CHƯƠNG VII
Đã hơn hai tuần nay, Nguyệt không ra khỏi nhà.
Nàng cũng không bước ra khỏi căn phòng xinh xắn của nàng ở lầu trên. Mẹ nàng tưởng nàng ốm nên sau khi ở chợ về, bà cụ vẫn lên săn hỏi tình hình sức khỏe của nàng. Nhìn vẻ mệt mỏi, rã rượi của Nguyệt, bà cụ dần dà không tin là Nguyệt ốm. Bà có cảm giác con gái đang gặp chuyện gì bất thường. Nhưng vốn Nguyệt ít nói. Từ khi tham gia công tác đoàn thể, nàng hay có thái độ lầm lì. Biết tính con như vậy, nên bà cũng không muốn tọc mạch đi sâu vào những việc riêng tư của nàng. Trên đầu giường, bà cụ chất đầy cam, táo cho Nguyệt. Sau cuộc đánh tư sản, bà mất nhiều nhưng không mất hết. Chợ trời sau một thời gian vắng bóng, nay lại họp trở lại, đông hơn xưa, nhiều hàng họ hơn xưa. Bây giờ, môi trường buôn bán của bà là ở đấy, dễ chịu, thoải mái, làm giàu còn nhanh chóng hơn trước. Cuộc cách mạng về quan hệ sản xuất mà thành ủy gọi là triệt để và không khoan nhượng chỉ đem lại cái thành quả thay bậc đổi ngôi: Dân hưởng thụ, tung tẩy mua sắm khi trước nay lui xuống làm dân chợ trời. Còn thành phần tung tẩy đi mua sắm bây giờ, là hàng ngũ của giai cấp mới, giai cấp có quyền lực, và những vợ con của những cán bộ quyền lực nằm trong giai cấp ấy. Chỉ chết có thành phần nhân dân lao động và những công nhân viên chức tép riu thuộc những xí nghiệp, những tổ hợp, những trường học và cả các cơ quan hành chánh nhà nước. Lớp người này, vì hãi hùng đời sống khủng khiếp của những vùng được gọi là kinh tế mới, vì cố bày tỏ thiện chí với chế độ mới mong hồ sơ được xóa bỏ nguồn gốc cũ của mình, tất cả đã cố bíu lấy đời sống rách nát ở Sàigòn qua đồng lương chết đói mà nhà nước qui định. Đi làm bây giờ không có nghĩa là để nuôi sống bản thân (đừng nói chỉ nuôi gia đình) nhưng là để có an ninh cho bản thân. Khi được chấp nhận hợp pháp rồi, người ta mới bung ra ngoài xã hội để kiếm sống bằng đủ loại ngành nghề: chạy mối, buôn lậu, sửa xe, đạp xe, bán quán, hoặc ngay cả làm điếm nữa. Sà igòn quả có khác Hà nội. Khác rất xa. Nếu ngày xưa, sau công cuộc cải tạo, Hà nội như một con bệnh bị rút hết máu khỏi cơ thể, và sau đó cứ tồn tại trong sự thoi thóp thở với thể xác gầy mòn, xanh xám của mình, thì bây giờ, sau những ngày cải tạo, Sàigòn vẫn ồn ào, náo nhiệt như bao giờ, nhờ nguồn tiếp tế không ngưng nghỉ của những người đã sống lưu vong ở nước ngoài.
Nền kinh tế tư sản đã ngóc đầu dậy. Đúng thế, nó phải ngóc đầu dậy để nuôi sống tình cảnh èo uột, thảm hại của nền kinh tế Xã Hội Chủ Nghĩa. Đó là một sự thực, có vẻ trái khoáy, nhưng không ai có thể chối cãi được.
