← Quay lại trang sách

- 3 -

Ánh làm thư ký ở nhà in Minh Tân, được thầy Ba và thầy Tư rất tín dụng. Minh Tân là một nhà in lớn, máy móc tối tân được mua ở Nhật và ở Đức về khá nhiều. Công việc phần lớn là thầu các đồ in của các Bộ, các Nha và các Công sở.

Chữ mới rất nhiều và toàn là chữ mua tận bên Pháp về. Công việc đã bề bộn, hai anh em thầy Ba lại còn mở thêm một ngành xuất bản sách.

Một mình cô Lê thị Ánh làm thư ký phụ trách cả ngành hoạt động: ấn loát, và xuất bản.

Nói đúng ra, không phải là do thầy Tư mê cô nên muốn cất nhắc cô lên và tăng tiền lương của cô từ hai ngàn đồng đến hai ngàn năm trăm đồng.

Không phải vậy đâu.

Vì ai cũng biết tánh thầy Tư, tuy là mê gái đẹp nhưng rất hà tiện. Có keo bẩn như thế thì hai anh em Thầy mới giàu có bạc triệu như thế! Thầy hà tiện cho đến đỗi mỗi lần thầy đang đi trong văn phòng mà trông thấy một cái đinh ghim rớt nằm trên gạch hoa là thầy lập tức cúi xuống lượm lên, lau chùi sạch sẽ rồi bỏ cẩn thận vào hộp ghim trên bàn giấy của thầy. Xuống dưới xưởng in, lỡ mà thầy gặp một anh thợ nào vô ý làm rớt xuống đất vài ba chữ chì, không lượm bỏ trở lại vào hộc chữ thì phải biết, thầy mắng cho một trận nên thân. Anh em thợ nhà in thỉnh thoảng có chuyện nhà cần thiết phải xin phép nghỉ một buổi, là thầy trừ tiền lương ngay. Chẳng hạn như anh Sáu Long có cợ vừa chết, xin nghỉ ba ngày để lo đám tang và mượn trước thầy nửa tháng lương, không những thầy Tư không cho mượn tiền mà đến ngày trả lương lại còn trừ mất của anh ba ngày ấy nữa!

Cô Ánh rất bực mình vì trên bàn giấy của cô không được một lọ keo để dán thư. Cô khẽ bảo với anh tùy phái xin tiền thầy Tư để đi mua một bình keo. Nhưng anh tùy phái cười:

- Ý! Cô không biết, lần trước cô Năm cũng có xin tiền mua ve keo đã bị thầy rầy rồi đa! Thẩy biểu xuống nhà in lấy hồ lên mà dán.

Cô Anh thấy văn phòng lớn như thế mà phải xuống chỗ thợ máy để xin một quệt hồ đem lên dùng thì có vẻ bần tiện quá. Hôm lãnh lương, cô tự bỏ tiền túi ra 25 đồng để mua một bình keo Nacra. Hôm sau thầy Tư trông thấy, trố mắt hỏi cô:

- Bình keo có lấy trên bàn giấy của anh tôi, hả cô Ánh?

- Dạ thưa thầy Tư, tôi mua ngoài tiệm.

Thầy Tư dịu giọng nhe răng cười:

- Ừ, thứ này xài tốt lắm, cô à.

Nói thế rồi thầy đi luôn, biệt có hỏi là cô lấy tiền ở đâu mà mua lọ keo tốt ấy.

Hai anh em thầy Tư hồi trước học hành không ra gì. Con trai bà chủ tiệm cầm đồ hồi thời Pháp thuộc, bà cắt cổ mổ họng đám người nghèo túng đem cầm cố tài sản, để cho bà làm giàu. Bà có hai cậu con trai đi học. Thầy Ba đỗ bằng Tiểu học rồi, nhưng chơi bời lêu lỏng, lấy bốn người vợ toàn là gái điếm cả. Còn thầy Tư thì chưa được cái bằng tiểu học nữa, nhưng bị mẹ bắt ở nhà để chép sổ sách tiệm cầm đồ và làm biên lai cho người đem đến thế áo quần, đồng hồ, xe máy, chậu đồng, mâm thau, đủ thứ… Các cô các bà thua tứ sắc, hay cần tiền buôn bán thì đem đến cầm vòng vàng, xuyến, nhẫn, cà rá, hột xoàn, đáng giá 1000 đồng thì chỉ cầm 200 đồng, rồi quá hạn không có tiền chuộc về là mất tiêu! Nhờ ở gần bà mẹ làm nghề ấy nên thầy Tư tập được cái tánh đặc biệt, là keo bẩn. Sau thầy lấy con ở, một con ở dốt nát bẩn thỉu, dụ dỗ ở dưới Sađéc đem về để khỏi tốn tiền cưới vợ. Nhưng con đầy tớ đó có chửa, rồi có quân sư bày vẽ cho nó, nó vòi tiền thầy. Thầy đánh đập tàn nhẫn, cho nó một số tiền rồi đuổi nó đi. Thầy lấy con ở khác cũng thế. Bây giờ thầy có bốn vợ, đều là bốn con ở cùng một điệu như thế cả. Một hôm, bốn đứa ở cũ toa rập với nhau kéo nhau làm đơn ra tòa kiện thầy. Tòa bắt thầy Tư phải cấp dưỡng cho cả 4 người. Tại vậy mà bây giờ thầy Tư có bốn vợ. Từ đấy, thầy không dám nuôi đầy tớ nữa và cũng không dám kiếm vợ khác nữa.

Đối với cô thư ký Lê thị Ánh, thầy mê sắc đẹp của cô, thèm muốn cô lắm. Nhưng biết Ánh có sức học giỏi hơn thầy, và thấy Ánh lúc nào cũng có bộ mặt nghiêm nghị, thầy đâm ra...nể cô. Thỉnh thoảng nói đùa vài câu, bị Ánh làm nghiêm không trả lời, thầy mắc cỡ không dám hó hé. Nhưng mặc dầu thầy Tư Quản lý chưa chiếm được tình yêu của cô thư ký, thầy vẫn muốn có cô giúp việc ở văn phòng, vì Ánh làm việc đắc lực, Ánh có nhiều khả năng và nhiều đức tính tốt, nhất là cô làm việc rất chuyên cần, tận tụy, hơn cô Năm nhiều.

Trong thâm tâm thầy vẫn muốn ‘‘lấy’’ cô Ánh lắm. Thầy định dần dà thân mật với cô, quyến rủ cô, rồi chờ một cơ hội thuận tiện nào đó, thầy sẽ..,thầy sẽ... Nhưng đó là ý nghĩ thầm kín của thầy Tư, thầy có dám thố lộ cho ai biết đâu.

Ánh bây giờ nghiễm nhiên thành cô thư ký ở văn phòng. Ai đã biết rõ đoạn đời dĩ vãng của cô, ai đã thấy đứa đầy tớ cũ của bà Minh Tú, mới trước đây vài ba năm hãy còn đi gánh nước thuê, còn xách giỏ đi chợ, chân không mang guốc, Tay xách hủ mắm, tay cầm cái chổi tàu cau, đầu đội nón rách, mình mặc áo bà ba vá vai, quần vá ống, trông bộ tịch nghèo nàn ai cũng khinh rẻ, mà bây giờ lại thấy cô ngồi làm việc trong văn phòng với chiếc áo dài trắng thướt tha yêu kiều, hai bàn tay nõn nà nhấn phớt qua dịu dàng mềm mại trên bàn máy chữ có vẻ diệu hiền, duyên dáng, thì ai cũng khâm phục chí tự lập, nhẫn nại và chuyên cần của cô, thành công với bao nhiêu mồ hôi nước mắt.

Người ngạc nhiên trước nhất là ông giáo sư Ngọc Minh. Té ra ở đời thường có những ngẫu nhiên rất lạ lùng khó hiểu, Đời sống của mỗi người như pho tiểu thuyết, do bàn tay định mệnh đã bố trí, sắp đặt sẵn sàng từ hồi nào, mà mỗi người chúng ta là một vai chính. Biết bao nhiêu sự kiện xẩy ra cho chúng ta là người ngạc nhiên trước hết. Mỗi việc gì chúng ta làm, mỗi hành động, cử chỉ của chúng ta, hình như quả thật có một số kiếp huyền bí đã sắp xếp trước đâu vào đó hết! Nếu không, thì tại sao Ánh đã từ giã nhà bà Mình Tú và xách gói quần áo rách ra đi đến bây giờ gần hai năm rồi, còn ông giáo sư Ngọc Minh đã dọn nhà ở riêng tận miệt Thị Nghè, thế mà ngẫu nhiên gặp lại Ánh, đứa ở cũ mà ông đã yêu tha thiết, say mê, tìm kiếm, nhớ nhung, gần như tuyệt vọng, ông Ngọc Minh đâu có ngờ là bây giờ Ánh làm thư ký ở một nhà in đồ sộ như thế nầy, ông có ngờ đâu cô thư ký đang ngồi đánh máy kia, là Lê thị Ánh? Có phải Ánh thật không? Nhưng ai mà giống Ánh y như hệt thế kia?

