng đã giơ cánh tay lên chỉ chiếc đồng hồ vỏ vàng, dây vàng sáng chói và nói:

– Cả đời cán bộ các anh đã mua nổi chiếc đồng hồ này chưa?

Hoàng nhỏ nhẹ:

– Thưa bác làm sao mà có được! Ông bác cười khẩy:

– Đúng đấy! Dân Bắc toàn ăn mắm mút dòi làm sao mà rớ tới được những thứ như thế này.

Hoàng không giận ông ta mà chỉ thương hại. Điều thương hại thứ nhất là ông ta chỉ có cái nhìn hạn hẹp đứng trên quan điểm giai cấp của mình. Để có được cái đồng hồ toàn bằng vàng tây 18 carat đó, trong tổng số tài sản kếch sù mà ông đang có, hẳn ông ta không tham nhũng móc ngoặc thì cũng làm giàu bằng chợ đen chợ đỏ hoặc đầu cơ tích trữ trên xương máu của nhiều người. Sau ngày Sài gòn được giải phóng, Hoàng đã chứng kiến những con người sống chui rúc, lầm than ở những khu tối tăm, nghèo nàn bên cầu Khánh Hội. Họ là đa số, còn những người no đủ, phè phỡn như ông bác của chàng là thiểu số. Vậy bản chất của xã hội miền Nam cũ vẫn là bất công xã hội, so với miền Bắc, cũng chả ưu việt gì. Thứ hai nữa, do kinh nghiệm có thừa ở miền Bắc, Hoàng biết rõ ông bác của chàng chẳng thể thụ hưởng những tiện nghi như chiếc đồng hồ vàng ông đang đeo trong bao lâu nữa. Liệu ông có đủ khả năng để chịu đựng được những ngày đen tối sắp tới. Chắc chắn sẽ là những ngày đen tối mặc dù mỉa mai thay, đất nước đã hoàn toàn được «giải phóng».

Bà vợ của ông bác thì quan tâm đến những vấn đề thực tế hơn. Bà riếc móc chế độ (bà nghĩ như Hoàng là người đại diện của chế độ) về cái sự giải phóng về rồi, ai cũng phải xếp hàng cả ngày. Hoàng giải thích:

– Thưa bác, sau chiến tranh, bao giờ cũng khó khăn...

Bà bác trợn mắt lên, xổ ra một thôi một hồi tất cả những chất chứa trong lòng bà:

– Tôi chán nghe những luận điệu ấy từ lâu rồi. Buổi học tập, trong khóm, trên phường, anh cán bộ chó nào cũng đổ lỗi cho chiến tranh. Thế tại sao khi còn chiến tranh, miền Nam vẫn sung túc, đầy đủ, có ai phải xếp hàng ngày nào đâu...

Hoàng mỉm cười, kiên nhẫn chịu đựng sự nổi đóa của bà bác. Thật khó mà giải thích cho những người đang mất mát hiểu được những lý luận dù là lý luận hợp lý. Sau đại chiến thế giới lần thứ hai, có xứ nào lại không phải xếp hàng kể cả Pháp lẫn Đức. Nhiều phụ nữ phải bán mình để đổi lấy một thẻ chocolat hay một hộp sữa. Như vậy, xếp hàng là một thực tế tất yếu phải xẩy ra. Nó không phải là nhược điểm của chế độ. Cái nhược điểm của chế độ chính là vấn đề phải xếp hàng như thế trong bao lâu. Ba năm, năm năm, mười năm hay mãn đời mãn kiếp. Nếu một chế độ cử phải mãi mãi duy trì tình trạng xếp hàng mà không cho thấy một chút ánh sáng nào ở cuối đường hầm, thì chế độ đó đã đi ngược lại quyền lợi của quần chúng, nó phải được thay thế bằng một chế độ tốt đẹp hơn, dù nó đã được che dấu bằng đủ loại lý luận hấp dẫn nhất trên đời.

Hoàng lấy làm tiếc rằng chưa có mấy ai ở miền Nam, những người mà chàng đã tiếp xúc đánh được Cộng sản trúng khía cả. Đâu đâu cũng chỉ là than van bị mất mát, những lời chửi bới «Nam nhận họ, Bắc nhận hàng».

