CHƯƠNG VI
Khi bước qua ngưỡng của căn biệt thự xinh đẹp của Sáu Thu, Nguyệt thấy lòng bình thản lạ lùng.
Lần tới trước, Nguyệt rụt rè, bỡ ngỡ và nhỏ bé như một cô học trò mới vừa bước đầu lên trung học đi đến thăm nhà thầy. Hồi đó, Nguyệt nhìn Sáu Thu như một con người cao vòi vọi. Họ gian khổ, họ chiến đấu, và họ chiến thắng để thực hiện một xã hội mà Nguyệt vẽ ra ở trong đầu qua tài liệu sách vở.
– Cách mạng xã hội chủ nghĩa xóa bỏ mọi hình thức bóc lột, mọi sự thống trị giai cấp, xây dựng một xã hội không còn giai cấp và chế độ người bóc lột người.
Cuộc giao thương giữa hai miền Nam Bắc sau ngày 30 tháng 4 đã cho thấy cái thực chất của cuộc Cách mạng này sau bao nhiêu năm bị bưng bít vì hoàn cảnh chia cắt. Nguyệt đã được nghe nhiều bà con, họ hàng kể lại những gì đã xẩy ra trong đời sống dân chúng, kể cả dân chúng ở Hà nội. Tại thủ đô của đỉnh cao văn minh trí tuệ loài người, con người sống chui rúc trong những ổ chuột. Một căn nhà bình thường, trước đây dành cho một gia đình, nay được chia năm xẻ bảy. Mỗi «nhà» kê đủ vỏn vẹn có một cái giường và một cái bàn nước trên để đủ mọi thứ đồ đạc linh tinh. Nhà nọ cách nhà kia chỉ có một tấm màn bằng vải thô mỏng. Vợ chồng đã ly dị nhau rồi thì vẫn cứ ở nguyên trên cái giường đó sau khi chăng thêm một cái màn vải thô nữa để chia đôi cái giường thành hai đơn vị gia đình riêng tư. Khu nhà tập thể ở Giảng Võ, một loại buyn đinh bốn từng lầu thì rung rinh sẵn sàng đổ sụp vì khi xây cất, một phần do các thợ chuyên môn đã lên đường làm nghĩa vụ quân sự nên phải giao phó cho những thợ trẻ tay mơ, một phần khác do ở sự ăn cắp xi măng, ăn cắp vật liệu, nên sự xây cất bôi bác, không đủ tiêu chuẩn. Vậy mà người ta vẫn chen chúc ở đó, chờ đợi nhiều năm để được cứu xét hoàn cảnh, cứu xét công lao đã từng đóng góp cho Cách mạng để được dọn vô ở đó. Một chuyên viên cư ngụ tại đó đã than thở:
– Chúng tôi sống ở đây như sống «dưới giá treo cổ». Gặp ngày có bão lớn, tất cả mọi người đều phải di tản ra ngoài ngồi chờ cho đến khi bớt gió. «Nó» có thể sập xuống bất cứ lúc nào.
Đời sống tinh thần cũng không có gì khá hơn. Nghi kỵ lẫn nhau là tình trạng phổ biến. Người ta nghĩ một đằng, nói một nẻo để giữ vững quan điểm, lập trường:
Ngang lưng thì thắt phương châm Đầu đội nghị quyết, tay cầm chủ trương.
Trang bị kỹ lưỡng như thế mà người ta vẫn còn sợ sơ xẩy, mắt thì nhìn trước ngó sau, giọng thì nhỏ to xì xào, nỗi ám ảnh vì sợ đi cải tạo, sợ cúp hộ khẩu, sợ mất tem phiếu đã làm cho con người bần tiện đi, bạc nhược ra, và cam chịu một kiếp người nô lệ cho một đẳng cấp bóc lột mới.
Mọi sự nghèo khó, khốn khổ kể trên cũng có thể chấp nhận được nếu như sự nghèo khó san sẻ đồng đều trên cả nước do hoàn cảnh khó khăn của «thời kỳ quá độ».
Nhưng bốn chữ này, chỉ là bình phong che dấu những nhược điểm không thể sửa chữa được, do ở sự một nhóm người mới, một giai cấp mới đã được hình thành. Đem áp dụng lý thuyết sách vở kinh điển của Mác-Lênin vào bọn này thì cũng đúng y chang như chính Engels đã lên án «bọn tư sản bóc lột»: «Mỗi bước tiến của sản xuất đồng thời cũng đánh dấu một bước lùi trong tình cảnh của giai cấp bị áp bức, nghĩa là của đại đa số người. Cái mà người này cho là phúc lợi thì đối với người kia nhất định phải là tai họa. «Mỗi cuộc giải phóng mới của một giai cấp này đều là do một sự áp bức mới đối với một giai cấp khác.»