Ông Ngọc Minh vừa buớc vào cửa văn phòog nhà in, tay xách một cặp da, vừa trông thấy thiếu nữ ngồi đánh máy ở bàn giấy trước mặt ông, ông sửng sốt đứng yên, đăm đăm nhìn cô. Nhưng cô chăm chỉ đánh máy một bức thư dài, không ngước mắt lên, không trông thấy ông. Vẻ mặt Ánh điềm nhiên, và đẹp hơn Ánh hồi nào, nhưng vẫn đượm nét buồn hấp dẫn, một quyến rủ huyền ảo xa xăm.

Một phút ông do dự. Nỗi lòng hồi hộp, xúc động liên miên, ông biết nói sao với Ánh, trong một tình thế khác hẳn trước kia, ông mừng rỡ vô cùng, mà ông cũng bỡ ngỡ vô cùng. Nhưng có phải thật Ánh đó không?

Trong văn phòng chỉ có một mình cô thư ký ngồi đánh máy, cô không để ý đến ai cả, theo thói quen của cô như thế, trừ khi có ai đến gần hỏi cô việc gì cô mới ngưng việc để trả lời rất dịu dàng nhã nhặn. Ông giáo sư Ngọc Minh đứng cách xa, lặng lẽ, không lên tiếng. Ông toan đến gần chào Ánh ngay, và hỏi chuyện Ánh, nhưng ông còn ngập ngừng...

Thầy Tư Quản lý, từ dưới xưởng máy đi lên. Trông thấy khách thầy vồn vã bước ra chào:

- Thưa ông hỏi có việc chỉ?

Ông giáo sư Ngọc Minh mỉm cười:

- Tôi có một quyển sách, muốn nhờ quý quán in dùm.

Được một khách hàng mới, thầy Tư mừng rở đón mời:

- Dạ, dạ. Dạ mời ông vào...

Bàn giấy của thầy nơi góc tường. Ghế của khách đặt trước bàn, vi thế khách ngồi đối diện ngay với bàn cô thư ký cách xa chừng năm bước.

Ông Ngọc Minh mở cặp da lấy ra một tập bản thảo đánh máy sạch sẽ, trên giấy pelure, dầy 100 trang. Ông đưa thầy Tư coi và bảo:

- Tôi muốn in 3.000 cuốn giấy thường, 100 cuốn giấy impérial du Japon, xin ông tính cho biết giá in bao nhiêu?

- Dạ.

Ánh đang lui cui đánh máy. Nghe tiếng nói hơi quen quen, cô ngước mắt lên ngó. Bỗng nhiên đôi má cô đỏ bừng, cô thẹn thùng cúi mặt xuống liền, Ánh nhận ra ngay ông Ngọc Minh. Nhưng ông Ngọc Minh không ngó cô. Ông đang chăm chú đàm thoại với ông Quản lý nhà in về ấn phí quyền bản thảo của ông.

Ánh rất đổi ngạc nhiên. Cô hết sức trấn tỉnh tinh thần nhưng không sao giấu nỗi băn khoăn lộ ra trên nét mặt kiều diễm của cô, đang điềm nhiên vô tư lự, bỗng bối rối, thẹn thùng, nôn nao, hồi hộp... Cô đã đánh máy gần cả một trang thư dài không sao, thế mà bây giờ cuối bức thư cô lại vấp phải hai lỗi lớn: chữ z cô đánh lộn ra chữ R, chữ expression cô bỏ sót mất một chữ S. Ánh ngưng đánh, mở ô kéo tìm cục tẩy nhưng lục soạn các đồ vật và giấy tờ trong hộc, kiếm mãi không ra. Ánh sực nhớ hôm qua thầy Tư bảo cô đưa miếng tẩy cho thầy mượn, mà thầy chưa trả lại. Ánh bực mình lắm. Đứng dậy đến bàn thầy Tư để hỏi miếng tẩy, thì cô mắc cỡ vì có ông Ngọc Minh ngồi đấy. Cũng tại gặp ông Ngọc Minh một cách bất ngờ và quá đột ngột nên cô mới bối rối đánh máy làm mất hai chữ. Cô đang nôn nao trong lòng, băn khoăn trong trí, lại kiếm không ra cục tẩy khiến cô càng bối rối thêm. Cô toan rút tờ giấy ra, đặt tờ giấy khác vào để đánh máy lại, nhưng bức thư dài quá đánh lại thật mất công và sợ thầy Tư hỏi. Cô không quên lúc nãy thầy Tư có dặn cô: ‘‘Thư này gấp nghe cô Ánh!’’.

Cô thầm mong ông Ngọc Minh ngồi nói chuyện lâu lâu với thầy Tư để cô có thì giờ đánh lại thư khác. Dè đâu, thầy Tư, quay qua hỏi cô:

- Cô Ánh ơi, xong bức thư đó, cô đánh cho tôi bản tính giá in nầy gấp nhé.

- Dạ.

Trong lúc Ánh còn ngó thầy Tư, Ánh cảm thấy ông Ngọc Minh chăm chăm nhìn cô. Cô không dám ngó ông. Nhưng thầy Tư vừa cúi xuống bản tính giá tiền thì tự nhiên cặp mắt cô chạm phải đôi mắt của ông Ngọc Minh. Một luồng điện nẫy ra giữa bốn con ngươi im lìm xao xuyến. Đôi mi của Ánh chớp chớp như một rèm thưa rung động dịu dàng... Ánh cúi mặt xuống, vừa lúc ông Quản lý trao cô tờ gìấy tính giá tiền.

- Cô đánh ngay rồi đưa qua tôi ký.

- Dạ.

Ánh đánh bốn phút xong, đứng dậy cầm bản khai giá đến bàn giấy ông Quản lý. Sẵn dịp cô hỏi luôn cục tẩy.

Một lúc sau, Ánh đang chăm chú vào công việc thì ông Ngọc Minh đứng dậy ra về. Lúc ông đi ngang gần bàn cô, cô nghe tiếng nói dịu dàng của ông:

- Chào cô.

Ánh lễ phép đáp:

- Dạ, chào ông.

Ông Ngọc Minh đi ra khỏi cửa rồi, thầy Tư để tập bản thảo trên bàn Ánh:

- Cô coi theo kiểu mẫu hợp đồng in sách, đánh một bản hợp đồng với ông này, theo đúng các điều kiện như các hợp đồng kia, còn giá in thì theo bản khai giá lúc nãy. Phải làm xong hôm nay để sáng mai ông ấy tới đóng tiền đặt cọc và ký hợp đồng luôn thể. Có tên và địa chỉ của tác giả trên danh thiếp tôi ghim vào bìa đấy.

- Dạ.

Thầy Tư đi xuống xưởng máy.

Ánh xem danh thiếp:Trần Ngọc Minh Đại học Saigon trên trang bìa tên quyển sách:

‘‘ĐI TỚI MỘT XÃ HỘI KHÔNG GIAI CẤP’’’

Lật qua trang sau, Ánh chăm chú đọc mấy lời tựa:

Gởi Ánh,

Cô nữ sinh đi ở mướn,

Nếu Ánh được sanh trưong trong một gia đình khá giả, hoặc giàu sang, hay quý phái thì Ánh đã là một nàng Tiên được bao nhiêu đàn ông say mê, và Ánh đã là vợ một ông Bộ trưởng, một ông Đại sứ, một nhà Triệu phú, một Bác sĩ, một Kỹ sư, một Luật sư, hoặc một nhân vật ‘‘thượng lưu’’ nào đó trong xã hội. Em đã được bao nhiêu người đàn ông lẫn đàn bà, quỳ lụy, nịnh bợ, kính nể, dù là em xấu xí, hoặc dỗt nát, ngu đăn, hoặc lẳng lơ, mất nết. Ánh đã được lên Đại học, được đi Ngoại quốc, được luyện tập thành tài, trở nên một trí thức thượng lưu, chẳng kém ai.

Nhưng Ánh chỉ là con gái một gia đình lao công nghèo khổ! Cho nên em phải bỏ dở việc học, và đành đi ở mướn, làm thuê, và ai cũng khinh rẻ em. Dù em có đủ công, dung, ngôn, hạnh, hơn con nhà khuê các. Dù em có tài năng trí đức hơn muôn ngàn thiếu nữ ăn không ngồi rồi, xa hoa phù phiếm.

Tôi viết quyển sách này, riêng để tặng Ánh, và tặng chung hết thảy các cô, Ánh, nạn nhân của xã hội tàn nhẫn, bất công, tham tàn, ích ký.

Tôi xin đề nghị với hết thảy Loài Người một xã hội có nhân đạo hơn, nghĩa là chân chính văn minh hơn, hợp với phẩm giá của con Người. Ta phải xây dựng một xã hội không có giàu nghèo cách biệt, không có giai cấp đấu tranh, trong đó một cô gái như Ánh, thông minh, dịu hiền, có tài năng, trí đức, không phải đi ở mướn làm thuê, sống hẩm hiu, tủi nhục ……….

………………………..