Trên đầu giường của Nguyệt có đầy đủ mọi loại hoa quả và thuốc men, nhưng nàng không muốn nhúc nhích đến cả ý nghĩ của nàng. Nguyệt như nghe toàn thân rũ liệt. Nguyệt nghe như sự ô uế, nhờm gớm đang gậm nhấm từng tế bào, từng đường gân, thớ thịt của nàng. Có những lúc cơn giận bỗng bùng dậy, nàng thấy như máu của mình sôi lên, nàng muốn la hét, muốn đập phá, muốn thiêu đốt, muốn hủy diệt chính mình. Nhưng phút ấy chỉ thoảng qua, như một cơn gió nóng thổi vào tâm hồn lạnh băng của nàng, rồi sau đó nàng lại trở về trạn thái rũ liệt, tức tủi, thầm lặng.
Nguyệt đã chịu đựng cơn xúc động, ê chề ấy trong gần hai tuần lễ. Nàng không tiếp xúc với ai. Không nghĩ ngợi gì đến công việc đang dang dở ở nhà in, ở đoàn thể, đến cả vụ «Phản động tình báo chiến lược» đã đưa nàng tới tình trạng tủi nhục như hiện nay.
Nàng không chờ đợi ai, và mong đừng có ai nhớ đến mình. Nàng muốn biến khỏi cuộc đời này, biến khỏi luôn trong cả trí nhớ của mọi người. Nhưng cơn xúc động cùng cực ấy cũng phải có lúc nguôi ngoai. Nguyệt nằm một chỗ nên có cơ hội suy ngẫm về mọi sự đã xẩy ra từ ngày Sàigòn bị sụp đổ. Nàng đang tự lột xác thêm một lần nữa. Toàn là người đã băn khoăn thắc thỏm về nàng nhiều nhất. Mấy ngày đầu vắng mặt Nguyệt, Toàn thản nhiên như không có chuyện gì xẩy ra. Rồi một tuần lễ trôi qua, Nguyệt vẫn không trở lại làm việc. Toàn bắt đầu lo. Chàng hình dung ra đủ mọi loại trường hợp để cắt nghĩa sự vắng bóng của Nguyệt, và bao giờ Toàn cũng rợn người khi nghĩ đến Nguyệt có thể đã bị giam giữ để điều tra.
Sau cùng, Toàn tìm đến nhà Nguyệt. Nhờ quen biết từ trước, Toàn được trong nhà ra mở cửa và được cho biết Nguyệt đau từ hai tuần nay, không muốn tiếp bất cứ một ai.
Từ hôm đó, ngày nào đi làm về, Toàn cũng ghé nhà Nguyệt. Trước thì chàng chỉ ngồi một mình trên ghế salon, hút thuốc liên miên rồi lủi thủi ra về. Một hôm cuối tuần, Toàn không thể chịu đựng được nữa, đã nhờ đưa một mảnh giấy lên lầu. Chàng viết: «Em ơi! Dù thế nào thì em cũng cho anh gặp em, thăm hỏi sức khỏe của em. Anh vẫn yêu em như ngày nào. Anh đã rất hối tiếc về những gì đã xảy ra trong thời gian qua. Anh mong em tha lỗi cho anh. Toàn».
Lần ấy, Toàn cũng chưa được gặp Nguyệt nhưng đã được nàng hẹn trở lại ngày hôm sau. Nguyệt đã qua cơn khủng hoảng của nàng. Nàng đã trở lại với con người hoạt động mọi ngày. Nàng chỉ có một vài thay đổi trong tâm tình. Ý nghĩ của nàng lạnh lùng hơn, sắt đá hơn, và nàng che dấu một mối căm thù chỉ có một mình nàng hiểu rõ. Nàng đã lựa chọn cho mình một con đường.
Hôm gặp Toàn, Nguyệt vẫn đẹp rực rỡ như ngày nào, mặc dù nàng vẫn còn đôi chút mệt mỏi. Nàng tiếp người yêu cũ với một vẻ bình thản đến độ chính nàng cũng không ngờ. Còn Toàn thì mừng rỡ ra mặt. Chàng chạy bổ lại phía nàng, vừa nắm lấy tay nàng vừa thốt lên:
– Em Nguyệt!