Hãy cứ nhìn vào thành phần bị áp bức, bóc lột, rên xiết ở miền Bắc sau 1954 và miền Nam sau 1975, xem họ là thành phần thiểu số hay đa số trong xã hội. Nếu họ là thành phần đa số (chưa nói đến tuyệt đại đa số) thì cuộc Cách Mạng xã hội chủ nghĩa đang thực hiện chỉ là cuộc cách mạng đáng đem vứt vào sọt rác vì nó đã gây tai họa, đau khổ, chết chóc, khốn cùng cho biết bao nhiêu con người trải qua bao nhiêu là thế hệ.
Càng suy nghĩ, Nguyệt càng thấy gần gũi với những tư tưởng gậm nhấm của ông Năm Tỏa. Xã hội càng khốn cùng ông càng mang mặc cảm tội lỗi vì đã tiếp tay cho bạo lực, dù dưới bất cứ danh nghĩa gì. Khác với những người ở chế độ cũ bị kẹt lại, đời sống hiện tại càng tồi tệ, người ta càng hãnh diện với quá khứ của mình mặc dù cái quá khứ đó chẳng có nhiều điều đáng để hãnh diện. Do xuất phát từ cái tâm lý của kẻ thắng trận, hay thua trận nên người ta chỉ chọn lựa hoặc đứng bên này hay đứng bên kia. Chưa mấy ai có tư tưởng đi tìm một chỗ đứng mới, chẳng bên này cũng chẳng bên kia, một chỗ đứng chung cho toàn thể những kẻ bị áp bức dù dưới bất cứ một xuất xứ nào, một chỗ đứng trở về với dân tộc, hai chữ dân tộc với đầy đủ ý nghĩa trong sáng, nhân ái nhưng cũng anh dũng bất khuất, vốn có từ ngàn xưa, thời kỳ chưa bị tha hóa bởi bất kỳ chủ nghĩa chính trị ngoại lai nào.
Tư tưởng này chưa là tư tưởng phổ biến. Nó mới manh nha đâu đó ở nhiều nơi, âm thầm trong ý nghĩ của nhiều người, nhưng nó cần phải được khơi dậy như một sinh lộ mới. Nó là con đường ngắn nhất, đúng đắn nhất đem lại sự đoàn kết và sức mạnh của dân tộc.
Nguyệt như lớn lên và cảm thấy tự tin hơn nhiều sau những cuộc gặp gỡ với ông Tỏa. Nàng bước qua ngưỡng cửa, nơi có người lính bảo vệ ôm khẩu AK ngồi gác trong tư thế ngủ gà ngủ gật, mà lòng hết sức bình thản. Nàng tặc lưỡi, ra sao cũng được, vì cùng lắm là ngồi tù, tra tấn và chịu đủ mọi hình thức cải tạo. Đó là con đường tồi tệ nhất mà nàng có thể hình dung ra. Nhưng trước đó, nàng muốn biết tường tận chi tiết, mọi diễn biến cụ thể kể từ ngày Huấn bị đánh sưng tím mặt ở Sở Công An và được dẫn về nhà in tìm những dụng cụ in ấn giả mạo đã cất dấu. Đó là lý do duy nhất để Nguyệt tìm đến Sáu Thu. Nàng tự nhủ: nhất định ta không hèn hạ, không xin xỏ, không nhờ vả bất cứ một ơn huệ nào.
Sáu Thu tiếp nàng lần này với một vẻ mặt nghiêm trọng, lầm lì. Dù đã có định kiến trước, Nguyệt vẫn cảm thấy mình nhỏ bé, khờ dại trước con người như Sáu Thu. Ông ta như một con mèo đang chờn vờn miếng mỡ để trước mặt. Con mèo tuy bấn loạn ở trong lòng nhưng vẫn cố gìn giữ vẻ hiền từ, khoan thai, như một triết gia bỏ ra ngoài mọi hệ lụy trên đời.