Xem đến đây, Ánh để tay trên trang bản thảo, ngồi mơ màng suy tư... Lòng cô nao nao xao xuyến. Thật ra, Ánh không ngạc nhiên vì những tư tưởng của ông giáo sư Ngọc Minh, người đã thành thật yêu quý cô, và đã nhiều lần bày tỏ với cô quan niệm bình đẳng xã hội như trên kia, nhưng Ánh không thể tin đựợc rằng ông muốn thực hiện lý tưởng cao siêu ấy. Sống trong thành kiến xã hội giai cấp từ nghìn xưa để lại, Ánh không thế tin tưởng được rằng một người thượng lưu, có địa vị cao sang, gia đình quý tộc, có thể hạ mình xuống để yêu và muốn cưới một đứa đầy tớ bần hàn khốn khổ như Ánh, Nhưng chuyện ấy đã qua rồi. Ánh đã ra đi, không một lần bước chân trở lại, dù để thăm chủ cũ. Hôm nay thật Ánh không ngờ, sau hai năm quên lãng, một ngẫu nhiên, lạ lùng đã đưa ông giáo sư Ngọc Minh đến đây, bổng dưng gặp lại Ánh, và để in một quyển sách vì vấn đề ‘‘Vô giai cấp’’, mà bài tựa lại đề tặng Ánh!... Ánh tưởng tượng ông Ngọc Minh sáng nay cũng không thể không ngạc nhiên được khi thấy Ánh ngồi đây, làm thư ký đánh máy trong một nhà in lớn.

Ánh vô cùng cảm động. Bây giờ Ánh không còn chút nào nghi ngờ tình yêu chân thật rất cao thượng của ông Ngọc Minh. Mấy Iời tựa tha thiết để trên trang đầu tập bản thảo này đã biểu lộ hết tâm sự đau đớn của ông giáo sư.

Ánh cảm thấy một phần nào hãnh diện được ông Ngọc Minh vẫn lưu ý đến mình sau hai năm xa cách.

Nhưng chính vì thế mà Ánh càng thêm đau khổ. Đau khổ vì người yêu của Ánh, người yêu trong trái tim của Ánh, lại không phải là ông Ngọc Minh, Ánh kính phục ông Ngọc Minh là một thần tượng mà từ nay cô tự nguyện sẽ suốt đời quý mến trung thành, một ân nhân cao cả đã xây dựng cho tư tưởng cô một quan niệm xã hội công bình vừa tiến bộ. Một lý tưởng siêu việt của đời sống.

Bởi suy nghĩ kỹ, ông Ngọc Minh không thể là người mà cô yêu được hay là cô được yêu.

Về địa vị, tiền tài, tư cách, tính nết, tài năng, tư tưởng ông còn hơn gấp mấy các bạn trai trẻ thời buổi này. Ông không ham mê vật dục, không rượu chè đàng điếm, không trụy lạc vì vật chất cũng như tinh thần. Ông là một người toàn thiện, toàn mỹ, có thể là một người chồng lý tưởng cho tất cả các thiếu nữ. Nhưng không bao giờ Ánh dám nghĩ rằng ông sẽ có thể là chồng của Ánh!

Tất cả những điều tốt đẹp, thanh cao trên kia đã làm cho Ngọc Minh thành một người rất đáng kính phục, đáng quý, và dĩ nhiên là rất đáng yêu.

Nhưng Ánh tự xét rằng Ánh không xứng dáng một chút nào được vinh dự nhận lãnh hạnh phúc diễm tuyệt ấy, than ôi, tình yêu quá xinh đẹp của ông Ngọc Minh đâu có được là tình yêu của Ánh!

Tình yêu của Ánh là Hoàng, Ánh nghĩ như thế, và Ánh chỉ nghĩ có thế thôi! Hoàng không có địa vị, chức tước, không có tài năng được như ông giáo sư Đại học. Nhưng Ánh yêu Hoàng. Ba năm rồi, ồ không, hơn bốn năm rồi chớ! — Ánh không biết Hoàng phiêu lạc nơi nào? Ánh cố công tìm đã nhiều lần, không gặp, Ánh đã nhẫn nại dò hỏi nhiều người, không ai biết. Nhưng Ánh vẫn yêu Hoàng. Ánh yêu người bạn học cũ nghèo nàn, khổ sở, Ánh yêu người bạn trai đã bán chiếc đồng hồ đeo tay của ông chú cho, một vật kỷ niệm thi đỗ, để lấy 200 đồng bạc đưa cho Ánh mua thuốc uống trong lúc Ánh nằm sốt mê man trên giường bệnh, trong căn nhà lá rách rưới. Ánh yêu người đã cùng chung cảnh ngộ như Ánh, và tuy Hoàng chưa hề nói ra miệng một câu ‘‘anh yêu em’’ nhưng câu ấy Hoàng đã khỏi phải nói, vì Ánh đã tìm thấy trong đôi mắt nhìn say mê của Hoàng, và trong số tiền 200 đồng kia tuy không là bao nhiêu, nhưng nó quý báu hơn hết thảy vàng bạc, châu báu trên đời.

Ánh nghĩ rằng đã yêu Hoàng rồi, Ánh sẽ chờ đợi Hoàng với một lòng trung trinh với thời hạn. Một ngày nào đây, không sớm thì muộn, Ánh sẽ gặp lại Hoàng. Ánh tin như thế. Ánh chỉ quên được Hoàng khi nào hình ảnh của Hoàng biến mất khỏi trái tim của Ánh.

Ánh cũng biết không có một lời thề nguyện nào ràng buộc Ánh cả, nhưng Ánh cảm thấy rằng Ánh với Hoàng còn vương vấn với nhau bằng một món nợ duyên kiếp không vay mà nàng quyết trả.

Ánh cũng lo sợ nếu một thời gian lâu không tái ngộ, Ánh sẽ làm thế nào? Nhưng Ánh tự an ủi; chừng đó sẽ hay. Ánh còn trẻ, đời Ánh còn dài, Ánh không cần phải vội vàng hấp tấp, không cần nương dựa vào ai. Ánh sẽ tự lập lấy thân với mồ hôi nước mắt của mình để xây dựng một đời sống lý tưởng, chú trọng đến giá trị của con người, nhất là con ngươi nghèo. Về điểm này Ánh nhận thấy ông giáo sư Ngọc Minh là người duy nhất để cho Ánh kính phục và hoàn toàn tin tưởng.

Trưa hôm ấy, về nhà, Ánh ăn cơm xong, nằm trên chiếc võng rách lót bằng miếng bao cà gòn, nghĩ khá nhiều về ông giáo sư. Ánh tủm tỉm cười một mình, tưởng tượng ông Ngọc Minh không khỏi ngạc nhiên thấy đứa đầy tớ của ông trước kia nay đã thành một cô thư ký trong một nhà in lớn. Ánh tưởng tượng ông Ngọc Minh nói lại chuyện ấy cho em ông nghe. Chắc bà Minh Tú không tin! Nhưng rồi Ánh tự hỏi thái độ của ông Ngọc Minh từ nay về sau đối với Ánh sẽ như thế nào? Ánh rất thắc mắc về bài tựa nơi trang quyển sácn mà ông đã tặng Ánh hơn ba năm xa biệt, phần Ánh đã gần như lãng quên. Ông chủ nhà cũ rồi, mà ông Ngọc Minh hãy còn nhớ đến Ánh, ông hãy còn yêu Ánh thiết tha đến thế ư? Nếu không, sao ngay trang đầu quyển sách, ông lại đề tặng Ánh? Lúc ở trong nhà ông, không có lần nào Ánh đáp lại ông một lời ân ái, lúc Ánh xách gói ra đi cũng không có được một lời từ biệt. Thế mà nay ông vẫn không thay đổi tư tưởng, nhưng cuộc đời tình cảm của ông có thay đối như thế nào chưa?

Trường hợp ông Ngọc Minh khiến cho Ánh tò mò muốn hiểu biết về ông nhiều hơn. Dù sao, Ngọc Minh cũng là một người khác thường, mà Ánh tự hãnh diện đã gần một thời gian. Nghĩ xa nghĩ gần, Ánh thương ông Ngọc Minh lắm. Nhớ lại những cử chỉ của ông, Ánh tự nhiên rưng rưng hai ngấn lệ... Ánh không hiểu tại sao Ánh thấy nao nao trong lòng, một nỗỉ buồn mênh mông vô cớ...

Ánh chờ ngày mai ông Ngọc Minhv tác giả quyển bản thảo ‘‘ Đi tới một xã, hội không giai cấp’’ sẽ đến nhà in để ký hợp đồng và đặt cọc tiền in, từ ngày mai trở đi, ông Ngọc Minh sẽ còn phải thường tới nhà in luôn để chữa bài, cho đến ngày sách in xong, nghĩa là trong vòng một hai tháng.

Nghĩ đến cuộc trùng phùng thật ngẫu nhiên này, Ánh hồi hộp băn khoăn...

* * *

Sáng hôm sau, Ánh ngồi đánh máy trong văn phòng, nhưng trái tim xao xuyến khác thường. Ánh vẫn phục sức giản dị, áo dài trắng mềm mại ôm sát vào người để nổi bật lên một bộ ngực tuyệt đẹp. Mái tóc huyền đen mướt, chải sơ sài nhưng gọn gàng, không cần nước hoa vẫn thoang thoảng hương thơm. Ánh khôrg đeo một món nữ trang nào, trừ một chiếc đồng hồ đeo tay, lấp lánh dưới tay áo, Ánh không thích phô bày đồng hồ ra ngoài áo như phần đông phụ nữ.