Nguyệt gỡ tay chàng ra và đẩy chàng ngồi xuống ghế. Hai người đối diện nhau. Đã lâu lắm họ mới ngồi gần nhau mà lòng không vướng bận về sự hậm hực hay chán chường. Toàn nhận ra rằng tình cảm giữa chàng và Nguyệt vẫn còn hoàn toàn nguyên vẹn. Những ngày không gặp Nguyệt, Toàn thấy nhớ nhung. Những hôm ngồi chờ Nguyệt ở căn phòng phía dưới, Toàn xót xa khi nghĩ đến cơn bệnh tật mà nàng phải chống trả. Có nhiều hôm buồn quá, Toàn chạy đi tìm Hoàng. Chàng thổ lộ:
– Tôi có nhiều mâu thuẫn thật là khó hiểu. Nhiều khi tôi yêu Nguyệt đến độ có thể chấp nhận bất cứ chuyện gì nàng đã làm, bất cứ quan điểm nào nàng đã có. Nhưng cũng có lúc, tôi lại nhìn nàng mà không xóa bỏ được ý nghĩ nàng là kẻ phản bội.
Hoàng hỏi lại:
– Xã hội cũ, một xã hội đảng duy trì lại lắm sao? Vả chăng, đâu phải chờ đến bây giờ mới có vấn đề phản bội đúng nghĩa chữ phản bội. Trước kia, dưới chế độ cũ đã có thiếu gì người phản bội ngay chính hàng ngũ của họ, tỷ như bọn buôn súng, buôn gạo, buôn thuốc tây bán cho CS. Họ lại là những kẻ có quyền thế trong xã hội. Họ đáng bị kết án phản bội hơn bất cứ ai khác, tại sao cậu không đề cập tới mà lại chỉ chĩa mũi dùi vào những người trẻ, có lòng như Nguyệt.
Toàn không trả lời được câu này. Nhưng chàng cũng không thấy thoải mái khi chấp nhận điều mà Hoàng vừa gợi ý ra. Tâm trạng của Toàn hoang mang, dao động, như một kẻ đối diện với sự thực mà không muốn chấp nhận sự thực. Hoàng tiếp tục nói:
– Phải công bằng mà xét, những người chấp nhận hợp tác với chế độ mới từ những ngày đầu, không phải chỉ xuất phát từ có mỗi một động cơ. Hoạt đầu có, cơ hội chủ nghĩa có, ham vui có, mà lý tưởng thì cũng có chứ. Tại sao cậu không thể có ý nghĩ rằng Nguyệt là một con người lý tưởng. Nàng không bị giàng buộc nhiều với quá khứ nên rất dễ dàng rũ bỏ cái quá khứ đầy dẫy những điều tồi tệ ấy để mong xây dựng được một cái gì tốt đẹp hơn. Chiến tranh là một cái gì đè nặng lên tất cả mọi người. Khi chiến tranh chấm dứt, người ta dễ dàng chấp nhận một cuộc hành trình đi vào một ngã rẽ mới, bất kể sự tìm hiểu cái ngã rẽ đó sẽ đưa mình tới đâu. Nguyệt là một trong những mẫu người đó.
Toàn suy nghĩ rồi đáp:
– Tôi không có lập luận gì để lên án cung cách chọn lựa của nàng. Tôi chỉ thấy một điều, là Nguyệt sinh ra không phải để đặt mình vào những môi trường hoạt động ấy. Nàng hoàn toàn không thích hợp với những nhiệm vụ như thế.
Hoàng mỉm cười:
– Thế thì nhận định của cậu mới chỉ ở bước đầu trong tiến trình nhận thức, tức là nhận thức cảm tính. Căn cứ vào nhận thức cảm tính mà không phán đoán, không phối hợp với thực tiễn để kiểm chứng thì làm sao cậu có thể kết luận một cách chắc nịch như thế được.
Toàn trả lời:
– Kể ra cũng có nhiều khi tôi lờ mờ cảm thấy mình đã suy nghĩ bất công cho nàng. Nhưng tôi không ưa lý luận, tôi chỉ nghe theo tiếng nói của trái tim.
