- 3 -
Mặc dầu có những rào đón đề phòng để khỏi bị nghi ngờ, một vài dư luận trong các giới thân cận của Toàn, nhất là ở ngay hai trường Nam Nữ Trung học, vẫn đưa ra đôi lời phê bình hoặc vu khống bịa đặt mỉa mai cô giáo sư Phạm thị Toàn. Có lẽ vì ghen ghét Toàn được đa số nữ sinh kính mến, vì Toàn có những cử chỉ cao thượng không thích hợp với vài bạn đồng nghiệp, vì Toàn có sắc đẹp lộng lẫy, thùy mị nhưng nghiêm trang, vì có vài người đã dò hỏi ở Sàigòn biết rõ Toàn là con một gia đình lao động nghèo khó ở xóm nhà lá rách rưới nơi ngoại ô, hoặc vì lý do nào khác nữa, một thiểu số độ vài ba cô giáo, thầy giáo, đồn đãi nhiều chuyện không tốt cho Toàn. Thí dụ họ loan tin rằng cô Toàn ‘‘mê cái thằng ca sĩ đui’’, và ‘‘cung phụng cho nó đủ các thứ’’. Luôn luôn họ phê bình có ác ý: ‘‘Thiếu gì thanh niên mà đi yêu một thằng mù tại nó có giọng hát mê hồn chứ gì!’’. Một nữ sinh Đệ thất một hôm trong giờ chơi, lại hỏi cô:
- Thưa cô người ta đồn cô có mèo với cái anh nghệ sĩ mù ở góc đường Lê đại Hành đó, phải không, cô? Em không tin như vậy đâu, cô à.
Toàn mỉm cười:
- Ai bảo với em thế?
- Chị của em bảo em thế thật đấy.
- Chị em là ai?
- Chị Hồng em làm Nữ Phụ tá Xã hội đó.
Toàn thản nhiên bảo em nữ sinh:
- Chị em lầm đấy.
Trưa về nhà, Toàn thuật lại câu chuyện cho Bà Tư nghe. Bà Tư tức giận bảo:
- Mấy người đó sao ưa đặt chuyện nói xấu người ta vậy? Tưởng ai chớ cô Hồng, cả tĩnh Mỹ tho nầy, ai còn lạ gì cổ! Cổ lấy hàng tá chồng, toàn những Trung úy, Thiếu úy, chớ tốt lành gì đó mà bươi móc chuyện người khác? Sao mà dì ghét hạng người đó quá!
- Cháu nói chuyên lại để đì nghe chơi cho vui vậy thôi. Chứ cháu đâu có sợ những dư luận vu vơ. Cháu làm việc phải, cháu biết. Một trăm một ngàn cái dư luận tàn ác hơn thế nữa cũng không làm cháu nao núng được đâu!
- Tâm địa người ta phần nhiều như thế đó, cháu ạ. Mình làm trái, người ta cũng chê, mình làm phải người ta cũng ghét. Cháu biết cô Hồng là ai không? Con một, quý phái ở tỉnh nầy đây. Má cổ buôn hột xoàn và chuyên môn cầm đồ để cắt cổ mổ họng người nghèo. Ba của cổ làm công chức bự hồi còn thời Tây lận. Gia đình giàu sang như vậy, họ khinh kẻ nghèo cũng không có gì lạ! Họ phách lối lắm, cháu ơi. Họ đặt đìều nói xấu cháu là
tại họ ganh ghét cháu và khinh khi người nghệ sĩ mù. Họ đâu có lòng nhân đạo. Họ có thành kiến giai cấp nặng lắm... Dầu cháu làm tới Giáo sư Trung học, mà họ biết gia đình cha mẹ cháu là dân lao động, con nhà nghèo nàn, thì họ vẫn coi cháu rẻ rúng, không ra chi...
Suốt ba tháng, không một buổi chiều nào cô Toàn không vào thăm người bịnh của cô. Cô săn sóc chàng với tất cả lòng tận tụy, hiền từ, có những cử chỉ hồn nhiên rất dịu dàng, khiêm nhượng.
Sự hiện diện thường xuyên của cô chỉ trong thời gian vài ba chục phút mỗi ngày ở bên cạnh chàng, đối với chàng là một linh được có hiệu nghiệm và quý báu hơn tất cả những vị thuốc hay của Bác sĩ.
