Chương 4
Cô Phạm thị Toàn treo nón ngoài hè bước vào phòng khách, thì ông Ngọc Minh cũng từ trong thư viện của ông bước ra. Ông đưa tay niềm nở bắt tay cô nữ sinh vừa thi đỗ bằng Quốc gia Sư Phạm:
- Thành thật khen Toàn…Toàn đỗ cao, tất cả các môn đều được điểm tốt nhất. Toàn thành công vẻ vang lắm đó?
- Thưa ông, em thành công được là hoàn toàn nhớ ơn ông Em đến để tỏ cùng ông tất cả lòng tri ân của em, ông là bậc ân nhân của suốt cả đời em.
- Toàn đừng nói thế chứ. Trước đây ba năm, ngày đầu tiên tôi tiếp Toàn nơi đây, tôi đã bảo với Toàn rằng giúp Toàn học cho thành đạt đó là một niềm vui thích của tôi... Tôi thật sung sướng thấy Toàn đã chiếm được bảng vàng với ưu hạng, hiếm lắm, sau ba năm đèn sách chuyên cần... Vả lại, theo lời ông hiệu trưởng trưởng Quốc gia Sư phạm có nói với tôi, suốt trong 3 niên khóa Toàn đã tỏ ra một giáo sinh có nhiều đức tính nhất
Ông Ngọc Minh tươi cười nói tiếp:
- Hôm nay chúng ta phải ăn mừng kết quả rực rỡ của Toàn... Toàn đồng ý chứ?... Tôi muốn làm bữa tiệc nho nhỏ, nhưng thân mật, để đãi cô giáo tân khoa!..
Toàn bẽn lẽn cười:
- Dạ, em xin vâng lời.
Ông Ngọc Minh chỉ một chiếc ghế của phòng khách:
- Mời Toàn ngồi.
Ông Ngọc Minh ngồi dối diện!
- Trước hết, Toàn thích uống gì để giải khát?
Toàn rất tự nhiên:
- Dạ, ông cho em uống gì cũng được ạ.
- Xá xị nhé?
- Dạ.
Ông Ngọc Minh đứng dậy đến tủ lạnh, mở cửa tủ lấy ra hai chai xá xị đem lại bàn khách với hai ly.
Trong lúc ông mở nắp chai rồi rót nước giải khát ra ly, Toàn với giọng dịu dàng, cảm động, nói:
- Ông tử tế quá... Lúc nào em đến thăm ông, em cũng được ông tiếp đãi nồng hậu và tỏ lòng thành thật mến thương em...
Ông Ngọc Minh mời:
- Toàn uống đt.
Hai người cùng nâng ly. Ngọc Minh đặt ly xuống, nói chậm rãi:
- Toàn là một thiếu nữ rất đáng mến. Tôi tin chắc rằng khi Toàn đi dạy học, học sinh cũng sẽ mến Toàn lắm. Và Toàn sẽ là một cô giáo gương mẫu
- Thưa ông, nếu mai sau em sẽ thành một giáo viên được học sinh quý mến, ấy cũng là nhờ em được may mắn noi gương tốt đẹp của ông. Em xin thưa thật với ông rằng hồi em học Đệ tứ, em chỉ là một nữ sinh sút kém, sự học chán nản, không có tương lai. Phần thì Má em đi bán hàng. Ba em đi làm công, ngày một buổi đến trường thì không khí học đường hơi hỗn độn, bê bối, hoc sinh tụi em đâu có được thọ lãnh một nền giáo hóa đầy đủ vững vàng! Cho nên sự học hành của chúng em không có gì khả quan. Chúng em lạl không được gặp những vị giáo sư kiểu mẫu có thể nêu cho chúng em những gương đức dục tốt đẹp thanh cao. Nếu em không được Trời cho cái đặc ân ông giúp đỡ thi hồi Đệ tứ, mặc dầu còn năm tháng nữa đi thi, em cũng phải từ giã vĩnh viễn mái trường mà về nhà giúp mẹ, làm nghề buôn thúng bán bưng mà thôi, như vô số các nữ sinh bị học dở dang chỉ vì gia đình túng bẩn. Vì thiếu bốn tháng tiền học, ông Hlệu trưởng nhất định đuổi em đi, nên Ba Má em không cho em đi học nữa. Phần thì ham học, phần thì tiếc công đèn sách bấy lâu, em đánh bạo đến nhà trường xin ông Đốc cho em thiếu chịu một tháng nữa để Má em cố gắng hốt hụi trả tiền trường nhưng ông Hiệu trưởng không có chút thương hại đứa nữ sinh nghèo của trường mình, mà tàn nhẫn đuổi em ra khỏi lớp. Không dè, tình cờ ông được biết hoàn cảnh của em, và ông đem lòng thương xót, giúp em tiếp tục việc học hành. Hôm ấy, em xin thưa thật với ông rằng về nhà em khóc nhiều lắm... Em khóc vì em cảm động quá... Em không ngờ em được phước đức gặp một vị cứu tinh cho đời em. Năm ấy, em đó được bằng Trung học Đệ nhất cấp, chính là nhờ công ơn vô lượng của ông... Rồi ông lại khuyến khích cho em vô học trường Quốc gia Sư phạm. Suốt ba năm qua, ông tiếp tục giúp đỡ cho em không biết bao nhiêu mà kể. Ngày nay em đã thi đỗ, sắp được bổ đi dạy học, em nhận thấy ơn của ông đối với em và gia đình em, rộng lớn vô biên, rồi đây em biết lấy gì mà đền đáp được tấm lòng đại lượng của ông... Ông đã cứu em ra khỏi cơn tuyệt vọng và cảnh dốt nát, bần cùng... Ông đã đem ánh sáng vào đời sống tối tăm của em... Ông đã xây dựng tương lai tươi đẹp cho em. Em và cả gia đình em được nở mày nở mặt là nhờ bàn tay tế độ của ông... Em sung sướng và lo ngại không biết lấy gì đền đáp lòng thương vô bờ bến của ông.