– Thế thì cậu phải đọc nhiều về lô-gích biện chứng. Ở cái xã hội này, dù muốn hay không, cậu cũng phải đương đầu với nhiều vấn đề, nhiều hoàn cảnh, nhiều sự việc. Nếu không trang bị cho mình một lề lối lý luận, cậu sẽ bị thiệt thòi rất nhiều.
– Tôi đâu có tranh chấp với ai mà nói chuyện thiệt thòi. Chỉ những người lăn xả vào xã hội như Nguyệt thì mới cần trang bị lý luận mà thôi.
– Thì cậu đang chịu đựng sự thiệt thòi đấy, khi cậu xa cách với Nguyệt mà không có cơ nguyên chính đáng. Chưa chịu tìm hiểu rõ ràng mà đã vội vã quyết định hành động, thể có phải là một sai lầm đáng trách không.
Sự gợi ý của Hoàng khiến cho Toàn như thoát ra khỏi tâm tình u tối mà chàng cứ ôm lấy mãi trong thời gian qua. Xét cho cùng, Nguyệt vẫn chưa làm điều gì có hại cho những người làm việc chung với nàng.
Trong cơ sở ngành in, chưa hề có ai bị tố cáo mặc dù đã có nhiều người phát ngôn hết sức phản động. Những nổ lực mà Nguyệt đã dành cho mọi công tác ở đây đều là những nổ lực làm đẹp cho cơ sở: tình trạng vệ sinh khá hơn, vấn đề bảo toàn lao động được áp dụng tối đa trong phạm vi khả năng có thể làm được, công nhân có chỗ làm việc thoáng khí hơn, rộng rãi hơn, các quy trình làm việc hợp lý hơn, đặc biệt là phong trào thể dục, thể thao lên rất cao, điều mà trước đây chưa một cơ sở in nào trong thành phố đặt ra cả. Ngần ấy thứ, nếu có tinh thần khách quan, phải kể là công lao của Nguyệt.
Xét cho cùng, Nguyệt chỉ có một điều sai lầm là nàng đã quá vội vã tin theo con đường mà nàng chọn lựa trước khi biết rõ thực chất của nó. Nhưng đó không phải là lỗi ở Nguyệt. Nàng chỉ có lỗi khi nàng cứ bám chặt lấy con đường ấy ngay cả khi đã nhìn ra bản chất tồi tệ của nó. Như vậy, nàng cần có thời gian để «trắng mắt» ra. Mà muốn đốt thời gian cho ngắn lại, Nguyệt cần sự giúp đỡ, gợi ý và ngay cả những kinh nghiệm của những người đã kinh qua. Toàn cho rằng không ai đem lại cho nàng những bài học thực tiễn bằng Phạm Ngọc Hoàng. Hoàng sẽ kéo nàng ra khỏi cơn mê muội, sẽ cho nàng thấy con đường nàng đang theo đuổi đã có một cái đích vô cùng rõ rệt mà nàng có thể thấy trước: đó là những quang cảnh điêu tàn, đen tối ở miền Bắc. Chưa đi hết quãng đường mà đã nhìn thấy cái đích tồi tệ rồi thì còn tiếp tục cố gắng làm chi nữa cho mất công!
Đã lâu không ngồi tâm tình riêng với Nguyệt, Toàn cảm thấy lúng túng. Hai người như có một khoảng cách mà Toàn cố gắng tìm cách để vượt qua. Sau cùng, chàng lên tiếng:
– Nguyệt ạ. Anh rất hối tiếc vì thái độ của anh đối với em trong thời gian qua.
Nguyệt nhìn Toàn đáp:
– Như thế là phải chứ. Còn hơn là anh vẫn cứ tới với em, nhưng lòng đầy giả dối.
Toàn ngẫm nghĩ một lát rồi ngập ngừng:
– Nhiều khi anh cảm thấy mình đầy mâu thuẫn. Có lúc anh ghét em thậm tệ. Nhưng cũng có lúc anh thấy em thật tuyệt vời trong những việc em đã làm ở nhà in Hồng Phát. Anh cũng không hiểu tại sao nữa.