Hôm nay Nguyệt ăn bận hết sức giản dị. Nàng cố tình không trang điểm để che dấu những nét quyến rũ của nàng. Nhưng càng không trang điểm, Nguyệt càng có vẻ đẹp thùy mị, ở đôi mắt ướt như nhung của nàng, ở vành môi hồng ửng màu hoa đào, ở cái cổ trắng ngần chạy xuống đôi bờ vai tròn trĩnh và đôi gò ngực căng lên sau lớp áo lụa trơn bóng được ủi phẳng phiu còn nguyên nếp của nàng. Sáu Thu chậm rãi rót ra hai ly nước ngọt, đẩy một ly về phía Nguyệt rồi nói:
– Cô Nguyệt đến đúng lúc đó. Tôi chỉ còn giữ hồ sơ vụ này cho tới ngày mai. Trưa mai tôi phải hoàn trả bên Sở Công An rồi.
Vừa nói ông ta vừa mở một tập hồ sơ đã để sẵn ở trên mặt bàn kính. Hồ sơ mang số hiệu mật A 37, và ghi rõ: «Vụ phản động tình báo chiến lược tại cơ sở ngành in số 10». Nguyệt thốt lên:
– Tình báo chiến lược?
Sáu Thu giữ một vẻ mặt nghiêm trọng:
– Đấy là một phát hiện hết sức lớn lao do khả năng điều tra của các đồng chí bên Sở Công An. Vụ này không chỉ thuần túy tiền bạc như cô nghĩ đâu.
Cổ họng Nguyệt như se lại. Miệng nàng khô đắng. Nàng đã dự liệu mọi sự bất ngờ, nhưng nàng không thể tưởng tượng được rằng câu chuyện lại đẩy xa đến như thế. Nàng cố gượng gạo:
– Tôi nghĩ rằng các can phạm bị tra tấn đau quá nên nhận lỗi bừa. Họ có khả năng gì mà tiến hành công tác tình báo chiến lược?
– Cô khờ lắm. Cô lại dễ tin người. Những người do chính cô đã kết nạp, cô tưởng họ đã giác ngộ cách mạng rồi à? Bọn đế quốc tinh ma lắm, khi rút đi rồi, nó đâu có dại gì mà không gài người vào các cơ quan, đoàn thể.
Sáu Thu nhấn mạnh ở những chữ «những người do chính cô kết nạp» để trói nàng vào nội vụ và ngầm bảo cho nàng biết, chính nàng cũng đang là kẻ ở trong cuộc. Sau đó, ông ta tiếp:
– Với tôi, tôi có thể thông cảm được với cô. Nhưng các đồng chí bên Sở Công An thì họ không thiên vị, cứ chiếu việc họ làm.
Nguyệt nhìn lại tập hồ sơ, rồi lại nhìn Sáu Thu. Nàng có cảm giác đang đi chông chênh giữa bờ vực thẳm. Rồi nàng hỏi bằng một giọng khó khăn, mất vẻ ròn rã, đằm thắm lúc bình thường:
– Ông cho rằng tôi sẽ bị liên đới, bị điều tra?
Sáu Thu chỉ trả lời Nguyệt bằng một cái nhìn thật lâu rồi bằng một cái gật đầu thật khẽ. Chờ cho Nguyệt đã thấm cơn sợ hãi vào đến tận tim óc, ông ta mới nói:
– Tôi chỉ có thể gỡ được cho cô bằng cách... bằng cách... nhận cô là người của tôi. Tôi bảo đảm cho cô bằng chính quá trình Cách mạng của tôi, may ra thì mới xong vụ này.
Nguyệt nhún vai:
– Tôi không muốn làm phiền ông nhiều như thế. Vả lại tôi tin tưởng ở Cách mạng. Tôi không làm bất cứ điều gì sai trái.
Sáu Thu đứng dậy, đi lại chậm rãi ở quanh trong phòng. Một lát, ông ta nói:
– Cô Nguyệt a. Tôi phải thành thực nói với cô rằng Cô hãy suy nghĩ kỹ đi. Cách mạng sáng suốt thật, nhưng Công an chỉ là thành phần thi hành một cách triệt để và không khoan nhượng. Tôi e rằng ở bên đó, cô sẽ không chịu nổi mọi sự dày vò. Cô không thể giữ cho cô trinh trắng mãi được.
Lời nói trắng trợn của Sáu Thu như một gáo nước tạt vào mặt nàng khiến nàng nhợt nhạt hẳn ra và có cảm giác như muốn xỉu ngay tại chỗ. Chẳng cần hình dung, Nguyệt cũng đã thấy số phận của mình ra sao giữa lũ đầu trâu mặt ngựa. Nàng rùng mình khi nghĩ đến quang cảnh một nữ tù bị tra tấn bằng đủ loại trò dã man, bẩn thỉu nhất. Mới chỉ nghĩ thoáng qua, Nguyệt đã thấy người như lên cơn sốt và cổ họng đã đắng, càng đắng thêm.