Chín giờ hơn, Ánh nghe tiếng xe đỗ trước cửa nhà in. Một phút sau tiếng giày tây bước vào, Ánh đoán biết có lẽ là ông Ngọc Minh. Thoạt tiên cô không muốn ngó ra, nhưng rồi sao tự nhiên cô cũng ngoảnh mặt ra xem. Có bẽn lẽn vội quay mặt vào, và điềm nhiên đánh máy như không cần biết khách là ai!

Nhưng một cô thiếu nữ đang bị rung cảm có thể nào giấu được đôi má ửng đỏ của mình không?

Một người tinh ý như ông Ngọc Minh thoáng trông gương mặt của cô, cũng biết ngay là cô đang ngượng ngùng e lệ. Nếu lúc bấy giờ ông giáo nhìn kỹ vào tờ giấy đánh máy của cô, chắc ông sẽ thấy cô vừa đánh lầm một con số trên biên lai: 32.000$ mà cô cứ đánh 3.200$, mất một con số không. Không phải chỉ mà là mất một tý gì trong tâm hồn của cô nữa!

Cũng may là Ánh trông thấy ngay sự nhầm lẫn mà cô biết là tại cô đang bối rối. Nhưng Ánh mỉm cười nghĩ thầm rằng chính ông Ngọc Minh cũng không điềm tĩnh gì hơn cô, vì trong văn phòng không có ai mà ông Ngọc Minh đang đứng trước mặt cô một lúc khá lâu mà ông không nói ra được một lời. Cả hai người đều ngượng nghịu. Ánh không dám ngước mặt lên để chào ông, cứ cúi xnống đánh máy mà đánh trật hết. Còn ông Ngọc Minh thì không nhúc nhích, đờ câm như pho tượng. Ông lặng lẽ nhìn Ánh, nhìn làn tóc mướt dịu của cô, khuôn mặt trái soan của cô đẹp hơn trước nhiều, ông nhận thấy Ánh tuy bây giờ là cô thư ký trong một sở lớn, nhưng vẫn hiền lành thùy mị như xưa, vẫn giản dị, không lòe loẹt xa hoa ông khẽ gọi:

- Cô Ánh!

Ánh khẽ đáp:

- Dạ.

Ánh ngước mặt lên, càng e lệ. Nhưng sực nhớ rằng dù sao cô cũng phải lễ phép với ông khách hàng, Ánh liền đứng dậy.

- Thưa ông, hôm nay ông đến ký hợp đồng in sách, có phải không ạ?

- Vâng.

- Dạ xin mời ông ngồi, tôi đi gọi ông Quản lý lên.

Ánh vừa bước ra khỏi bàn của cô, thì ông Ngọc Minh

khẽ bảo:

- Thong thả cũng được, cô Ánh à. Tôi muốn hỏi Ánh vài câu chuyện riêng, nếu cô cho phép.

- Dạ.

- Nhà Ánh ở đâu?

Ánh cúi mặt xuống, im lặng một lúc rồi bẽn lẽn hỏi:

- Thưa ông, Ang hỏi nhà tôi để chi ạ?

- Tôi muốn đến thăm Ánh.

- Dạ thưa ông, nhà tôi ở trong ngõ hẻm xóm lao động.

- Ngỏ hẻm nào? số nhà mấy?

- Dạ nhà không có số.

- Tôi sẽ tìm đến được nếu cô vui lòng chỉ chỗ.

- Dạ, chắc là ông sẽ không tìm thấy.

- Tại sao?

Ánh không đáp, đứng cúi mặt xuống bàn, tay mân mê một tờ giấy.

Đối diện cô, ông Ngọc Minh cũng im lặng, Một lúc Ánh lại nghe tiếng gọi dịu dàng của ông:

- Cô Ánh...

- Dạ.

Nhưng thầy Tư Quản lý từ dưới xưởng máy vừa bước lên. Ông Ngọc Minh quay lại.

Thầy Tư vui vẻ chào:

- Thưa ông, hợp đồng chúng tôi làm xong rồi.

- Vâng. Tôi đến đặt tiền trước.

- Dạ, cảm ơn ông.

Ông Ngọc Minh đến bàn quản lý, ký hợp đồng với nhà in và đặt trước 20.000$ Cô Ánh đã đánh máy sẵn các giấy tờ cần thiết, trao qua thầy Tư. Sau khi thỏa thuận mọi điều kiện về ấn loát, ông Ngọc Minh đứng dậy ra về, Trước mặt thầy Tư ông không thể nói chuyên riêng với Ánh nữa. Đi ngang qua bàn cô. Ông lễ phép chào. Ánh cũng điềm nhiên đáp lại.

Thầy Tư không nghi ngờ một việc gì cả.

Ánh có cảm tưởng như cô đang sống trong một cuốn tiểu thuyết hào hứng ly kỳ mà có lẽ cô là một vai chính chăng? Cô nhận xét rằng trên đời có hai hạng người. Một hạng sống thản nhiên, không có gì xảy ra ngoài mức bình thuờng, theo một thông lệ quen, qua những tháng ngày phẳng lặng, và một hạng người khác hình như sinh ra để đóng một vai trò trong tấn kịch ly kỳ của định mệnh. Đời của họ là một liên tục các biến cố bất ngờ; lúc đầu, thấy như rời rạc, không ăn nhập vào đâu, nhưng rốt cuộc lại chính là cả một bố cục khéo léo, chặc chẽ của số kiếp.

Vâng, Ánh thuộc về hạng người này. Thông minh và giàu tình cảm, với một ít kinh nghiệm chua chát của tuổi xuân đầy oán hận bi thương, cô đã biết rằng sắc đẹp thiên nhiên của cô và hoàn cảnh éo le của cô hiện tại là hai yếu tố của một tấn kịch mà chính cô cũng chưa biết là sẽ có những tình tiết như thế nào. Cô băn khoăn không hiểu rồi đây cuộc tái ngộ ngẫu nhiên giữa cô và ông Ngọc Minh sẽ đi đến đâu? Tình yêu tha thiết và âm thầm của cô với Hoàng sẽ như thế nào? Hoàng là người cô yêu, và cô đợi chờ, sao cô không gặp? Mà người cô gặp lại không phải là người cô yêu.

Ánh thật không ngờ tuổi cô hãy còn thơ dại, lòng cô còn trong trắng, mà cô đã chịu cảnh trái ngược lạ lùng như thế! Thì ra tình yêu cũng rắc rối thế ư? Mà đây có phải là tình yêu không? có phải bởi số kiếp của cô đau khổ, nên mối tình đầu cô cũng phải gặp cảnh trở trêu? Lời tục thường nói ‘‘xa mặt cách lòng’’, Ánh cho rằng câu ấy chưa chắc đúng. Chứng cớ là Ánh xa Hoàng đã ba năm, không biết người bạn trai nghèo khổ kia hiện nay thất lạc nơi nào, mà Ánh vẫn còn yêu Hoàng, vẫn nhớ Hoàng cho đến đỗi ông Ngọc Minh lưu luyến với cô như thế mà lòng cô vẫn hờ hững e dè...

Ông Ngọc Minh ngày nào cũng đến nhà in để chữa mô-rát của quyển sách ông, và ngày nào cũng gặp Ánh. Một hôm, ở văn phòng không có ai, ông khẽ bảo Ánh:

- Cô Ánh ạ, ngày mai chúa nhựt, tôi muốn mời Ánh đến nhà tôi, dùng cơm trưa với tôi cho vui. Lần nầy tôi mong Ánh nhận lời.

Ông Ngọc Minh nói ‘’lần nầy’’ vì từ hôm gặp lại Ánh ở nhà in, ông đã mời Ánh hai lần rồi, nhưng Ánh đều viện lý do để từ chối.

Có lẽ bây giờ, Ánh không dám phụ lòng tốt của ông nữa. Nếu Ánh cứ từ chối, hóa ra Ánh làm cao, với ông giáo sư? Đâu có phải phép lịch sự như thế. Ông Ngọc Minh quá là một người quân tử, nhiều lễ độ, luôn luôn chân thật, Ánh chẳng qua vì muốn giữ giá trị của một thiếu nữ nghèo khổ, tự xét mình không xứng đáng là người bạn của ông, chứ Ánh đâu phải là một kẻ kiêu căng, ỡm ờ, vô lễ! Ánh rất cảm động, và trong thâm tâm có

đôi phần hãnh diện được ông Ngọc Minh niềm nỡ, chiếu cố đến chút phận nghèo hèn của cô.

- Dạ,thưa ông, tôi rất hân hạnh được ông cho phép đến thăm ông tại nhà. Tôi xin vâng lời ông. Nhưng còn dùng cơm thì tôi không dám.

- Sao vậy, cô Ánh? Cô ngại điều gì chăng?

Ánh bẽn lẽn thật khó trả lời. Sau cùng, Ánh không dám từ chối.

10 giờ sáng chủ nhật, Ánh đi ô tô buýt qua đến chợ Thị Nghè. Ánh đi bộ tìm đến nhà ông Ngọc Minh.