Nguyệt mỉm cười:
– Đó là vì anh không chịu chấp nhận rằng dưới chế độ mới, nó cũng có cái hay, cũng có cái dở của nó. Đối với anh, bất cứ cái gì thuộc về nó cũng đáng đem sổ toẹt hết.
Toàn bào chữa:
– Nhưng hay ít mà dở nhiều. Và nhìn chung đại thể thì đáng sổ toẹt. Anh nói thế, em có giận anh không.
Nguyệt đáp:
– Anh làm như chỉ có một mình anh là biết nhận xét, còn thiên hạ mù cả.
Toàn ngạc nhiên:
– Thế nghĩa là...?
– Nghĩa là Nguyệt cũng nghĩ như anh vậy. Nhưng Nguyệt không cực đoan, một chiều như anh. Giữ thái độ như của anh, anh sẽ không học hỏi được điều gì cả. Nếu anh già lụ khụ thì không nói, nhưng anh còn trẻ mà ù lì mới là chuyện đáng ngạc nhiên.
– Vậy với em thì em đã học được cái gì?
– Có vô vàn điều có thể học hỏi được, kể cả sự học qua cái hay cũng như qua cái dở. Đời sống chung quanh ta, dù ta không chấp nhận nhưng nó vẫn diễn tiến, vẫn ảnh hưởng trực tiếp đến chính ta. Vậy mà cứ thụ động nhắm mắt quay đi thì có khác gì con đà điểu rúc vào đống cát để tránh gió bão.
– Nhưng học hỏi từ chế độ mới không có nghĩa là chấp nhận chế độ mới, phục vụ cho nó, làm cho nó mạnh lên, và nó tiếp tục cưỡi lên đầu lên cổ chính mình.
– Anh đầy thành kiến và lý luận đơn giản như con nít. Với anh, thì A là A, B là B. Vấn đề đời sống nó đâu có dễ dãi như vậy.
Thấy Toàn im lặng, biểu lộ sự không đồng ý với ý kiến của mình, Nguyệt tiếp:
– Bây giờ cứ giả thử là cái chế độ này nó đang cưỡi lên đầu lên cổ chúng mình. Vậy Nguyệt hỏi anh, thái độ thụ động, im lặng của anh có góp được chút gì vào công cuộc thay đổi tình trạng ấy hay không?
Toàn cãi:
– Đồng ý là không. Anh không có khả năng làm xoay chuyển được tình thế, nhưng ít ra anh cũng không làm cho cái tình thế ấy trở nên tồi tệ hơn bằng cách tham gia, hợp tác để giúp cho chế độ trở thành vững mạnh.
– Anh đã khơi đúng vào vấn đề đấy. Nhưng anh cũng phải khách quan để mà hiểu được rằng sự giúp hay không giúp cho chế độ hoàn toàn tùy thuộc vào nhận thức của mỗi người tham gia. Có những kẻ nhắm mắt tận tụy phục vụ vô điều kiện, mà không hề băn khoăn, thắc mắc gì. Nhưng cũng có người tham gia một cách ý thức, họ vừa học hỏi, vừa chiếm lĩnh những chỗ đứng trong guồng máy. Nếu số ấy đông đảo, ta sẽ có một lực lượng có khả năng làm xoay chuyển được guồng máy đó.
– Thay đổi đường lối, chính sách của Cộng Sản là một chuyện không tưởng.
– Em không lạc quan đến độ cho mình có khả năng làm được công chuyện thay đổi đó, mặc dù em không nghĩ đó là chuyện không tưởng. Nhưng ít nhất, cũng đem lại được những điều dễ chịu hơn cho nhiều người. Thì hãy cứ đi từ cái ước mơ nhỏ đó trước. Biết đâu cả triệu ước mơ nhỏ đó sẽ chẳng hợp thành được cái ước mơ lớn.