Lúc này Sáu Thu đã tiến lại bên nàng, cúi xuống đẩy ly nước về phía nàng rồi dịu dàng:
– Cô uống ly nước cho tỉnh táo rồi suy nghĩ lại đi. Chấp nhận là người của tôi, cô sẽ có đủ thứ. Từ chối, cô sẽ mất đủ thứ, kể cả tấm thân ngàn vàng của cô.
Nguyệt nổi giận cầm ly nước định hắt cả vào mặt Sáu Thu. Nhưng nàng tự kiềm chế ngay được. Trong hoàn cảnh này, tạo thêm một kẻ thù, lại là kẻ thù nguy hiểm như Sáu Thu là điều không nên. Cho nên thay vì hắt ly nước, Nguyệt lại bưng lên miệng nhấp. Giòng nước mát lạnh khiến cho nàng tỉnh táo lại, cơn sợ hãi lúc trước giảm hẳn đi nhiều phần. Nguyệt trở lại trạng thái hoàn toàn tự chủ của mình. Nàng nhớ đến lời ông Năm Tỏa: «Bất quá thì cháu bỏ thành phố về quê. Bác có nhiều chỗ quen biết để cháu có thể dung thân».
Lời hứa của ông Năm Tỏa khiến cho Nguyệt mừng rỡ như một kẻ đang đắm đuối giữa dòng chợt vớ được cái phao. Nàng đã phác họa trong đầu những gì sẽ phải làm cấp tốc ngay trong đêm nay. Giã từ nhà in. Giã từ đoàn thể. Giã từ thành phố. Giữ từ bầu không khí ngột ngạt hồ hởi xen lẫn giả trả, nồng nhiệt xen lẫn chán chường, vồn vã xen lẫn nghi kỵ. Bầu không khí vẩn đục. Bầu không khí nhiễm độc. Sản phẩm của một cuộc cách mạng nửa với mà thành quả của nó là một cơn xáo trộn tuy ghê gớm nhưng không cần thiết phải trả với từng cây giá đau thương.
Tuy nhiên trước hết là nàng phải giữ thái độ bình thản, hòa dịu đối với Sáu Thu. Nàng tự nhủ, chỉ một sơ sẩy không thôi, hắn có thể sẽ phá vỡ mọi dự tính của nàng. Nghĩ vậy, Nguyệt đổi lại thế ngồi, nhìn ông ta bằng đôi mắt không ác cảm, và nói bằng một giọng cố giữ cho từ tốn, tự nhiên:
– Thưa ông Sáu, cháu rất cảm ơn nhã ý của ông giúp cháu qua cơn hoạn nạn này. Tuy nhiên, cháu còn cần thì giờ về thu xếp công việc đoàn thể ở bên cơ sở ngành in...
Sáu Thu nhíu mày nhìn Nguyệt như đánh gia tầm mức thành thực của nàng. Cử chỉ ấy, ông ta chỉ để lộ thoáng qua một giây, rồi vẻ mặt trở lại hết sức vồn vã, đượm nhiều nét vui mừng:
– Thế thì tốt cô Nguyệt ạ. Tôi mừng vì có có quyết định sáng suốt. Trong khi chờ đợi cô, mời cô uống ly nước này để chúc mừng sự việc tai qua nạn khỏi.
Ông ta nâng ly nước lên chờ đợi Nguyệt. Rồi cả hai uống cạn ly. Lúc Nguyệt đặt cái ly xuống bàn, nàng có cảm giác xây xẩm. Trong một giây thoáng qua, nàng rợn người lên vì một cảm giác sợ hãi chợt ùa đến, sợ hãi hơn cả lúc nàng hình dung ra quang cảnh một lũ đầu trâu mặt ngựa quây quần xâu xé nàng. Toàn thân của Nguyệt như đóng băng lại. Nàng cố để cho mắt không hoa lên. Nàng cố vận dụng mọi khả năng còn sót lại để điều khiển chân tay như đang bắt đầu thoát ly khỏi sự kiểm soát của nàng. Nhưng nàng bất lực. Nàng thấy mọi vật quanh nàng quay đảo rồi tối sầm. Bên tai loáng thoáng, nàng chỉ còn nghe được tiếng cười hể hả của ông Hồng Phát, lúc đó vừa mở cửa ở căn phòng bên bước ra