Cứ vào khoảng 5 giờ chiều, chàng nằm trên giường bịnh, nghe tiếng guốc của cô nhẹ nhàng từ ngoài cửa bước vào, rồi tiếng êm dịu hỏi chàng: ‘‘Hôm nay anh đã bớt nhiều chưa’’, chàng có cảm giác như một vì Ngọc nữ trong thần thoại hiện ra hỏi thăm chàng. Chàng cứ nghĩ rằng chàng đang sống một giấc mơ tiên. Đã sẵn có tâm hồn nghệ sĩ, lại bị mù lòa, chỉ nghe tiếng nói của thiếu nữ thanh thanh như tiếng nhạc mơ hồ, chàng tưởng tượng đấy là một giai nhân diễm kiều trong mộng chứ không phải là một người thật ở ngoài đời.
Chàng có thấy gì đâu? Chàng có biết gì đâu? Chàng đang rên rỉ giữa đêm thẳm vô biên, với những vết thương không thể nào hàn gắn được, trong giờ phút gần như hấp hối, bỗng nhiên chàng nghe tiếng gọi huyền diệu của Hư Vô. Chàng tưởng như đã nhìn thấy ánh sáng... Một tia sáng diễm lệ đã chiếu rực rỡ vào vực thẳm mù mịt của đời chàng.
Nàng là ai? Cũng không phải một hình ảnh nữa, vì chàng có trông thấy gì đâu. Nhưng chàng cảm giác như một hiện diện thiêng liêng, đem đến cho chàng một nguồn hy vọng an ủi vô cùng linh nghiệm. Chàng thấy bịnhh tình đã thuyên giảm được nhiều, vết thương mỗi ngày mỗi êm dịu.
Bác sĩ đã phải nói với cô Toàn, một buổi chiều gặp cô trong bịnh viện ra về:
- Nhờ cô mà bịnh nhân đã mau khỏe mạnh. Anh ta sống được, là cái ơn của cô.
Cô Giáo sư trẻ tuổi nhã nhặn đáp:
- Tôi có làm gì được đâu. Người bịnh khốn khổ ấy không thể nào bình phục được nếu không có sự săn sóc thuốc men rất tận tụy của Bác sĩ, và tài nghệ tinh vi của Bác sĩ. Bác sĩ đã cứu anh ta khỏi chết và khỏi bị tàn phế.
- Tôi chỉ dự vào chút ít thôi, cô giáo ạ. Tôi biết theo kinh nghiệm của tôi trong bao nhiêu năm hành nghề, Y học cố gắng có thể sửa chữa lại một phần nào những tan nát đổ gãy trong sức khỏe của con người, nhưng chỉ có yếu tố tâm lý mới cứu vãng được nguy biến lớn lao. Biết bao nhiêu những chứng bịnh mà Y học có thể cứu chữa được một nửa thôi, chính vì Y học không có tài gì cứu chữa tâm lý bị suy nhược của bệnh nhân. Người ta có nói cho tôi nghe về tình trạng của anh ‘‘Nghệ sĩ mù’’ nầy. Kể ra, anh ta cũng đáng thương và đáng mến. Biết đâu, anh ta có thể trở nên một nghệ sĩ tài hoa của đất nước nếu gặp cơ hội thuận tiện cho tài năng nẩy nở. Vì cô là giáo sư, cô cũng biết rằng tất cả những thiên tài đều do hoàn cảnh đào tạo một phần lớn. Biết bao nhiêu những người mù đã trở thành vĩ nhân của thế giới trong các lĩnh vực âm nhạc, Văn chương, Học thuật, Xã hội, vì nhờ hoàn cảnh khuyến khích thiên tài của họ. Hoàn cảnh của anh nghệ sĩ mù đang nằm trong bịnh viện, cách đây ba tháng có thể làm cho anh tuyệt vọng, oán đời ghét đời, rồi tinh thần khủng hoảng, suy nhược dần dần. Dù thuốc men có tài giỏi chăng nữa cũng chỉ hàn gắn tạm cái vết thương nguy hiểm của anh mà thôi. Đến khi anh ra khỏi bịnh viện, anh sẽ chỉ còn là một kẻ tàn phế vô ích, oán hận xã hội và cũng bị xã hội ruồng bỏ, khinh khi. Nhưng anh được may mắn có cô săn sóc, an ủi. Sự hiện diện thùy mị dịu dàng của cô mỗi ngày đã cứu vớt anh ta hơn tất cả những món thuốc của Y khoa. Tôi chỉ là Bác sĩ của một cái chân bị gãy, cô là Bác sĩ của cã một cuộc đời bị nguy nan trầm trọng. Cô đã cứu được tinh thần của anh. Cô đã cứu được lẽ sống của anh...
- Tôi chỉ thấy tôi vui sướng trong khi làm một bổn phận nho nhỏ.