Cô Toàn bỗng nói không được nữa, gục đầu xuống thành ghế, khóc nức nở.
Ông Ngọc Minh đứng dậy, đến gần Toàn. Như một người anh dịu hiền, thân mến, ông vỗ vai thiếu nữ:
- Toàn đứng dậy đi với tôi ra vườn... Chúng ta dạo một vòng quanh các bồn hoa, để Toàn qua khỏi cơn xúc động.
Toàn vẫn còn ngồi yên nơi ghế, không dám ngước mặt lên. Ngọc Minh nói tiếp:
- Tôi cảm thông ý nghĩ tốt đẹp cao quý của Toàn.
... Nhưng thôi, đừng khóc nữa. Chúng ta hãy ra vườn. Kia, trời, mây, nắng, gió và cây cỏ, hoa, tất cả đều đang nở nụ cười tươi thắm để mừng Toàn đó!
Toàn mỉm cười sung sướng, lấy khăn lau khô ngấn lệ và đứng dậy, cùng với ông Ngọc Minh bước ra sân. Toàn quen với ông Ngọc Minh đã ba năm rồi, sự gần gũi bên ông không còn ngượng ngùng e lệ nữa. Trong ba năm cô đã đến đây nhiều lần thăm ông, nghe ông nói chuyện, thỉnh thoảng cùng ông tưới nước cho các khóm hoa, hoặc xin phép xuống bếp làm một vài món bánh đặc biệt mà ông Ngọc Minh ưa dùng.
Tuy ông Ngọc Minh có dạy các lớp của cô, nhưng Toàn vẫn đối xử với ông như tình thầy trò thân thiện, hơn nữa, như một người em đối người anh cả lúc nào cũng ưu ái và đứng đắn, gần như một người bạn thân tín. Trong thâm tâm, cô Toàn yêu ông Ngọc Minh lắm, nhưng tình yêu rụt rè lẫn với lòng kính phục, đối với một ân nhân.
Cô chưa hề có một cử chỉ suồng sã, hoặc thân mật tỏ tình âu yếm... Không quá gần mà cũng không quá xa, cô vẫn giữ được giữa ông Ngọc Minh và cô một ranh giới xã giao vừa đúng mức. Giả sử, bất cứ lúc nào, ông Ngọc Minh tỏ ý yêu cô và muốn kết hôn với cô, chắc chắn cô sẽ nhận lời ngay, không do dự. Vì, với sự nhận xét của cô, ông Ngọc Minh là người đàn ông hoàn toàn hơn hết thảy những người đàn ông khác mà Toàn đã quen biết trong phạm vi giao thiệp hằng ngày. Nhưng ông Ngọc Minh cũng không bao giờ thố lộ một tâm sự gì ngoài giới hạn một tình thương sâu rộng, chân thành mà vẫn đứng đắn.
Nếu một người nào đứng ngoài cổng ngó vào thấy Ngọc Minh và Phạm thị Toàn đi song song kề nhau dưới bóng cây trong vườn; trò chuyện thân mật như bây giờ, họ có thể tưởng rằng đó là một cặp tình nhân xứng đôi vừa lứa lắm. Toàn đẹp thùy mị, đẹp nhất là đôi mắt bồ câu, trồng con ngươi màu thau thau rất dễ quyến rủ. Khuôn mặt trái soan, với đôi gò má đều dặn và mịn, nước da hồng hào không son phấn. Ngực nở vung bén, tròn trịa, nổi hẳn lên trên vạt áo trắng dài tha thướt ôm sát vào thân hình. Cô mặc quần đen, đi đôi guốc đen, Cô học trò nghèo Phạm thị Toàn, con gái nhà lao động, sống bằng mồ hôi nước mắt của cha mẹ nhưng nhờ sự giúp đỡ tiền bạc của ông Ngọc Minh, và nhờ trí óc thông minh của cô chịu kiên nhẫn, chịu đựng các khổ nhục, chăm chỉ học hành, nay đã thi đỗ thành tài, hết mấy tháng hè sẽ được bổ đi làm cô Giáo, kể ra cũng xứng đáng với ông Giáo sư Triết học và Văn chuơng luôn luôn tha thiết với chủ trương đả phá thành kiến giai cấp trong xã hội và nâng cao đời sống vật chất và tinh thần của những người nghèo khổ!
Cô Toàn đã hiểu thấu triệt quan niệm nhân sinh của ông Ngọc Minh và cô chịu rất nhiều ảnh hưởng của các tư tưởng triết học xã hội của ông Giáo.