Hôm qua, ông Ngọc Minh có đề nghị với Ánh rằng 9 giờ ông sẽ lái xe hơi đến đón Ánh ở ngõ hẻm Bàn Cờ, nhưng Ánh không dám làm phiền ông Ngọc Minh như thế. Trời nắng gắt, tuy Ánh đội nón, nhưng không dè nhà ông Ngọc Minh ở cách chợ khá xa, Ánh tìm được nhà thì mồ hôi đã chảy ướt cả lưng áo trắng của cô. Đôi má Ánh đã hồng hào tự nhiên bị nắng nung nóng, càng đẹp bừng lên.

Ông Ngọc Minh đang dạo trong vườn hoa. Trông thấy Ánh thấp thoáng ngoài ngõ. E lệ chưa dám vào, ông liền rảo bước mỉm cười đón Ánh:

- Mời Ánh vào.

- Dạ.

Ông đi cạnh Ánh, cảm ơn Ánh đã đến, và tỏ nỗi ái ngại vì sự Ánh đi bộ dưới trời nắng chang chang. Ánh để nón ngoài hè, úp vào chân tường, nhưng ông Ngọc Minh cúi xuống cầm chiếc nón đem vào nhà, đặt tử tế trên một chiếc bàn con cạnh cửa sổ phòng khách. Ông mời Ánh ngồi. Tuy nhà ông rất thoáng đạt, gió thổi mát rượi, nhưng ông cũng mở quạt máy để Ánh ngồi một lúc cho ráo mồ hôi.

Rất tự nhiên không ỡm ờ khách sáo. Ông mời Ánh đi xem qua các căn phòng trong nhà. Ông đưa Ánh sang phòng giấy kế phòng khách, với một tủ sách, đầy nhóc các sách Phảp, Anh, Hán, Việt, có đến bốn năm trăm quyển. Bàn viết của ông kê sát vào tường, cạnh cửa sổ ngỏ ra vườn hoa. Ông chỉ Ánh xem những giỏ phong lan tươi nở treo lơ lửng dưới dàn hoa âng-ti-gôn hồng, ông dắt Ánh đến dứng nơi cửa sổ. Nhìn các chùm hoa soan lý tý như những nụ cười hé nhỏ đáng yêu, ông khẽ bảo:

- Ban đêm trời sáng trăng, cảnh ở đây nên thơ lắm.

Ánh mơ màng:

- Dạ ban ngày như bây giờ thấy cũng đã rất nên thơ...

- Ở đây tôi làm việc được yên tĩnh. Chỉ có ở đây là tôi mới viết được quyển sách của tôi.

- Ông giãi bày trong sách những ý tưởng thật đẹp.

- Tôi không tin rằng có nhiều người hiểu tôi. Phải có đau khổ nhiều như Ánh mới thông cảm được cái cao quý của đau khổ. Phải không, Ánh?

- Dạ tôi cũng nhận xét như thế. Nhưng thưa ông tôi hơi ngạc nhiên vì đời ông đâu có gì đau khổ? Trái lại, ông có đủ tất cả tiện nghi vật chất và tinh thần đi xây dựng hạnh phúc.

- Phải, Ánh nói đúng. Chính vì thế nên tôi đau khổ. Nhiều khi nghĩ đến xã hội có bao nhiêu người đói rách, bần hàn, mà mình ăn sang mặc sướng, tôi có cảm tưởng như mình đang phạm một tội ác... Nếu không thì mình cũng đồng lõa với xã hội bất công và tàn ác nầy. Nhiều khi tôi tự hỏi mình có quyền sống ích kỷ không? Mình sống hẳn cho mình, không cần thắc mắc về hoàn cảnh của kẻ khác, không cần quan tâm đến đời sống chung quanh mình, cũng được chứ. Nhưng, khốn nỗi, mình cứ phải chứng kiến hằng ngày những tấn kịch vô cùng bi thảm của xã hội, mình làm ngơ làm sao được? Chính đó cũng là một bi kịch thường xuyên trong nội tâm của mình.

Ông đưa Ánh sang phòng bên cạnh, là phòng ngủ của ông. Phòng ngủ của một người đàn ông độc thân, trang hoàng thanh nhã và đơn giản. Rồi ông đưa Ánh đi ngang qua phòng tắm, phòng ăn, ra nhà bếp. Ánh ngạc nhiên thấy bếp vắng tanh không có người. Không dám hỏi, nhưng Ánh không biết sao hôm nay ông Ngọc Minh mời cô dùng cơm trưa mà chẳng nấu nướng gì cả.

Vừa kịp ông cho biết:

- Tôi ở đây một mình với một đứa em nhỏ coi nhà. Tôì ăn cơm tháng nơi một tiệm ở ĐaKao. Hôm nay nó đi lấy đồ ăn đem về. Như thế tiện hơn.

Ông đưa Ánh ra vườn xem các loại hoa ông trồng và ông săn sóc mỗi ngày. Trưa nắng, nhưng rất mát, nơi đây thoáng gió và có nhiều cây cao, tàn cây che rợp cả khu vườn.

Thấy Ánh có vẻ thích cảnh vườn, ông Ngọc Minh đưa Ánh đi xem khắp cả chung quanh. Hai người thong thả bước từng bước, Ánh đi bên cạnh ông, lần này đã dạn dĩ và tự nhiên hơn, không còn khép nép e lệ nữa. Nhưng Ánh chỉ nghe ông nói chuyện, thỉnh thoảng cô mới hỏi một câu, hoặc dừng bước một lượt với ông, và chăm chỉ nghe, như say mê những lời ông nói. Ông Ngọc Minh không có câu nào tán tỉnh Ánh cả. Ông chỉ nói về đời sống của các thứ hoa ông trồng, hoặc của một vài loại chim mà ông chỉ cho Ánh coi chúng đang nhảy nhót trên cây,

- Ánh nghe con chìa vôi, nó hót...

Hai người lặng yên nghe một lúc tiếng chim hót líu lo. Rồi ông nói tiếp:

- Cứ chiều chiều vào khoảng sáu giờ, mặt trời vừa lặn, thì có hai con chìa vôi bay xuống trước ngõ rồi nhảy tưng tửng trong sân, chờ tôi quăng cho mấy hột mè! Có khi con chó Rít đang nằm trên sân, chìa vòi nhảy lên lưng nó, mổ lông nó. Con Rít không cự nự, lại còn tỏ vẻ bằng lòng nữa là khác. Chúng nó mến nhau lắm.

Ánh tủm tỉm cười. Hai người lại rảo bước đi vòng quanh khu vườn rộng. Gần nửa tiếng đồng hồ, ông Ngọc Minh đưa Ánh đến một góc vườn rợp mát hơn cả. Nơi đây có bốn cây nhãn đã có trái, từng chùm trái lồng trong các miếng mo cau, thòng xuống các cành rậm. Một chiếc võng đã hơi cũ treo từ thân một cây vú sữa qua một cây nhãn. Bên cạnh võng, đặt một chiếc ghế phô tơi bằng nylon, và một bàn tròn nhỏ, xinh xắn. Trên bàn để một quyển sách đang xem dở, có một cục đá trắng đè lên

Ông chỉ chiếc ghế phô tơi, bảo Ánh:

- Mời Ánh ngồi. Chúng ta nghỉ ở đây một lúc cho mát, đợi em nhỏ đem cơm về dọn trong nhà chúng ta sẽ vào dùng cơm. Ánh uống gì?

Ánh lại mất vẻ tự nhiên rồi bẽn lẽn, Ánh đáp:

- Dạ thưa ông, thôi ạ.

- Chắc Ánh kháit. Ánh tới từ nãy đến giờ, tôi quên mời Ánh giải khát... Ánh uống nước cam tươi nhé?

Sự thật Ánh khát lắm, vì đi nắng, và nghe nói đến cam tươi, Ánh cũng thích. Kể ra trái cam thì có gì là quý đâu, trái cam có gì là lạ, nhưng từ nhỏ tới giờ có lần nào Ánh được ăn một trái cam, hay uống một ly nước cam tươi? Tám đồng bạc một ly nước cam tươi, đâu phải một cô gái nghèo và không ưa xa xỉ như Ánh lúc nào cũng uống được? Nhưng cô vẫn quen tính tự trọng và bỡ ngỡ của thiếu nữ:

- Dạ thôi ạ...

Nhưng thường trong trường hợp này, người đàn ông luôn luôn phải hiểu tâm lý, và tự động:

- Ánh đợi tôi một chút nhé!

Ánh chưa nói gì được thì ông Ngọc Minh lẹ bước về nhà. Ánh chưa dám ngồi, đi quanh quẩn xem các bụi hoa. Ngọc Minh trở ra, tay ôm một dĩa mây khá lớn, trong có bốn trái cam chín, thứ cam dễ thương của ngoại quốc mà ta ăn vào một miếng thì nước ngọt hơi chua chua dìu dịu thắm mát trong tim gan. Một tay, ông cầm hai chai sô đa. Ở đây, ông không dùng nước đá.