Đi đâu, chàng cũng chỉ nghe một kiểu lập luận chống cộng mà theo chàng, nó hết sức ấu trĩ. Như thể cán bộ nghèo đói, ngu dốt, bộ đội răng đen mã tấu với những ngôn ngữ quê mùa, cục mịch của họ như cái phin cà phê là cái nồi ngồi trên cái cốc... v. v... Chưa mấy ai nhìn được ra rằng tất cả những sự nghèo đói, ngu dốt, quê mùa ấy đều là sản phẩm của một chế độ ngu dân, cực kỳ phong kiến hơn cả thời đại cực thịnh của phong kiến: Bởi nếu nhìn được như vậy, người ta sẽ thấy những loại cán bộ, bộ đội ấy đều chỉ là nạn nhân của một đường lối cai trị tập trung quyền hành vào một thiểu số lãnh đạo, và do đó, họ không đáng mỉa mai, chê cười nếu không muốn nói là đáng thương xót.

Tuy nhiên, trong cương vị một cán bộ đến từ miền Bắc, Hoàng không thể giãi bày những ý nghĩ này với bất cứ ai. Chàng chỉ tự nhủ thầm, với một tình cảm xót xa rằng trong một thời gian nữa, miền Nam này, nếu cứ ấu trĩ vậy hoài, rồi cũng sẽ đi vào con đường miền Bắc đã đi. Nghĩa là rồi cũng sẽ nghèo đói, lạc hậu, quê mùa cục mịch và chậm tiến so với trình độ tiến triển không ngừng ở thế giới bên ngoài, với những con người đã có cơ hội đi được ra nước ngoài. Thật là một cái vòng lẩn quẩn.

Trước đây, người miền Nam miệt thị dân miền Bắc chỉ quan tâm đến vấn đề xin xỏ, lượm một đủ thủ đồ để ùn ùn cho về Bắc. Nhưng hiện nay, tình trạng kiệt quệ về đời sống đã đẩy mọi người tới một hoàn cảnh tương tự. Biết bao nhiêu người đã chờ trông nguồn tiếp tế của thân nhân hải ngoại. Vậy thì, những điều chê bai, miệt thị ấy không phải là những vũ khí có thể đem dùng để chống cộng một cách hữu hiệu. Chỉ nói cho sướng miệng thôi, nhưng Cộng sản không sứt mẻ gì.

Hoàng ước mong giữa những con người và con người đang bị bủa vây bởi hoàn cảnh khắc nghiệt, sẽ nhìn được rõ thân phận của nhau, có một tấm lòng bao dung hơn, cảm thông hơn, vì chỉ ở đó mới nẩy sinh được những tình cảm trong sáng, không bị che mờ bởi những sự mất mát thua thiệt sau cơn sụp đổ kinh hoàng. Nếu được như thế, thì sẽ chẳng còn xẩy ra những câu chuyện mủi lòng như trường hợp một cụ già người miền Bắc đi vào thăm con. Bằng một tình thương sâu xa ở trong lòng, cộng với những dữ kiện thông tin xuyên tạc mà chế độ miền Bắc tung ra triền miên từ trước ngày chính phủ miền Nam tháo chạy, bà cụ hình dung ra hình ảnh thiếu thốn cơ cực của con mình dưới sự kìm kẹp của Mỹ, Ngụy. Khi có cơ hội vào Nam thăm con, cháu, bà cụ đã chắt chiu tài sản của mình gồm những thước vải thô quí báu, những chiếc bát, đĩa hiếm hoi trong đời sống nhân dân miền Bắc để đem vào tặng con, cháu. Đến lúc gặp gỡ thì hỡi ôi, bà cụ không thể ngờ con cái của mình lại đang ở một căn biệt thự sang trọng như thế, với những đồ đạc trong nhà lộng lẫy, quí giá như thế. Chồng bát đĩa thô sơ của bà cụ đã bị ném vào sọt rác với lời tuyên bố hể hả, châm biếm của vợ chồng đứa con trai:

– Tụi con sẽ tặng má cả trăm cái bát còn quí giá, sang trọng gấp ngàn lần loại bát đàn thổ tả này.