Hôm nay, ông nói với cô như thế nầy:
- Trong đời sống hiện tại, chung quanh ta có vô số những cảnh khổ cực đau thương. Tôi mong rằng rồi đây Toàn bước chân ra đường đi, sẽ quan sát tường tận những cảnh tình bi đát ấy. Mỗi người chúng ta phải có bổn phận cứu giúp một trong muôn người những kẻ xấu số bị xã hội hất hủi, ruồng bỏ trong cô đơn sầu hận, trong tủi nhục âm thầm. Cuộc đời của ta chỉ có nghĩa khi nào nó được hy sinh cho một nhiệm vụ nhân đạo, cho lý tưởng công bình bác ái. Bằng lời nói, bằng câu văn, bằng hành vi thích hợp với lý tưởng chúng ta, bằng cách nêu gương sáng khắp chung quanh mình, chúng ta phải đánh đổ các hình thức tham tàn, bất công, ích kỷ của các lớp người phong kiến. Toàn sẽ là một cô Giáo, tôi mong rằng Toàn sẽ còn là một nữ chiến sĩ của tư tưởng bình đẳng, tiến bộ. Toàn nên xây dựng tư tưởng ấy trong đầu óc các em thiếu niên, Chúng ta phải chiến thắng với lý tưởng xã hội, không phải bằng máu, lửa, bằng oán hận, căm thù, mà bằng sự thực hiện hòa bình, chủ trương giai cấp bình đẳng, nhân đạo, và bác ái.
Ông Ngọc Minh ngừng bước, nhìn thẳng vào đôi mắt của cô Phạm thị Toàn, và chậm rãi, nhấn mạnh từng câu:
- Chúng ta phải đào tạo một thế hệ thanh niên có ý thức về số phận đau thương khốn khổ của con người. Nhân loại bị bỏ cuộc về đủ mọi phương diện, bóc lột cả tinh thần, cả vật chất. Chúng ta phải cố gắng giải phóng đồng loại của chúng ta, được chừng nào hay chừng nấy, qua nhiều thế hệ bằng ba khí giới mạnh nhất của con người trí thức biết giác ngộ! là Chân, Thiện, Mỹ...
Toàn hiểu ông Ngọc Minh nhiều hơn ai hết, vì chính cô đã được ông Giáo sư tận tâm giúp đỡ, thành thật quý mến, mà không có hậu ý nào cả, Tuy nhiên, đã từ lâu, cô vẫn nghi ngờ về một bí mật trong đời sống của ông Ngọc Minh. Cô tự hỏi: tại sao từ ngày cô được biết ông, cô vẫn thấy ông Ngọc Minh sống độc thân, không bao giờ nghe ông nói đến chuyện gia đình?
Con gái, ai mà chả tò mò? Nhất là Toàn, cô nữ sinh trẻ đẹp đã may mắn được quen ông Ngọc Minh, được thường tới lui thăm viếng ông, và được ông tiếp đãi vui vẻ, bình đẳng, thân mật như người anh cả, như người bạn hiền thì Toàn có thể tự cho phép mình ngó kín đáo đôi chút vào đời sống của vị ân nhân. Đã mấy lần trước, thừa những lúc ông nói chuyện thân mật, cô muốn hỏi ông về đời tư của ông, nhưng cô do dự, sợ thất lễ, và sợ ông giáo.
Không lần nào Toàn nghe ông thố lộ ít nhiều về đời sống cá nhân của ông. Ông thường nói chuyện, với một giọng hùng hồn, đôi khi rất cảm động, về đời sống đau khổ của những người khác, những bất công của xã hội, những tư tưởng bác ái và bình đẳng. Tuyệt nhiên Toàn không nghe ông nói đến ông bao giờ.
Lần này ngồi đối diện với ông nơi bàn ăn, khi bữa cơm đã xong, hai người ăn trái cây tráng miệng, Toàn tủm tỉm cười:
- Thưa ông, em vẫn ân hận là không bao giờ em được hân hạnh gặp bà Giáo ở đây, để cám ơn bà Giáo.
Toàn hồi hộp đợi ông Ngọc Minh trả lời, vừa lo ngại phản ứng của ông. Nhưng, rất tự nhiên, vui vẻ, ông ngó Toàn:
- Bà Giáo nào? Cô tưởng tôi có một người vợ mà tôi giấu ở trong tủ kia phải không?
Toàn đỏ bừng đôi má. Cô thẹn và ân hận đã hỏi ông Ngọc Minh một câu mà bây giờ cô mới thấy là vô lý! Nhưng ông Ngọc Minh đâu có giận cô. Ông điềm nhiên nói tiếp:
- Dĩ nhiên một ngày kia tôi sẽ cưới vợ. Tôi thích ở độc thân như bây giờ, vì tôi yêu công việc làm trong quạnh hiu yên tĩnh. Nhưng tôi cũng cần có một người vợ để tạo lập hạnh phúc gia đình...
Rồi ông ăn mấy trái nho, và nói chậm rãi nhỏ nhẹ:
- Tôi muốn có một người vợ hiền lành, như một con chim con...