Ngưng một lát, Nguyệt tiếp:
– Bao nhiêu năm nay, em đã biết người dân miền Nam trông chờ một lực lượng phục quốc nổi lên lật đổ chế độ này. Đó là nguyện vọng chính đáng và là cung cách tốt nhất để giải phóng những con người nô lệ ở cả miền Bắc lẫn miền Nam. Nhưng sự chờ đợi ấy cho đến nay đã mòn mỏi, trong khi đời sống khắc nghiệt cứ bám sát họ từng ngày từng giờ. Không ai có thể nhịn đói mãi mãi để trông chờ một phép lạ thay đổi. Anh có thấy rằng, ở đây, trong cái xã hội này, bây giờ người ta không còn tin tưởng ở cái phép lạ ấy mà chỉ dám mong những thay đổi nhỏ, những thay đổi có ảnh hưởng trực tiếp đến đời sống của họ. Trước thì người ta chống đối, nguyền rủa chế độ, nay thì chỉ có một chút biện pháp cải cách kinh tế của chế độ như thể cho phép duy trì một số hình thức buôn bán cá thể, mọi người đã vui mừng, hân hoan. Em có cảm giác như anh là kẻ chỉ ngồi trông chờ phép lạ xẩy đến để thay đổi toàn diện, còn em thì chỉ mong cho mọi người được chút vui mừng hân hoan, nhiều chừng nào tốt chừng đó, vì đời sống đã vô cùng khốn quẫn rồi. Chúng mình không gặp nhau là ở chỗ đó.
Toàn mỉm cười:
– Hồi này em lý sự quá. Làm sao anh tranh cãi nổi với một bí thư chi đoàn Thanh niên.
Nguyệt đứng dậy, vừa đi rót nước, vừa nói:
– Anh cãi không được không phải vì anh không có lý luận, nhưng vì anh đứng trên một lập trường vốn đã thua thiệt từ căn bản.
Khi trở lại chỗ ngồi, Nguyệt nói tiếp:
– Để em nói rõ cho anh hiểu thêm về những ý nghĩ của em. Khi em đả kích anh như vậy, không phải là vì em phủ nhận những ước mơ mà anh ấp ủ. Kháng chiến, giải phóng, lật đổ chế độ, điều đó mà thực hiện được thì còn có gì để mà bàn cãi. Đó là giải pháp number one mà mọi người cùng mong muốn. Nhưng mong muốn là một chuyện, dám nhìn thẳng vào thực tế lại là chuyện khác. Anh có nghĩ rằng dân chúng bây giờ chấp nhận thêm một cuộc chiến kéo dài hai mươi năm nữa để giải phóng đất nước không? Người ta vừa sống chui rúc, đày đọa ở thành phố, vừa tỏ lòng mong ngóng những lực lượng ở rừng về. Nhưng nếu có người rủ chạy ra rừng để chiến đấu thì có mấy ai dám bỏ thành phố để đi theo, dù rằng đời sống ở đô thị giờ bây tồi tệ đến dưới mức tối thiểu làm người. Nhưng nói như vậy, không có nghĩa là hiện nay không có những lực lượng chống đối ở đâu đó rải rác trong rừng. Em rất kính phục những con người có can đảm tiếp tục chiến đấu. Họ cũng nắm giữ một vai trò trong cuộc chiến đấu chung, nhưng đó không phải là vai trò duy nhất.
Ngừng một lát, Nguyệt đổi đề tài nói chuyện qua vấn đề khác. Nàng hỏi:
– Anh Toàn! Khi anh quay trở lại thăm em, anh chờ đợi gì ở em?
– Sao em đặt câu hỏi gì kỳ quái vậy. Anh thăm em là để thăm em, không đủ sao mà còn phải có sự chờ đợi ở em cái gì.
Nguyệt nghiêm giọng:
– Em cảm ơn nhã ý ấy của anh. Nhưng em hết sức nghiêm chỉnh chứ không phải rỡn chơi. Em nhận thấy phải nói thẳng với anh ngay từ bây giờ rằng giữa chúng mình từ nay chỉ còn tình bạn.