Không mấy ai nhìn ra tấm lòng yêu thương của bà mẹ gói ghém trong món quà «thổ tả» đó. Chưa thấy ai lên án cái hành vi ném cả chồng bát đã vượt qua bao nhiêu gian nan khổ ải, chứa đựng đầy lòng yêu thương đó vào trong sọt rác. Sự mất mát to lớn đã che mờ sự suy nghĩ sáng suốt của nhiều người. Hoàng cảm thấy bùi ngùi khi nghĩ đến sự cách biệt giữa dân chúng hai miền hãy còn quá xa. Chàng tự nhủ phải cần có thời gian để cho những cơn xáo động lắng xuống, những tình cảm tức giận, oán ghét, chống đối hời hợt nguội đi nhường chỗ cho những nhận thức sáng suốt hơn, thì lúc đó mới thăng hoa được những quan điểm sâu sắc, sáng suốt, gây nên được những tác động hữu hiệu trong đời sống. Miền Bắc, sau gần ba mươi năm kìm kẹp, không thể trông mong gì được về một phong trào chống đối nào. Mọi người đã kiệt quệ, mòn mỏi. Tuổi trẻ thì khi sinh ra đã ở trong lòng chế độ. Họ hoàn toàn xa lạ với những tin tức bên ngoài và những tư tưởng tự do. Họ không đủ yếu tố để trở thành những hạt nhân của sự suy nghĩ mới. Xã hội bế tắc nhưng vẫn tồn tại. Tồn tại trong những điều kiện thấp kém nhất của nhu cầu tối thiểu làm người.

Hoàng hưởng về quần chúng miền Nam với một ước vọng thầm kín. Lịch sử không thể tái diễn đối với phần đất đã từng có hơn 30 năm tiếp xúc với thế giới bên ngoài. Đảng và nhà nước có trấn áp, có tiêu diệt, có áp dụng triệt để bạo lực cách mạng thì những gì đã xẩy ra ở miền Bắc vẫn không thể xẩy ra trọn vẹn ở miền Nam. Như một đứa con đã quen sống phong lưu buông thả, nay bị lôi cổ về với nếp sống gia đình cổ hủ, miền Nam vẫn có phong cách riêng của nó, thái độ suy nghĩ của nó, cung cách tham dự và công cuộc xây dựng xã hội riêng của nó. Đảng và nhà nước tuy thắng lớn về mặt quân sự, nhưng đã thua to ở mặt trận tinh thần. Người ta tiêu cực chống đối nhà nước, nhất là thành phần vô sản. Không thể gọi toàn thể quần chúng lao động miền Nam là vô sản lưu manh được, vì họ thực sự là thành phần bị bóc lột ở chế độ cũ, nhưng họ vẫn tiếp tục bị bóc lột, tàn nhẫn hơn, trắng trợn hơn ở chế độ mới. Họ chỉ là cái cớ để chế độ treo lên cái chiêu bài Xã Hội Chủ Nghĩa của mình. Nhân dân lao động miền Bắc chịu đựng làm cái đinh cho chế độ treo lên những đồ trang trí mà không dám phản ứng gì, nhưng chỉ mới vài năm sau ngày giải phóng, quần chúng lao động miền Nam đã dứt khoát lựa chọn cho mình một thái độ: Không chấp nhận cái gọi là Xã Hội Chủ Nghĩa.