Toàn tủm tỉm cười. Hình như ông Ngọc Minh không để ý và nói với Toàn như thể nói riêng với mình:
- Tôi muốn mỗi nét đẹp, mỗi nụ cười, mỗi lời nói, mỗi điệu bộ, và mỗi cử chỉ của nàng đều là thơ, là nhạc. Người đàn bà là gì? Tất cả những người đàn bà đều không phải tất cả là đàn bà. Toutes les femmes ne sont pas toutes des femmes. Tôi thường nghĩ thế, và luôn luôn tôi hình dung người đàn bà là tượng trưng của hiền lành tuyệt đối. Trong đời sống vô cùng khổ não của con người chỉ có đàn bà là nguồn vui vô tận. Những tâm hồn quạnh quẽ, hoang vu, cần có tiếng hát êm dịu của tin tưởng vang ra từ thâm tâm của con tim phụ nữ. Tất cả những Bi, Thương, Sầu, Hận, đeo theo số kiếp của con người, chỉ có nụ cười của người đàn bà, và bàn tay huyền dịu của họ là làm cho êm nhẹ bớt được thôi. Và khi chính họ đau khổ, coi họ khóc nức nở, thì ngấn lệ và nét buồn của họ là cả thảm kịch bi thương của nhân loại.
Nhưng đáng tiếc, rất nhiều người đàn bà đã mất cả ý thức về nghĩa vụ cao quý, gần như thiêng liêng của họ. Biết bao nhiêu người đàn bà quên rằng Thượng đế sinh họ ra là ảnh tượng của diệu hiền, của duyên dáng, của tình yêu và họ là biểu lộ của vẻ đẹp vũ trụ không có nó không thể nào có đời sống điều hòa. Cho nên, tôi thường ngạc nhiên khi chợt nghe người đàn bà nói với người đàn ông mà họ đã yêu: ‘‘Em là của riêng anh. Em thuộc về anh hoàn toàn’’. Không! Người đàn bà thốt ra câu nói ấy là tự mình thoái vị phẩm cách phụ nữ của mình. Không có ai thuộc về ai hoàn toàn cả. Không có ai là của riêng ai.
Ông Ngọc Minh đưa dĩa bôm mời Toàn. Ông lấy một trái, sau khi Toàn lấy một trái. Toàn cầm dao gọt bôm, vừa hỏi ông:
- Thế, thưa ông, quan niệm của ông về tình yêu như thế nào?
Ông Ngọc Minh ăn nửa trái, uống một hớp cà phê đen, rồi nói:
- Tình yêu không phải là vật vô tri vô giác của một con tim nầy hiến dâng cho một con tim khác. Nó là một cảm thông sâu đậm của hai tâm hồn và hai thể xác. Nó có thể là một cảm thông trọn vẹn, hoặc là một phần nào. Nhưng dù nó có trung thành duy nhất, hay tha thiết say mê thế nào chăng nữa, nó cũng không thể nào là một sự thoái vị của bản thân. Khi tình yêu đã tự hiến hoàn toàn cho một người nào, - làm của riêng người ấy, thì tình yêu không còn bản chất của nó nữa, nó đã trở nên một vật vô tri vô giác, nó không còn là tình yêu nữa.
Toàn mỉm cười:
- Thưa ông, nếu em hiểu không lầm tư tưởng của ông, thì ông không thừa nhận tình duyên thủy chung duy nhất?
- Toàn hiểu lầm rồi đó. Nhưng không phải một mình Toàn. Từ bao nhiêu thế kỷ, biết bao nhiêu người trên trời đất nầy, đã nghĩ sai lầm rằng tựu trung tình yêu chỉ là sự quyến rủ thể chất của hai xác thịt mà thôi. Đã đành rằng tất cả mọi cuộc ‘‘tình duyên’’ dù là khởi điểm ở tinh thần cũng đều kết cuộc bằng đòi hỏi vật chất. Tình yêu thể xác dù có xinh đẹp thế mấy đi nữa nhất định
cũng sẽ hướng về vật dục tầm thường của tất cả loài người, và tất cả loài thú. Một người đàn bà nào có thể trao gởi vĩnh viễn thân thể của họ cho một người nào đó, và trái lại. Nhưng gọi đó là ‘‘Tình yêu duy nhất’’ được ư? Bởi vì sau thời gian trôi đi, tất cả mọi ‘‘Tình yêu’’ bồng bột lúc ban sơ, sau sẽ trở thành những mặc cảm. Nó mất hẳn tính chất rạo rực xúc cảm của tình yêu. Không thể gọi nó là ‘tình yêu’’ được nữa. Nó hết còn là tình yêu chân chính lâu bền.
- Thưa ông nếu vậy thì đâu là tình yêu chân chính lâu bền?
Ngọc Minh cười:
- Tôi đã bảo lúc nay rằng không có ai thuộc về ai hoàn toàn, không có ai là của riêng ai. Bởi vì Thượng đế sinh mỗi người đâu có phải để dành riêng cho một người đâu. Chúng ta, tất cả, đều thuộc về tất cả. Cái truyền thuyết ‘‘Giây tơ hồng’’ của thời phong kiến xa xưa, ngày nay còn có nghĩa lý gì nữa đâu. Mối tình vật chất chỉ là một sức mạnh hấp dẫn lẫn nhau, - une force de séduction réciproque - của hai tâm hồn và hai thể xác cảm thông nhau và quyến rủ nhau. Thế thôi, còn tình yêu chân chính lâu bền, đó là tình yêu tinh thần nhân loại. Tình yên bằng hy sinh, bằng thương mến chân thật, tình yêu rộng lớn, không vị kỷ, sẵn sàng hiến cả cho xã hội...