Toàn tê tái, lặng điếng người tưởng như vũ trụ xung quanh vừa sụp đổ. Phải mất một lát sau, chàng mới cất được tiếng:
– Sao vậy em? Em không cho anh cái cơ hội hàn gắn những sứt mẻ giữa anh và em trong thời gian qua hay sao?
Nguyệt bỏ chỗ ngồi của mình, tiến lại bên Toàn, nắm lấy tay chàng, giọng đầy xúc động:
– Anh Toàn! Em xin lấy danh dự của em mà nói rằng em không giận gì anh về những chuyện đã qua cả, mặc dù có đôi lúc em cũng thất vọng ghê gớm lắm. Nhưng đó không phải là một lý do, khiến cho em đi tới quyết định ngày hôm nay.
Toàn nói như nghẹt thở:
– Em đã có người yêu khác? Nguyệt mỉm cười lắc đầu:
– Lại càng không phải nữa. Hình ảnh người tình duy nhất trong tim em bây giờ, vẫn là anh!
Toàn như người vừa có đôi cánh bay bổng được lên trời xanh. Chàng reo lên mừng rỡ như một đứa trẻ được hứa hẹn cho quà. Giọng chàng rối rít:
– Như thế thì còn có cái gì có thể ngăn cách chúng mình được. Anh cũng thề danh dự với em rằng người tình duy nhất trong tim anh là em. Anh chỉ yêu em và sẽ yêu em mãi mãi.
Nguyệt trở lại chỗ ngồi của mình. Nàng nhìn Toàn rất lâu với sự xúc động mà nàng hết sức kìm giữ để cho nước mắt không trào ra khỏi đôi mi mọng ướt. Lát sau, nàng đổi giọng lạnh lùng:
– Anh Toàn ạ! Em có vấn đề của riêng em. Em xin anh đừng hỏi thêm xem nó là vấn đề gì. Sẽ có một ngày kia, em có thể nói hết cho anh nghe. Nhưng bây giờ, em đã quyết định rồi. Giữa chúng ta chỉ còn là tình bạn!
Toàn nhìn Nguyệt, vẻ băn khoăn, thương xót. Rồi chàng nói:
– Anh tôn trọng những điều riêng tư của em. Nhưng anh vẫn có quyền của riêng anh. Quyền chờ đợi cho đến khi em đổi ý.
– Em sẽ không bao giờ đổi ý.
– Mặc kệ em! Anh cứ chờ!
– Anh sẽ thất vọng. Thất vọng sâu xa. Và khi đó, anh sẽ thấy anh uổng công chờ đợi.
– Em không là anh, làm sao em biết được rằng anh sẽ thất vọng. Anh có thể khẳng định với em rằng, dù trong bất cứ hoàn cảnh nào, bất cứ một sự oan trái nào, anh cũng vẫn yêu em.
Nguyệt mỉm cười chua chát:
– Em cảm ơn tình yêu đó của anh. Nhưng nó cũng sẽ không thay đổi gì được cả đâu. Mà thôi, chuyện cần nói, em đã nói với anh rồi. Em rất vui khi nghĩ rằng còn có anh là bạn.
Toàn nhanh nhẩu:
– Anh sẽ là bạn của em suốt đời.
Rồi chàng mỉm cười tiếp:
– Cái đó gọi là «bạn đời» đó em.
Nguyệt bật lên cười. Nụ cười hồn nhiên cố hữu của nàng đã trở lại lần đầu tiên sau hơn hai tuần nay. Khuôn mặt của nàng mang vẻ rạng rỡ, như tâm hồn của nàng vừa hé qua khỏi đám mây u uất đề chĩu từ nhiều ngày qua. Lát sau, Toàn nói:
– Nhân nói tới bạn, anh muốn giới thiệu em với một người bạn mới. Một người vừa có trình độ, vừa có thể tin cậy được.
– Ai thế?
– Nhà văn Phạm Ngọc Hoàng.