Rất tự nhiên, ông Ngọc Minh ngồi trong võng, để hai chân xuống đất, lấy con dao, cắt đôi quả cam, rồi vắt nước vào ly. Ánh đã ngồi xuống ghế phô tơi, đối diện ông.

Muốn giúp ông một tay, Ánh vui vẻ bảo:

- Dạ thưa ông, để tôi...

Chìu ý Ánh ông Ngọc Minh đưa con dao cho Ánh, Ánh vắt một quả cam kia vào ly, rồi cắt một quả nữa, vắt hết vào ly thứ hai. Ông Ngọc Minh mở chai sôđa, rót vào đầy hai ly.

Ông để một cái muỗng vào ly của Ánh. khuấy đều, rồi ngó Ánh:

- Mời Ánh dùng.

- Dạ.

Hai người cùng nâng ly nước cam. Ánh mới hớp một hớp đầu, khẽ nuốt vào thấy mát rượi trên môi, thật ngọt và hơi chua chua thắm dịu vào trong cơ thể... Đang khát, nóng nực, Ánh uống ba hớp nước cam vào, cảm thấy khoan khoái dễ chịu. Làn gió mát cuốn bay nhẹ nhàng tà áo trắng và mơn trớn vài sợi tóc mai ẻo lả bên mép tai thiếu nữ.

Ánh hơi ngà ngà say, say một chút nắng hồng, say một chút gió mơ. Đôi mắt nàng lơ đểnh nhìn làn mây trắng phất phới như một tấm đăng ten trên khuôn trời xanh thẫm. Một con hoàng yến cất tiếng líu lo, giọng hót du dương, như mấy vần thơ rung cảm vơi mây với gió...

Ông đi cạnh Ánh, cảm ơn Ánh đã đến, và tỏ nỗi ái ngại vì sự Ánh đi bộ dưới trời nắng chang chang. Ánh để nón ngoài hè, úp vào chân tường, nhưng ông Ngọc Minh cúi xuống cầm chiếc nón đem vào nhà, đặt tử tế trên một chiếc bàn con cạnh cửa sổ phòng khách. Ông mời Ánh ngồi. Tuy nhà ông rất thoáng đạt, gió thổi mát rượi, nhưng ông cũng mở quạt máy để Ánh ngồi một lúc cho ráo mồ hôi.

Rất tự nhiên không ỡm ờ khách sáo. Ông mời Ánh đi xem qua các căn phòng trong nhà. Ông đưa Ánh sang phòng giấy kế phòng khách, với một tủ sách, đầy nhóc các sách Phảp, Anh, Hán, Việt, có đến bốn năm trăm quyển. Bàn viết của ông kê sát vào tường, cạnh cửa sổ ngỏ ra vườn hoa. Ông chỉ Ánh xem những giỏ phong lan tươi nở treo lơ lửng dưới dàn hoa âng-ti-gôn hồng, ông dắt Ánh đến dứng nơi cửa sổ. Nhìn các chùm hoa soan lý tý như những nụ cười hé nhỏ đáng yêu, ông khẽ bảo:

- Ban đêm trời sáng trăng, cảnh ở đây nên thơ lắm.

Ánh mơ màng:

- Dạ ban ngày như bây giờ thấy cũng đã rất nên thơ...

- Ở đây tôi làm việc được yên tĩnh. Chỉ có ở đây là tôi mới viết được quyển sách của tôi.

- Ông giãi bày trong sách những ý tưởng thật đẹp.

- Tôi không tin rằng có nhiều người hiểu tôi. Phải có đau khổ nhiều như Ánh mới thông cảm được cái cao quý của đau khổ. Phải không, Ánh?

- Dạ tôi cũng nhận xét như thế. Nhưng thưa ông tôi hơi ngạc nhiên vì đời ông đâu có gì đau khổ? Trái lại, ông có đủ tất cả tiện nghi vật chất và tinh thần đi xây dựng hạnh phúc.

- Phải, Ánh nói đúng. Chính vì thế nên tôi đau khổ. Nhiều khi nghĩ đến xã hội có bao nhiêu người đói rách, bần hàn, mà mình ăn sang mặc sướng, tôi có cảm tưởng như mình đang phạm một tội ác... Nếu không thì mình cũng đồng lõa với xã hội bất công và tàn ác nầy. Nhiều khi tôi tự hỏi mình có quyền sống ích kỷ không? Mình sống hẳn cho mình, không cần thắc mắc về hoàn cảnh của kẻ khác, không cần quan tâm đến đời sống chung quanh mình, cũng được chứ. Nhưng, khốn nỗi, mình cứ phải chứng kiến hằng ngày những tấn kịch vô cùng bi thảm của xã hội, mình làm ngơ làm sao được? Chính đó cũng là một bi kịch thường xuyên trong nội tâm của mình.

Ông đưa Ánh sang phòng bên cạnh, là phòng ngủ của ông. Phòng ngủ của một người đàn ông độc thân, trang hoàng thanh nhã và đơn giản. Rồi ông đưa Ánh đi ngang qua phòng tắm, phòng ăn, ra nhà bếp. Ánh ngạc nhiên thấy bếp vắng tanh không có người. Không dám hỏi, nhưng Ánh không biết sao hôm nay ông Ngọc Minh mời cô dùng cơm trưa mà chẳng nấu nướng gì cả.

Vừa kịp ông cho biết:

- Tôi ở đây một mình với một đứa em nhỏ coi nhà. Tôì ăn cơm tháng nơi một tiệm ở ĐaKao. Hôm nay nó đi lấy đồ ăn đem về. Như thế tiện hơn.

Ông đưa Ánh ra vườn xem các loại hoa ông trồng và ông săn sóc mỗi ngày. Trưa nắng, nhưng rất mát, nơi đây thoáng gió và có nhiều cây cao, tàn cây che rợp cả khu vườn.

Thấy Ánh có vẻ thích cảnh vườn, ông Ngọc Minh đưa Ánh đi xem khắp cả chung quanh. Hai người thong thả bước từng bước, Ánh đi bên cạnh ông, lần này đã dạn dĩ và tự nhiên hơn, không còn khép nép e lệ nữa. Nhưng Ánh chỉ nghe ông nói chuyện, thỉnh thoảng cô mới hỏi một câu, hoặc dừng bước một lượt với ông, và chăm chỉ nghe, như say mê những lời ông nói. Ông Ngọc Minh không có câu nào tán tỉnh Ánh cả. Ông chỉ nói về đời sống của các thứ hoa ông trồng, hoặc của một vài loại chim mà ông chỉ cho Ánh coi chúng đang nhảy nhót trên cây,

- Ánh nghe con chìa vôi, nó hót...

Hai người lặng yên nghe một lúc tiếng chim hót líu lo. Rồi ông nói tiếp:

- Cứ chiều chiều vào khoảng sáu giờ, mặt trời vừa lặn, thì có hai con chìa vôi bay xuống trước ngõ rồi nhảy tưng tửng trong sân, chờ tôi quăng cho mấy hột mè! Có khi con chó Rít đang nằm trên sân, chìa vòi nhảy lên lưng nó, mổ lông nó. Con Rít không cự nự, lại còn tỏ vẻ bằng lòng nữa là khác. Chúng nó mến nhau lắm.

Ánh tủm tỉm cười. Hai người lại rảo bước đi vòng quanh khu vườn rộng. Gần nửa tiếng đồng hồ, ông Ngọc Minh đưa Ánh đến một góc vườn rợp mát hơn cả. Nơi đây có bốn cây nhãn đã có trái, từng chùm trái lồng trong các miếng mo cau, thòng xuống các cành rậm. Một chiếc võng đã hơi cũ treo từ thân một cây vú sữa qua một cây nhãn. Bên cạnh võng, đặt một chiếc ghế phô tơi bằng nylon, và một bàn tròn nhỏ, xinh xắn. Trên bàn để một quyển sách đang xem dở, có một cục đá trắng đè lên

Ông chỉ chiếc ghế phô tơi, bảo Ánh:

- Mời Ánh ngồi. Chúng ta nghỉ ở đây một lúc cho mát, đợi em nhỏ đem cơm về dọn trong nhà chúng ta sẽ vào dùng cơm. Ánh uống gì?

Ánh lại mất vẻ tự nhiên rồi bẽn lẽn, Ánh đáp:

- Dạ thưa ông, thôi ạ.

- Chắc Ánh kháit. Ánh tới từ nãy đến giờ, tôi quên mời Ánh giải khát... Ánh uống nước cam tươi nhé?

Sự thật Ánh khát lắm, vì đi nắng, và nghe nói đến cam tươi, Ánh cũng thích. Kể ra trái cam thì có gì là quý đâu, trái cam có gì là lạ, nhưng từ nhỏ tới giờ có lần nào Ánh được ăn một trái cam, hay uống một ly nước cam tươi? Tám đồng bạc một ly nước cam tươi, đâu phải một cô gái nghèo và không ưa xa xỉ như Ánh lúc nào cũng uống được? Nhưng cô vẫn quen tính tự trọng và bỡ ngỡ của thiếu nữ:

- Dạ thôi ạ...

Nhưng thường trong trường hợp này, người đàn ông luôn luôn phải hiểu tâm lý, và tự động:

- Ánh đợi tôi một chút nhé!