Ngọc Minh ăn hết nửa trái bôm còn bỏ dở, uống một hớp cà phê, rồi ngó Toàn:
- Toàn hiểu tôi nói gì chứ?
Toàn chăm chú nghe từ nãy, mỉm cười đáp:
- Dạ, em hiểu nhiều lắm.
Ngọc Minh nói tiếp:
- Toàn sắp ra làm cô giáo, và sắp bước chân trên đường đời Tôi cảm ơnToàn đã cho tôi được nhiều vui mừng vì sự học hành và tinh nết của Toàn dưới máy học đường đã làm rạng rỡ cho Toàn, và xứng đáng lòng tin tưởng của tôi. Nay, trước khi tiễn Toàn đi làm nhiệm vụ giáo hóa cho một thế hệ bạn trẻ, tôi còn một ước vọng cuối cùng đặt nơi Toàn, là mong sao Toàn sẽ đem tình yêu nhân loại an ủi và giúp đỡ một phần nào những cái đau khổ đầy rẫy trong xã hội ta hiện nay. Tôi nhận thấy một điều trái ngược như sau đây rất đáng buồn, là ở cái xã hội văn minh Âu Mỹ, những số người nghèo đói, tàn tật, cực nhọc, đau khổ, bị hà hiếp, bị áp chế, bị bóc lột, bị bỏ rơi, ít hơn ở xã hội ta, mà số người từ thiện, có lòng bác ái nhân đạo, luôn luôn sẵn sàng cứu giúp, thì rất nhiều. Trái lại, ở xã hội ta, những kẻ thiếu cơm ăn, thiếu áo mặc, tàn tật bịnh hoạn, khổ cực về đủ phương diện thì nhiều không đếm được, mà người tận tâm cứu gìúp, hy sinh cứu giúp, với tình yêu nhân loại tha thiết, xót xa và không vụ lợi thì... thật ít quá. Tôi ước ao Toàn sẽ gặp được tình yêu đầm thắm thanh cao ấy, ở bất cứ nơi nào có mặt Toàn...
Từ nãy giờ, Toàn ngồi nghe say mê. Trí óc Toàn như bị thôi miên, đôi mắt Toàn như bi thu hút, dính chặt vào đôi môi của ông giáo sư Văn chương và Triệt lý, tất cả tin thần và tư tưởng của cô như chìm ngập giọng nói hùng biện, êm đềm, thắm thía của vị giáo sư còn trẻ tuổi...
Ngọc Minh uống hớp càphê cuối cùng còn trong tách Toàn cũng tự nhiên bắt chước nâng tách càphê lên uống cạn. Ông Ngọc Minh mỉm cười ngó cô:
- Vả lại, rồi đây Toàn sẽ có chồng, Toàn kết duyên với một người đàn ông mà Toàn sẽ yêu mến, dĩ nhiên Toàn sẽ không thật là hoàn toàn thuộc về người ấy và người ấy cũng thế, nhưng nếu cả hai tâm hồn cảm thông với nhau trong tình yêu nhân loại, rộng lớn hơn, và cao siêu hơn, thì mối tình riêng của hai người sẽ được hạnh phúc xinh đẹp, bền lâu, không có gì làm cho tàn phai được cã. Dù cho gặp nghịch cảnh khốc hại đến đâu, tình yêu nhân loại luôn luôn sẽ thắng, và nhờ đó mà hạnh phúc riêng của hai nguời sẽ còn xinh đẹp mãi với thời gian.
Ông Ngọc Minh đứng đậy. Cô Toàn cũng theo ông. Đồng hồ đã điểm 1 giờ. Hai người bước ra phòng khách Phạm thị Toàn, cô Giáo Tân khoa, y phục rất đơn sơ nhưng cô trẻ đẹp, vô cùng duyên dáng, đôi má ửng hồng, cảm động nhìn Ngọc Minh.
- Thưa ông, em sẽ triệt để trung thành với lời chỉ bảo của ông. Ông đã mở rộng trước viễn ảnh của em một chân trời tươi sáng, rực,rỡ vô ngần. Mỗi khi em sẽ hành động một việc gì, em cũng sẽ nhớ đến tất cả những lời vàng ngọc của ông vừa nói với em. Em xin nguyện sẽ phụng sự cho đến hơi thở cuối cùng cái lý tưởng cao siêu, tuyệt diệu, tuyệt mỹ, mà ông đã truyền cảm cho em...
Ông Ngọc Minh đưa Toàn ra sân, vừa đi song song bên cạnh thiếu nữ vừa nói:
- Toàn sẽ thành công trên đường đời, cũng như Toàn đã thành công nơi học đường... Tôi cảm ơn Toàn đã tỏ những cảm tình nồng hậu với tôi, và tôi rất vui sướng tìm được nơi Toàn một tình bạn mà tôi mong rằng sẽ không bao giờ phai nhạt...
Ông mời Toàn lên xe, để ông đưa cô về Dakao.
Cô Phạm thị Toàn được bổ đi dạy tại trường Nữ Trung học Mỹ tho. Cô ở trọ nhà một bà dì đường Lê Lợi.