Tuy nhiên từ ý thức đến hành động là một khoảng cách biệt lâu dài. Nó cần đến những nhân tố tác động, để hình thành một lực lượng mới, trong đó thống hợp được đủ mọi loại thành phần, không phân biệt miền Nam hay miền Bắc, quần chúng hay Cán bộ, Đoàn viên, quá khứ chính trị là «Ngụy quyền» hay «Cách mạng», miễn là cùng chung nhau một nhận thức mới: Con đường tiến lên Xã Hội Chủ Nghĩa chỉ là con đường bế tắc, đem lại nhiều đau thương, nghèo khó, điêu tàn hơn là xây dựng được một xã hội ấm no, hạnh phúc. Nhận thức đó cũng không phải là một nhận thức quay về phục hồi một miền Nam bất công, thối nát cũ. Nó phải tước bỏ lằn ranh chia cắt Bến Hải vốn đã rút khỏi sân khấu chính trị kể từ sau ngày 30-4-75. Nó phải rộng rãi để nhìn thấy vấn đề quê hương bây giờ là vấn đề của toàn thể dân tộc vốn đã từng có mối liên hệ trải dài từ Nam Quan cho đến Cà Mau. Dân tộc ấy đã phải chịu nhiều đau thương, mất mát, qua các cuộc thử nghiệm của các chế độ chính trị. Bây giờ sẽ là thời của chính họ, những nạn nhân của cả hai miền, nếu mọi người biết gỡ bỏ hàng rào ngăn cách vốn đã được dựng lên vì những nhu cầu chính trị. Cho nên không thể buông xuôi được mà vẫn phải tiếp tục đi tới. Buông xuôi nửa chừng là tiếp tay cho bạo lực, thanh toán kẻ thù rồi chính mình chịu trở thành nạn nhân của bạo lực. Miền Bắc đã diễn ra thảm cảnh này, nhưng miền Nam không thể như thế vì điều kiện xã hội, chính trị, và hoàn cảnh lịch sử của nó. Sau ba mươi tháng tư, nhiều người miền Bắc đã khóc òa trong tuyệt vọng vì thấy nguồn hy vọng duy nhất của họ là miền Nam đã bị sụp đổ. Nhưng đấy chỉ là cơn xúc động nhất thời dẫn đến những sự suy nghĩ nhất thời. Miền Nam sụp đổ không có nghĩa là mọi khả năng của nó đã bị hủy diệt. Đứng trên một khía cạnh lạc quan nào đó mà xét, thì sự sụp đổ này cũng đã đem lại những điều kiện tốt cho một cuộc cách mạng mới. Ngày trước, do hoàn cảnh chia cắt, mọi người chưa bao giờ có cơ hội nhìn thấy bản chất của chế độ Xã Hội Chủ Nghĩa. Nhiều người nếu đã biết thì chưa biết tường tận. Nhiều người chưa biết thì thờ ơ, ích kỷ trong cuộc chiến chống lại sự lan tràn của chế độ ấy. Lại cũng có nhiều người chóa mắt vì những luận điệu ve vãn, núp dưới chiêu bài yêu nước, để rồi đi theo con đường cách mạng mà không biết rõ những gì xẩy ra sau khi «Cách mạng đã thành công». Như thế, biến cố 30-4-75 tuy là một biến cố đau thương, kinh hoàng nhưng cũng là một dịp để cho tất cả mọi người nhận ra được chân tướng của Xã Hội mới. Vấn đề là ở chỗ sau đó sẽ phải làm gì? Chấp nhận khuôn mẫu như đã thực hiện ở miền Bắc hay tiếp tục đấu tranh để hình thành một cơ cấu xã hội khác tốt đẹp hơn. Chỉ thời gian mới có thể trả lời, tùy thuộc vào vấn đề nhận thức của mọi tầng lớp quần chúng, kể cả những người đã từng tham gia Mặt Trận Dân Tộc Giải Phóng miền Nam với lòng yêu nước chứ không phải vì yêu Chủ Nghĩa Xã Hội.

Hoàng mang cái tâm trạng này khi xách khăn gói lên đường vô Nam. Chàng dự định làm một cuộc thăm dò trình độ nhận thức của mọi người. Nhiều người đã khiến cho Hoàng thất vọng sâu xa. Khoảng cách biệt còn quá lớn. Nhiều người còn quá nông cạn, ấu trĩ. Những người khác không ấu trĩ thì lại bị sự mất mát làm che mờ sự suy nghĩ của họ. Còn cần phải nhiều năm nữa những tư tưởng mới, mới có thể hình thành. Hoàng buồn bã nghĩ vậy, nhưng chàng không bỏ qua những cơ hội để gieo trồng mầm mống suy nghĩ mới.

Tại nhà in Hồng Phát, Hoàng vừa tìm hiểu những hoạt động của Nguyệt vừa chú ý đến Toàn, anh công nhân hình dáng rất trí thức, lúc nào cũng buồn bã cắm đầu xuống những trang chữ chằng chịt ký hiệu Toán học. Một buổi nghỉ trưa, Hoàng lân la làm quen với Toàn ở quán cà phê ngay kế của nhà in. Hoàng hỏi:

– Ngày trước, anh đã theo học trên đại học? Toàn đáp:

– Phải. Tôi đang chuẩn bị thi Toán Đại Cương.

– Hèn gì mà cơ sở giao cho anh xếp chữ môn Toán. Học toán chắc là anh không thích văn chương nghệ thuật lắm nhỉ.

– Trái lại là đằng khác. Tôi không thấy có sự cách biệt nào giữa khoa học và văn chương.

– Tại sao vậy?