– A! Ông nhà văn miền Bắc vào Nam tham quan với đề cương nghiên cứu: «Vai trò của người Phụ nữ tại vùng mới giải phóng trong công cuộc xây dựng Chủ Nghĩa Xã Hội». Ai thì em không kể, chứ anh mà lại nói tin cậy được một người đến từ miền Bắc thì là chuyện lạ!
– Anh cũng cho là lạ, nhưng đó là chuyện thực đã xẩy ra. Anh và Hoàng đã trao đổi với nhau đủ mọi vấn đề. Thẳng thắn, cởi mở, và không dấu diếm nhau điều gì cả.
– Cái gì đã khiến cho anh tin tưởng đó là những điều thành thật?
Toàn đáp ngay:
– Một tấm lòng! Hoàng là kẻ rất có lòng. Anh ta đầy nhân bản, dù được nhào nặn trong xã hội Xã Hội Chủ Nghĩa.
Rồi Toàn kể cho Nguyệt nghe tất cả những gì mà chàng biết được về Hoàng, kể cả quan điểm của Hoàng đối với chế độ. Chàng nói tiếp:
– Càng ngụp lội trong xã hội miền Bắc, con người càng thấy rõ thân phận của mình. Họ hiểu Cộng sản hơn mình hiểu. Họ biết rõ đời sống riêng tư của những lãnh tụ hơn mình biết. Họ khát khao thay đổi hơn mình khát khao. Nhưng khát khao không thôi, chưa đủ. Họ biết thế nhưng họ không thể làm được gì khác hơn. Cái khuôn Xã Hội Chủ nghĩa ở miền Bắc đã khô cứng và giam chết những ước vọng của từng cá nhân trong xã hội rồi. Như thể những hạt giống nằm giữa một khuôn đổ xi măng. Chỉ héo hon, rồi tàn lụi. Nhưng sau ngày 30 tháng tư, miền Nam đem lại cho họ một niềm hy vọng mới. Anh ta khẳng định: miền Nam không giống miền
Bắc. Ở đây, những hạt giống ước mơ có thể nẩy mầm. Theo em, nhận xét đó đúng hay không?
Nguyệt đáp:
– Điều đó đúng! Em cũng thấy điều đó, và nhiều người mà em đã tiếp xúc, cũng thấy điều đó. Ông Năm Tỏa là một thí du.
Toàn reo lên:
– A! Ông già cán bộ miền Nam, đại diện Công Đoàn Quận, do Sáu Thu cử về.
Hai tiếng Sáu Thu vừa được Toàn nhắc đến khiến cho Nguyệt xây xẩm. Nàng chợt thấy lạnh ngắt cả chân tay, và cổ họng dợm dợm muốn ói. Nàng bấu lấy hai tay ghế với vẻ mặt đang hồng hào chợt nhợt nhạt đi. Toàn nhận ra được sự thay đổi ấy vội vàng nói:
– Hình như em bị trúng gió. Có làm sao không? Nguyệt trả lời mệt mỏi:
– Tại em vừa ốm dậy, nên ngồi nói chuyện lâu sinh ra như thế.
– Thôi để anh về cho em đi nằm nghỉ.
Nguyệt không đáp, gắng gượng đứng dậy khỏi ghế. Lúc Nguyệt tiễn chàng ra đến cửa, Toàn nắm tay Nguyệt nói:
– Em Nguyệt! Anh rất vui khi thấy mình không vì những sự sứt mẻ vừa qua mà không còn nhìn mặt nhau. Xin em ghi nhớ một điều: Anh yêu em. Mãi mãi yêu em.
Nguyệt nở một nụ cười gượng gạo trên vành môi nhợt nhạt. Nàng đang mang tâm trạng của một kẻ đã vĩnh viễn đánh mất cuộc sống êm đềm, tươi đẹp của một con người bình thường với những ước mơ bình thường. Chuyến tàu hạnh phúc duy nhất của mỗi đời người đã rời bến đi xa. Để lại một mình nàng trên ga vắng với cả một cõi lòng băng giá...