Ngày đầu tiên cô đến đây, với một chiếc va-li, có mẹ cô đi theo để gởi gắm cho cô em gái của bà, mà ở đây người ta thường gọi là chị Tư Đen, vợ anh Tư hớt tóc. Vợ chồng anh Tư niềm nở đón tiếp Toàn, ra điều hãnh diện có đứa cháu gái làm cô giáo, từ nay ăn ở trong nhà chị, và được đi dạy Trung học Đệ nhứt cấp ở trường Nữ Trung học tỉnh.
Chị Tư dọn dẹp lại nhà cửa để cho xứng đáng là nơi ở trọ của một cô giáo. Chị nghĩ: ‘‘rồi nữa những ngày chủ nhật học trò đến thăm cô giáo, chà! vẻ vang và danh giá cho gia đinh chị xiết bao! Chị sửa sang lại căn phòng ngủ của chị ở nhà giữa để làm phòng ngủ của Toàn, còn hai vợ chồng chị thì dọn xuống căn phòng nhỏ hẹp hơn ở kế bếp. Toàn tuy mang tiếng là ở trọ nhà bà dì ruột, nhưng cô đã ngỏ ý với mẹ cô để nói lại cho dì biết rằng mỗi tháng Toàn sẽ đưa cho dì một ngàn đồng bạc để thanh toán tiền nhà và tiền cơm, gọi là một chút đóng góp với gia đình, chớ không dám làm bận rộn dì và dượng, Còn có điểm tâm lý rất dễ hiểu của một đôi vợ chồng thuộc về thành phần lao động, không biết chữ nghĩa không có địa vị trong xã hội, từ nay được làm dì và dượng một cô giáo trẻ đẹp được bao nhiêu người trọng dụng, Má của Toàn ngồi ăn trầu, nói chuyện với em rể và em gái, về những thành tích vẻ vang của Toàn trong học đường và sự giúp đỡ tận tâm của ông giáo sư Ngọc Minh ở trường Đại học. Với tính thực thà sẵn có của những phụ nữ chất phác hiền lành trong giới bình dân, má cô Toàn có ý khoe với em gái và em rể:
- Ông Giáo sư thương nó lắm. Tội nghiệp, ổng chưa có vợ con gì hết, trên 30 tuổi rồi mà còn cứ ở câu ky vậy hoài, không chịu lấy vợ. Ông thương con nhỏ hết sức thương vậy đó, nó thi đỗ là nhờ tiền của ông cho. Chớ dượng nghĩ coi, nhà mình nghèo tiền của đâu cho nó học! Thấy ông tử tế quá với nó như vậy, tui có nói cho con Hai nó biết hễ chừng nào ông giáo Ngọc Minh muốn hỏi nó làm vợ, thì tui gả liền.
Chị Tư Đen gật đầu:
- Được người danh giá không gả, thì gả cho ai!
Chồng chị, anh Tư hớt tóc cũng nói hùa theo:
- Chớ sao! Con Hai ngày nay đã được địa vị sang trọng là nhờ người ta tác thành cho, thì phải lấy người ta để đền ơn người ta chớ. Nhưng con Hai nó có ưng ông giáo đó không?
Má của Toàn cười:
- Ai biết gì nó? Nhưng coi bộ con nhỏ khen ổng vàng trời, cả ngày nó cứ nhắc đến ổng. Tui có hỏi thiệt nó: ông có tình ý gì với mầy không mà ổng giúp tiền, giúp của cho mầy ăn học vậy? Tui hỏi vậy để cho biết, mà con nhỏ cứ nhe răng cười, không nói gì hết. Tụi bạn của nó cứ kêu giỡn nó là ‘‘Bà Ngọc Minh’’.
Chị Tư Đen hỏi:
- Chị có gặp ông giáo đó lần nào chưa?
- Ai mà gặp! Con Hai, thì nó đến nhà ổng hoài. Nó ăn cơm với ổng nữa.
- Thời buổi này là thời buổi tự do. Con trai con gái thương yêu nhau tưới hột sen! Nhứt là học trò với thầy giáo đời nay thì khỏi nói. Không phải như thời xưa đâu chị ơi. Cứ kệ họ. Nhưng mà phải bắt họ cưới hỏi đàng hoàng, chớ làm chuyện núp lén rồi trót tay nhúng phải thùng chàm, bụng làm dạ chịu biết làm sao đây. Để bữa nào tui dỗ dành con Hai, tui hỏi coi nó nói sao.
- Ừ, bữa nào dì hỏi thử coi. Chớ tui hỏi nó, nó cứ nói nửa nạc nửa mỡ, hổng biết đâu mà rờ hết trơn...