– Thì Văn chương phải khúc chiết, phải rõ ràng, mạch lạc. Cái đó chẳng phải là những đặc điểm của tinh thần khoa học sao,

– Anh thấy văn chương Xã Hội Chủ Nghĩa thế nào?

– Tôi đọc rất ít nên xin miễn có ý kiến.

– Đọc rất ít nghĩa là cũng có đọc chứ.

– Phải. Như cuốn Vùng Trời của Hữu Mai. Một bộ hai cuốn, tôi chỉ đọc có một.

– Sao thế?

– Tại tiêu không nổi quan điểm viết lách của giới cầm bút Xã Hội Chủ Nghĩa. Cặp tình nhân yêu nhau, xa nhau, đến ngày đi phép được gặp gỡ, rủ nhau đi dạo mát, lại phải đứng bên hàng rào nhìn về căn nhà Hồ Chủ Tịch, nơi ông đang làm việc để phát biểu cảm nghĩ rằng trong lúc Bác đang cặm cụi lo lắng việc nước thì mình lại nhởn nhơ, vui thú. Thế là mặc cảm tội lỗi nổi lên. Thế là người hùng tự cắt bớt ngày nghỉ phép, từ giã người yêu để trở về đơn vị phục vụ.

Hoàng mỉm cười:

– Những tâm tình ấy cũng có thể có chứ sao không?

Toàn nhìn thẳng vào mắt người mới quen, hỏi dằn giọng:

– Anh là người trong giới viết lách. Anh có tin là có những mẫu người ấy trong xã hội miền Bắc không?

– Có hay không, điều đó không quan trọng. Miễn là tác giả đưa ra được một nhân vật điển hình, một khuôn mẫu tốt để mọi người noi theo.

– Cái đó, ở trong Nam khi trước gọi là giả tạo. Một tác phẩm giả tạo là một tác phẩm khô cứng, không hồn, một tác phẩm chết!

– Cũng còn tùy thuộc ở cái nhìn của người đọc khi đứng dưới góc độ nào, ở dưới thể chế chính trị nào.

– Ngày trước, văn nghệ sĩ miền Nam độc lập với chính mình.

Nguyệt hỏi:

– Còn về phần bác, bác sẽ làm gì trong hoàn cảnh hiện nay?

– Bác có nhiều bạn bè, đồng chí. Bác vẫn đang thực hiện công cuộc kết hợp những người cùng chung một ý hướng như mình.

Nguyệt vui mừng:

– Cháu tin là sẽ đông đảo lắm.

– Nhìn về tương lai thì sẽ đúng như thế. Bởi vì có mấy ai chấp nhận một xã hội đen tối, suy sụp như thế này ngoại trừ thành phần cam tâm hưởng thụ trên sự đen tối, suy sụp đó. Nhưng cuộc chiến đấu sẽ là cuộc chiến đấu trường kỳ, còn vô vàn khó khăn chứ không dễ dãi gì đâu.

Rồi ông Năm đổi giọng:

– Nhưng trước mắt hãy suy nghĩ về hoàn cảnh hiện nay của cháu đã. Cháu dự tính ra sao về đề nghị gặp gỡ của Sáu Thu.

Nguyệt ngập ngừng:

– Cháu bối rối quá cũng chưa biết tính ra sao. Cháu định đến xin ý kiến của bác.

– Thằng ấy nguy hiểm lắm. Nó có thể muối mặt làm bất cứ điều gì để thỏa mãn tham vọng của mình. Nó tiêu biểu cho một giai cấp bóc lột mới.

– Cháu hiểu vậy. Nhưng ông ta là người có cánh tay dài với tới cả Sở Công An thành phố.

– Nghĩa là cháu có ý định cư tới gặp Sáu Thu trước đã.

– Vâng! Để coi vụ giấy tờ in giả mạo bị đẩy đi tới đâu.

– Thế cũng được. Nhưng đừng nghe theo bất cứ lời khuyên hay gợi ý nào của nó. Bất quá thì cháu bỏ thành phố về quê. Bác có nhiều chỗ quen biết để cháu có thể tạm dung thân.

– Cháu cảm ơn bác rất nhiều. Nói chuyện với bác, cháu cảm thấy yên tâm hơn. Bây giờ cháu phải về.

– Cẩn thận giữ mình, đừng bao giờ hấp tấp vội vã.

Đường đi còn dài nghe cháu.