Ánh chưa nói gì được thì ông Ngọc Minh lẹ bước về nhà. Ánh chưa dám ngồi, đi quanh quẩn xem các bụi hoa. Ngọc Minh trở ra, tay ôm một dĩa mây khá lớn, trong có bốn trái cam chín, thứ cam dễ thương của ngoại quốc mà ta ăn vào một miếng thì nước ngọt hơi chua chua dìu dịu thắm mát trong tim gan. Một tay, ông cầm hai chai sô đa. Ở đây, ông không dùng nước đá.

Rất tự nhiên, ông Ngọc Minh ngồi trong võng, để hai chân xuống đất, lấy con dao, cắt đôi quả cam, rồi vắt nước vào ly. Ánh đã ngồi xuống ghế phô tơi, đối diện ông.

Muốn giúp ông một tay, Ánh vui vẻ bảo:

- Dạ thưa ông, để tôi...

Chìu ý Ánh ông Ngọc Minh đưa con dao cho Ánh, Ánh vắt một quả cam kia vào ly, rồi cắt một quả nữa, vắt hết vào ly thứ hai. Ông Ngọc Minh mở chai sôđa, rót vào đầy hai ly.

Ông để một cái muỗng vào ly của Ánh. khuấy đều, rồi ngó Ánh:

- Mời Ánh dùng.

- Dạ.

Hai người cùng nâng ly nước cam. Ánh mới hớp một hớp đầu, khẽ nuốt vào thấy mát rượi trên môi, thật ngọt và hơi chua chua thắm dịu vào trong cơ thể... Đang khát, nóng nực, Ánh uống ba hớp nước cam vào, cảm thấy khoan khoái dễ chịu. Làn gió mát cuốn bay nhẹ nhàng tà áo trắng và mơn trớn vài sợi tóc mai ẻo lả bên mép tai thiếu nữ.

Ánh hơi ngà ngà say, say một chút nắng hồng, say một chút gió mơ. Đôi mắt nàng lơ đểnh nhìn làn mây trắng phất phới như một tấm đăng ten trên khuôn trời xanh thẫm. Một con hoàng yến cất tiếng líu lo, giọng hót du dương, như mấy vần thơ rung cảm với mây với gió...

Gần 12 giờ, em Chút xách hai gà mên về, đi thẳng vào bếp, dọn cơm và các thức ăn lên bàn ở phòng ăn. Ngọc Minh đã đưa Ánh vào. Trên bàn đã có sẵn ba dĩa đồ ăn còn nóng hổi, một tô canh đang bay hơi, một tô cơm nóng và một dĩa mây đựng trái cây để tráng miệng. Ông Ngọc Minh lấy ra một chai rượu chát đỏ để đãi Ánh.

Bữa cơm vui vẻ kéo dài đến 1 giờ. Ngọc Minh và Ánh đều tự nhiên, thân mật, hoàn toàn đúng phép lịch sự xã giao, không ai vượt qua giới hạn. Ánh tuy không uống được rượu, nhưng lần đầu tiên cô được hân hạnh ngồi trước một ly rượu chát đỏ mà ông giáo sư thân thiện rót mời, cô vẫn uống được chút ít. Đôi má cô đã đỏ bừng, đầu óc hơi choáng voáng. Nhưng cô rất bình tĩnh, cảm thấy lần đầu tiên cái thú say ngà ngà của men rượu, cô mỉm cười rất tự nhiên, nghe ông Ngọc Minh nói chuyện có duyên dáng về các vấn đề mà cô thích nghe, cô thấy lý thú và giúp cô học hỏi được nhiều điều mới lạ. Ngồi đối diện với cô nơi bàn ăn, ông Ngọc Minh đã thành như một người bạn trai quý mến, đáng cảm phục vô cùng. Tuy nhiên, Ánh vẫn là Ánh như hồi Ánh còn là đứa đầy tớ ở nhà ông, Ánh vẫn là Ánh như ngày nay là thư ký ở nhà in Minh Tân, dẫu Ánh có thay đổi bề ngoài, ở chiếc áo dài trắng tinh, ở chiếc quần trắng mới ủi, ở đôi guốc tân thời xinh xắn hơn đôi guốc cùng năm xưa, thế thôi. Lòng Ánh vẫn không thay đổi. Những lời nói dịu dàng chân thật của ông Ngọc Minh, những cử chỉ niềm nở đậm đà của ông, những mùi rượu ngây ngất tô điểm thêm đôi má hồng của Ánh càng thêm duyên dáng, và không khí tự do, thân mật, vắng vẻ, của biệt thự sang trọng này, vẫn chưa đem lại tình yêu trong lòng nàng. Một người ngoài cuộc ngó vào thấy nụ cười thân mật trao đổi cùng nhau giữa ông Ngọc Minh và Ánh, thấy cử chỉ tự nhiên của hai người, có thể tin rằng họ đã yêu nhau, hay là họ đã bắt đầu yêu nhau, Nhưng Ánh hiểu lòng Ánh hơn ai hết. Ánh thành thật cảm mến ông Ngọc Minh, và cô không ngần ngại tỏ cùng ông một niềm cảm mến sâu đậm. Còn tình yêu, thì thật nàng chưa có, Ngọc Minh là một nhà tâm lý học, có lẽ ông cũng phân tích được tình cảm tế nhị ấy trong lòng Ánh vì ông đã biết nàng nhiều. Có lẽ ông đã nhận xét đúng những ý nghĩ của Ánh qua một vài cử chỉ dè dặt của nàng, một vài phút thoáng qua sau một đôi câu hỏi kín đáo của ông mà nàng không muốn trả lời quá vội.

Ông yêu Ánh, điều đó đã hẳn rồi. Ánh đã biết, và trước kia ông đã thú thật với Ánh nhiều lần. Nhưng lần này ông dè dặt hơn. Lần này Ánh không phải là một con đầy tớ. Ánh đã là một cô thơ ký, đàng hoàng nghiêm trang, kể về giai cấp thì ông giáo với cô không còn cách biệt nhau bao xa. Nhưng tình yêu mà ông đã tha thiết tặng đứa đầy tớ nghèo khổ năm xưa, mà nàng đã không dám nhận vì thành kiến xã hội và thân thế nghèo hèn của nàng, nay ông lại muốn đem dâng cô thư ký diễm kiều tình yêu vẫn chân thành như trước, nhưng ông không chắc gì nàng hoan hỉ nhận lời.

Ánh đoán biết thế, nên càng quý mến ông Ngọc Minh rất nhiều.

Từ tình bạn quý mến đến tình yêu say mê, có lẽ không xa. Nhưng cũng có lẽ không gần.

Hiện giờ, trong bữa cơm đầu tiên của ông Ngọc Minh mời Ánh, và sau bữa ăn ấy, hai người đã thành ra đôi bạn rất thân. Họ rất thành thật với nhau, Họ rất có thể tha thiết trung thành với mối tình êm dịu, sâu sắc, nàng không quá hờ hững như trước, chàng không quá sỗ sàng, nông nổi...

Chưa phải là tình yêu, nhưng có thể mau chóng trở nên tình yêu nếu Ánh khônng có một tâm sự riêng mà chỉ Ánh biết với Ánh mà thôi.

Hai giờ Ánh đứng dậy xin về, ông Ngọc Minh tiễn Ánh ra cửa, lấy nón đưa Ánh rồi âu yếm nhìn thẳng vào mắt nàng, ông khẽ hỏi:

- Chúa nhật tuần tới, Ánh đến đây dùng cơm trưa với tôi nữa nhé? Tôi mong lắm...

Ánh mỉm cười:

- Ông thật tử tế với Ánh quá, Ánh cảm động lắm. nhưng... thưa ông, Ánh không dám hứa trước,.. Nếu vì một lý do nào Ánh không đến được, Ánh tin rằng ông sẽ tha lỗi cho Ánh,..

- Chúa nhựt... Ánh không bận gì chứ?

- Thưa, bây giờ Ánh chưa biết được.

- Thứ bảy, tôi đến nhà in sửa bài, Ánh cho tôi biết nhé?

- Dạ.

Ngọc Minh đưa Ánh đến gara, mời Ánh lên xe của ông để ông đưa Ánh về Sàigòn.

* *

* *

Ánh nằm thao thức nhớ Hoàng, hai ngấn lệ âm thầm rơi trên gối, chiếc gối mà nàng đã thêu hai chừ A.H. phối hợp với nhau.

Ánh khóc gì nhớ Hoàng là một lẽ, nhưng thực ra còn vì một lẽ khác nữa. Chiều hôm ấy, sau khi ở nhà Ngọc Minh về, vào khoảng 4 giờ. Thúy và Hoa đến chơi nhà Ánh. Mặc dầu bây giờ Ánh lên làm thư ký ở văn phòng, lương nhiều hơn và địa vị sang hơn, nhưng hai cô thợ đóng sách của nhà in MinhTân vẫn là đôi bạn thân nhất của Ánh từ trước tời giờ. Với Ánh, không có cảm tình nào thay đổi cả.

Ánh không hề quên ơn Hoa là người đã giới thiệu Ánh vào làm ở nhà in. Ánh cũng không xa cách Thúy là người bạn đã cùng với Hoa thường binh vực Ánh trong những lúc Ánh bị một vài chị đồng nghiệp trong sở dèm pha ganh ghét.