Câu chuyện bàn tính giữa Má của Toàn và vợ chồng chị Tư Đen là câu chuyện nói lén trong lúc Toàn không có ở nhà. Đến Mỹ tho hồi 1 giờ chiều, dọn cất vali và thay đồ đạc xong, đến 5 giờ Toàn rủ đứa em gái con bà dì, tên là Ngọc 12 tuổi, nữ sinh trường Tiểu học Mỹ tho đưa Toàn đi xem qua trường Nữ Trung học, để coi địa điểm như thế nào, và có ở gần nhà bà dì không. Toàn rất vừa ý, vì từ nhà ở đường Lê Lợl đến trường Nữ Trung học ở đường Ngô Quyền, Toàn đi bộ không đầy 15 phút. Nhân tiện, em Ngọc đưa Toàn đi rảo qua vài đường lớn trong thành phố, Hùng Vương, Gia Long... Đến một vườn dọc một bóng cây có một đám đông người chen đứng chật ních, nghe một người gãy đàn guitare, vừa ca bài ‘‘Con thuyền không bến’’
Toàn không chú ý đến lắm vì không phải thật lúc rỗi rãi để nghe đàn. Cô nắm tay em Ngọc đi nhanh, tránh đám đông người. Em Ngọc bảo:
- Chàng nghệ sĩ mù đấy, chị Hai à.
Toàn hơi ngạc nhiên:
- Chàng nghệ sĩ mù nào?
- Cái anh hát và đờn guitare đó.
- Người mù à?
- Dạ. Anh ấy đui hết hai con mắt
- Ai đặt cái tên ‘‘chàng nghệ sĩ mù’’ đó?
- Dạ, em đâu có biết. Em nghe tụi trong lớp cứ gọi anh ta như vậy, em cũng bắt chuớc gọi theo.
- Tụi bạn trong lớp em đứa nào cũng biết anh ta sao?
- Dạ, biết hết chớ. Học trò đứa nào cũng biết. Chàng nghệ sĩ mù hát hay lắm, chị ơi! Đờn cũng hay nữa. Sáng nào đi học em cũng thấy anh ấy ngồi hát và đờn ở góc đường Lê Đại Hành, người ta bu lại nghe rồi cho ảnh tiền.
- Vậy hả.
- Dạ.
- Em có cho không?
- Em đâu có tiền mà cho.
Toàn cười, rồi hỏi tiếp:
- Sao em biết chàng nghệ sĩ mù hát hay?
- Sáng nào đi học, em cũng đi tới góc đường Lê đại Hành đứng nghe một chặp rồi mới đến trường. Mấy đứa trong lớp em cũng vậy. Ở Sàigòn có nghệ sĩ mù đi hát và đờn để kiếm tiền như vậy không, chị Hai?
- Có chứ. Nhưng không phải là nghệ sĩ.
- Thế thì nghệ sĩ là sao hả chị?
- Không phải ai ca hát được, chơi đờn được, là nghệ sĩ. Phải là người có tài, đàn thật là hay, giọng hát thật là trong, hoặc thật cao, hoặc thật ấm, thế mới là nghệ sĩ. Chị thấy mấy người mù đi hát dạo ở trong sở thú Sàigòn hoặc trong các tiệm ăn, người ta cho họ tiền vì thấy họ mù loà người ta thương, chứ đâu phải họ hát hay.
- Nhưng chàng nghệ sĩ mù hồi nẩy đó hát và đờn nghe mùi lắm chị ơi. Tụi em nghe mà mê!
Câu chuyện phiếm về chàng nghệ sĩ mù đến đây vừa hết vì Toàn và em Ngọc đa về đến nhà. Ở nhà, má Toàn và vợ chồng chị Tư Đen nói lén về chuyện Toàn, cũng vừa chấm dứt vì Toàn đã về.
Đêm đầu tiên ở Mỹ tho, Toàn trằn trọc không ngủ được. Đúng là đêm đầu tiên, vì tuy Mỹ tho chỉ cách Sàigòn vào khoảng hơn 70 cây số, nhưng với Toàn nó vẫn là một thành phố xa lạ. Từ nhỏ đến lớn Toàn chưa bước chân đến đây bao giờ.
‘‘Lạ nước lạ cái’’, lạ nhà lạ cửa, một cô gái đang có bao nhiêu ý nghĩ băn khoăn về thân phận, về duyên kiếp về nghề nghiệp, làm sao ngủ được?
Trorg phòng riêng, đèn tắt tối om, Toàn khẽ nghiêng mình về chiếc bàn con, dòm mặt đồng hồ có những con số bằng lân tinh, màu xanh sáng ngời. Toàn ngạc nhiên nhìn thấy cây kim giờ chỉ số 1. Mới đó mà đã một giờ rồi! Toàn nằm trở lại ngay thẳng trên chiếc giường lạ, nhắm riết mắt và tự bảo: Khuya quá rồi, phải ngủ, để sáng dậy tỉnh táo vào trường trình diện với bà Hiệu trưởng.
Nhưng rồi Toàn vẫn không ngủ được, Toàn muốn đếm con số từ 1 đến 100 để dễ buồn ngủ, nhưng đếm thầm từ 1 đến 10, 11, 12... 15... 20, 21, 22... 30 rồi thứ tự bị đứt đoạn, để thay vào đó những hình ảnh quen thuộc, quyến rủ say mê của dĩ vãng... Trí nhớ của Toàn cứ ôn lại đoạn đời của Toàn vừa mới trải qua... Một đoạn đời xinh đẹp không ngờ! Đáng lẽ không bao giờ Toàn làm được cô giáo. Số phận hẩm hiu của Toàn từ hồi niên thiếu, tưởng đâu không thể nào thoát ra được khỏi tối tăm, bần hàn. Ngay từ thuở bé, đã phải giúp mẹ dọn dẹp bếp núc, quét tước nhà cửa, rửa chén, nấu cơm, để mẹ đi buôn thúng bán mẹt kiếm tiền nuôi đàn con dại. Ba má Toàn đã nghèo mà sinh con chi cho lắm thế? Toàn phải bồng bế và săn sóc bốn đứa em! Ba của Toàn làm thợ trong một xưởng cưa, lương tháng hụt trước thiếu sau, cố tiện tặn cho mấy cũng không tránh khỏi nợ nần. Cơm ăn bữa no bữa đói, quần áo tấm rách tấm lành, khi Toàn đã trông thấy cảnh ba má Toàn cãi lộn và đánh nhau vì công nợ vì hết gạo, hết tiền. May sao ba Toàn cố gắng làm việc được tăng lương, thêm tiền phụ cấp gia đình, mẹ Toàn cũng tần tảo bán buôn. Khi Toàn lên 9 tuổi, cha mẹ Toàn cố gắng dành dụm chút ít tiền cho Toàn được đi học. Toàn không ngờ học mau tấn tới, đến 14 tuổi đỗ bằng Tiểu học. Tấm bằng Tiểu học này là cả mồ hôi nước mắt của ba má Toàn đúc kết thành. 18 tuổi Toàn học Đệ tứ, gặp lúc vận nhà nguy biến, cha mẹ Toàn không còn cách nào cho Toàn tiếp tục học được nữa. Toàn bị đuổi ra khỏi trường, suýt phải về nhà trở lại nghề giữ em, làm bếp, đi chợ, và đành ôm phận dốt nát thấp hèn, sống chuỗi ‘‘ngày tàn trong ngõ hẹp’’ Ba Toàn lại bị đau nặng, nằm nhà thương Đô thành, má Toàn buôn bán ế ẩm. Ngẫu nhiên, ông giáo sư Ngọc Minh đến cứu Toàn, không khác nào một vị thiên thần từ trên Thiên đình giáng xuống để nâng đỡ Toàn lên khỏi vực thẳm. Toàn đỗ bằng Trung học, rồi bằng Sư phạm, là hoàn toàn nhờ sự giúp đỡ tinh thần và tiền bạc của ông giáo sư Ngọc Minh... Toàn thật không ngờ ngày nay Toàn có phước được làm cô giáo ở trường Nữ Trung học. Toàn nhớ lại hầu hết những lời lẽ thâm thúy và cao thượng vô ngần mà Ngọc Minh đã nói với cô trong bữa tiệc mừng cô thi đậu. Ngọc Minh là một ánh sáng thần tượng tươi đẹp ảo huyền chiếu vào mảnh đời đen tối của cô.
Toàn nhìn thấy ánh sáng ấy gần lắm, mà cũng xa lắm! Cô với không đến. Ngọc Minh là một mặt trời rực rỡ mà cô chỉ là một đóa hoa hoang vu ở bên đường!
Nhưng trở về thực tế Toàn vui sướng, và lo ngại, cảm thấy bắt đầu giai đoạn xây dựng cuộc đời mình với tự sức mình. Cánh cửa đời từ nay mở lớn, đường đời rộng thênh thang, xa biền biệt... Không biết tương lai sẽ để dành cho mình những biến cố bất ngờ gì. Tuy chung quanh Toàn không thiếu bạn bè thân quyến nhưng Toàn vẫn thấy đơn độc, quạnh hiu, chơ vơ, một hình một bóng.
Gương mặt hiền hoà, điềm đạm của ông giáo sư Ngọc Minh vẫn hiện ra luôn luôn trong tâm tư của Toàn. Hình ảnh đẹp nhất, trong sáng nhất, cao quý nhất,- của người đàn ông, đã in vết đậm trong tư tưởng của cô.
Toàn chưa hề yêu ai bao giờ cả. Suốt thời kỳ ở dưới mái học đường, Toàn chỉ chăm học, quyết lo xây dựng cho tương lai trước hết, không bao giờ nghĩ đến một cuộc phiêu lưu tình cảm. Tim của cô gái 21 tuổi ấy, chưa hề rung động xao xuyến vì hình ảnh một chàng trai nào mặc dầu Toàn vẫn được bao nhiêu gã thanh niên si mê, cầu khẩn chút hương yêu. Không phải sắt đá, nhưng Toàn không tin tưởng vào những cuộc ái ân non nớt, bồng bột, quá hời hợt và quá tầm thường. Dĩ nhiên một ngày nào đó Toàn sẽ yêu một người nào đó. Nhưng “ Người ấy là ai?’’ Toàn buồn bã nghĩ rằng người ấy… chắc không phải là ông Ngọc Minh!. Không, Toàn không được diễm phúc tuyệt vời ấy!
Dù sao, đến Mỹ Tho được hai hôm, Toàn liền viết thư thăm vị ân nhân, và thưa để ông rõ công việc cô sắp đặt ở nhà người dì như thế nào, mà những cảm tưởng đầu tiên của cô đối với thành phố xa lạ như thế nào. Ông Ngọc Minh phúc đáp thư cô, ân cần hỏi han, dặn dò, khuyên bảo. Cuộc trao đổi thư từ giữa cô và ông Ngọc Minh vẫn đượm màu thân mến, dịu dàng,tin cậy, nhưng vẫn không vượt ra ngoài phạm vi lễ giáo …