Chiều chúa nhật này, như đã nhiều lần, Hoa và Thúy đến chơi nhà Ánh sau khi Ánh ở nhà ông Ngọc Minh về. Gần 6 giờ Hai cô rủ Ánh đi xem chớp bóng, nhưng thấy Ánh hơi buồn buồn, Hoa cười:

- Bồ lại nhớ xừ Hoàng rồi phải không?

Ánh mơ màng nhìn ánh nắng chiều còn trải một tấm thảm vàng dưới hiên, và khẽ đáp:

- Ừ, Ánh nhớ Hoàng...

Thúy cũng bông lơn:

- Hơi đâu mà nhớ nhung cho bận lòng con người thiếu nữ, hở ta!

- Ánh thì nghĩ rằng một thiếu nữ như tụi mình phải có một cái gì để nhớ nhung, một cái gì để mơ mộng chớ.

Hoa cười:

- Nhớ nhung và mơ mộng để chi vậy?

- Để yêu đời chớ chi! Để nhìn trong mọi vật thấy hình ảnh mà mình thương nhớ! Hoa kia, nắng kia, làn gió rung rinh ngọn lá kia, đám mây bay kia, lúc hiệp, lúc tan như thế đó, là hình ảnh của một giấc mơ phản chiếu khắp bầu trời, là hình ảnh của một người in khắp bao la...

- Thôi đi bồ! Xừ Hoàng biến đâu mất tíêu, ba bốn năm trời nay bồ đâu có gặp chàng, mà mơ với mộng?

- Ánh còn nhớ Hoàng, thì Ánh tin rằng Hoàng còn sống ở đâu đó. Hoàng chưa mất tiêu đâu, vì Hoàng còn yêu Ánh, Ánh biết, Ánh vẫn nghe tiếng Hoàng nhắc đến Ánh đêm, ngày, không ngớt...

- Bồ nghe ở đâu?

- Ánh nghe Hoàng đê mê trong nhớ nhung, hồi họp trong tim, thì thầm trong giấc ngủ...

Hoa vỗ tay lên vai Ánh:

- Thôi mà! Đừng có mơ mộng quá rồi đâm ra thất tình nghe bà? Tui thì hễ chuyện gì đã qua, là không thành vấn đề.

Thúy tiếp:

- Tôi trước kia cũng có thằng mèo, hai đứa cũng mê nhau ác, vậy mà rồi tự nhiên thằng chả bỏ đi biệt tích đến nay, tôi cũng không còn nhớ nó nữa! Tụi đàn ông con trai đốn lắm, nghe cậu! Họ chỉ vờ vĩnh yêu đương, để cho mình tin sống tin chết với họ, rồi họ xa mình một đôi bữa là bắt tình nhân với con khác ngay! Tôi thì tôi không tin là có các thứ ái tình thủy chung như chuyện tiểu thuyết đâu?

- Hoàng đâu phải như tụi con trai thường, các chị chưa biết Hoàng,

- Xí, tại bồ mê Hoàng nên bồ thần thánh hóa người yêu của bồ đó thôi. Chờ nếu hắn yêu bồ thiệt tình, sao hắn đi đâu ba bốn năm mà không thư từ gì cho cậu biết?

- Ánh tin rằng Hoàng không đi đâu xa. Thế nào không sớm thì muộn Hoàng cũng sẽ gặp Ánh, Ánh cũng sẽ gặp Hoàng...

Hoa cười:

- Hoàng thề thốt với bồ nặng lời lắm sao mà cậu tin anh chàng dữ vậy hả?

- Hoàng chẳng thề thốt gì với mình cả,

- Không thì Hoàng nói với bồ thế nào mà bồ mê anh chàng lung vậy?

- Hoàng chẳng nói chi với Ánh cả.

- Ánh nói chuyện vô lý hết sức, anh chàng không nói gì mà Ánh yêu, Ánh nhớ sao?

Hoàng chưa nói là Hoàng yêu Ánh, Ánh cũng chưa hề nói là Ánh yêu Hoàng.

Thúy cười ha hả để ngạo Ánh:

- Thế mà hai ông bà mê nhau? chuyện lạ đời không?

- Ừ, hai đứa mê nhau.

Hoa đập bàn tay lên cánh tay Ánh.

- Thôi, đi bồ! Bồ chỉ tiểu thuyết hóa một mối tình bâng quơ, vớ vẩn. Nè, Hoa đề nghị với Ánh câu này Ánh chịu thì Hoa nói.

- Hoa cứ nói đi.

- Ánh có biết xừ Phú không?

- Không, nhưng mà bây giờ Ánh cũng không muốn biết người đàn ông nào nữa hết.

- Bộ không gặp lại Hoàng thì ở vậy già đời sao chớ?

- Không, nhưng Ánh không thích làm quen nhiều với đàn ông. Chỉ một người thôi, chừng nào mình không còn là mộng trung nhân của người ấy nữa, thì hẳn hay.

Hoa đứng dậy lại bàn rót một tách nước trà nguội, quay lại nói với Ánh:

- Ánh gàn lắm. Mình nói Ánh đừng giận nghen!

Uống nước xong, Hoa trở lại Ánh:

- Bây giờ Ánh đã có địa vị khá. Dù sao Ánh cũng là cô thư ký, tội gì Ánh phải đeo đuổi mãi cái bóng một thằng bạn học cũ, nghèo kiết xác, mà Ánh không biết hiện giờ ở đâu?

Ánh đứng dậy làm thinh, muốn nói lãng qua câu chuyện khác:

- Hoa với Thúy ngồi chơi. Ánh xuống bếp nấu nước sôi pha trà nhé.

- Thôi mà! Có đi chơi với tụi mình thì đi! Ra Sàigòn uống nước mía ngon hơn.

Hoa và Thúy, đứng dậy cầm nón. Ánh tiễn hai bạn ra tận cửa. Lúc hai cô đã ra đường, quay lại thấy Ánh còn đứng nơi cửa nhìn theo, nét mặt buồn bã nghĩ ngợi...

Đêm ấy, Ánh nhớ thương Hoàng và nghĩ đến ông Ngọc Minh, trằn trọc không ngủ được...

Dù muốn dù không, trong đời Ánh cũng đã có hai người đàn ông, hai mối tình trái ngược mà Ánh không có can đảm dứt khoát một mối nào, cả hai đều tha thiết êm đềm. Một thiếu nữ khác có thể quên Hoàng rất dễ, và có lẽ đã quên lâu rồi, nhưng Ánh không đành bỏ rơi một người bạn nghèo khổ, mà Ánh đã cảm mến đức hạnh từ lâu. Ánh chỉ muốn được một ngươi chồng yêu Ánh rất nhiều và tính nết hiền lành. Thì Hoàng chính là người chồng lý tưởng mà Ánh đã chọn lựa đã gá nghĩa kết duyên. Ánh không ngờ vì Hoàng nghèo và chắc là đang bôn tẩu xa xôi để lo sinh kế, nên hai cô bạn thân nhất của Ánh và Thúy cũng tỏ vẻ khinh khi. Ánh đau lòng cho tình đời, nhưng tâm sự của Ánh chỉ có Ánh biết thôi. Ánh nhất định chờ Hoàng, và chỉ yêu Hoàng thôi.

Quyển sách của ông Ngọc Minh đã in xong. Ông lấy một quyển đẹp nhất, đặc biệt bằng giấy Impérial Japon, ký nơi trang đầu tặng Ánh. Đó là bản đầu tiên của loại sách quý.

Như các bạn đã biết, quyển sách của ông Ngọc-Minh nhan đề là: ‘‘ ĐI TỚI MỘT XÃ HỘI KHÔNG GIAI CẤP’’

Ngay trang đầu, có bài tựa ‘‘gởi Ánh’’.

Dĩ nhiên, lúc ông Ngọc Minh viết quyển sách của ông và bài tựa ấy, ông không được gặp Ánh và ông tưởng Ánh vẫn sống cái kiếp đầy tớ trong một gia đình nào đó. Ông đâu có ngờ rằng nhờ kiên nhẫn và cố gắng, Ánh đã trở nên một cô thư ký văn phòng, mà ngẫu nhiên hay tiền định? Ánh lại làm việc ngay ở nhà in mà ông đến thuê in quyển sách của ông.

Ngọc Minh có hỏi Ánh trước khi đưa bài tựa cho thợ sắp chữ:

- Ánh có bằng lòng cho tôi đề ‘‘gởi Ánh’’ như lời tựa nầy không?

- Dạ điều ấy xin tùy nơi ông chớ em đâu có quyền gì?

- Đành rằng thế, nhưng khi tôi viết quyển sách này, tôi đã nghĩ đến Ánh. Vì được biết Ánh trước kia nên tôi mới viết quyển sách này. Nhưng bây giờ hoàn cảnh đã thay đổi...

Ánh không do dự đáp:

- Dạ, thưa ông, hoàn cảnh vẫn không thay đổi. Ánh ngày nay vẫn là Ánh ngày xưa.

- Nghĩa là Ánh bằng lòng tôi để ngu