- Còn hơn một bổn phận nữa chớ! Cả một hy sinh lớn lao, cô ạ. Nếu tất cả mọi người đều vui vẻ hy sinh như cô, hay là hy sinh một chút, một chút thôi, để cứu vớt những kẻ đau khổ, thì cuộc đời sẽ tốt đẹp hơn nhiều. Nhưng loài người tàn nhẫn lắm, xã hội ích kỷ lắm, đến cả đạo đức của con người cũng có phần giả dối, cho nên đời sống của nhân loại còn đầy dẫy những cảnh lầm than khổ hận!...
Đứng nói chuyện một lúc rồi Bác sĩ mời cô Giáo sư Phạm thị Toàn lên xe hơi của ông để ông đưa cô về. Cô Giáo nhã nhặn cảm ơn mỹ ý của ông, nhưng cô viện lẽ đường gần, và khí trời mát mẻ, cô thích đi bộ để hóng gió chiều.
Hầu hết bịnh nhân và y tá trong nhà thương Thủ Khoa Huân đều thích được vinh dự làm quen với cô Giáo sư Phạm thị Toàn và rất mến phục hành vi của cô.
Chàng nghệ sĩ mù đã gần bình phục hẳn. Ống chân của chàng khỏi bị tàn phế, chàng đã đi được gần vững và sắp sửa được ra khỏi bịnh viện.
Một buổi chiều chủ nhật, cô Toàn vừa đến, mỉm cười trong thấy chàng ngồi trên chiếc ghế đá ngoài sân bịnh viện. Cô đến gần hỏi thăm như thường lệ, xem vết thương đã khá nhiều. Cô đưa biếu chàng mấy trái cam. Người mù vui lòng nhận lãnh, cám ơn cô, và bảo:
- Thưa cô hai, Bác sĩ bảo độ nửa tháng nữa thì chân tôi lành hẳn, nhưng Bác sĩ cho phép tôi ở lại thêm một thời gian nếu tôi muốn. Tôi chưa biết tính sao... Tôi cứ phó thác cho bàn tay định mệnh..
- Ra khỏi nhà thương, anh sẽ ở đâu, và sẽ làm gì?
- Tôi trở lại nhà chùa, xin ở trọ như trước. Và tôi mong được tiếp tục đờn và ca, để làm kế sinh nhai.
- Tôi muốn đưa ý kiến như sau đây, tùy anh suy nghĩ nhé. Anh biết mỗi tháng tôi về Sàigòn hai lần. Chuyến vừa rồi, tôi đi thăm một người bạn gái ở Chợ lớn, ngẫu nhiên đi ngang qua một đường phố trông thấy một trường học khá lớn, ngoài cổng có tấm bảng đề là ‘‘Trường tiểu học người mù’’. Tôi có vào xem, thì mới biết là ở đấy có mấy lớp dạy người mù, toàn là nam học sinh, từ 10 đến 17, 18 tuổi. Thầy giáo có hai ba ông đều là người mù. Hiệu trưởng, một viên Đại úy, cũng là người mù. Trước kia ông là Đại úy trong quân đội Việt Nam Cộng Hòa, đặc biệt được bổ nhậm làm Giám đốc trường mù. Tôi ở Sàigòn đã lâu, nhưng lần đầu tiên tôi mới được trông thấy một trường học riêng biệt dành cho các thanh thiếu niên mù lòa, học Việt ngữ, Địa lý, sử ký, và nhất là âm nhạc. Theo lời viên thư ký nói chuyện với tôi thì số học trò mù mỗi ngày vào thêm mỗi đông mà nhà trường thì thiếu Giáo sư. Ở đấy hiện nay chỉ có hai Giáo sư mà thôi, dạy học bằng phương pháp Braille... của người mù dạy cho học sinh mù. Được biết đại khái như thế, tôi bỗng nẫy ra một ý nghĩ là anh nên đến đấy xin làm Giáo sư Âm nhạc... Hay là, nếu anh bằng lòng, tôi sẽ hỏi kỷ càng các điều kiện xin làm Giáo sư ở đấy, và nếu được, tôi sẽ tìm cách giới thiệu anh?...
Chàng nghệ sĩ mù suy nghĩ một lát rồi hỏi:
- Tôi làm sao có điều kiện xin dạy ở đó được?
- Tôi cũng chưa biết rõ những chi tiết nhưng tôi thấy hai Giáo sư ở đấy đều là người mù mà họ vẫn dạy học được cho gần 30 học sinh mù, thì có lẽ anh cũng dạy được vậy chứ. Anh chưa quen với phương pháp Braille để dạy chữ, nhưng anh là nhạc sĩ, anh có thể dạy âm nhạc.
- Dạ, hôm nào cô có dịp đi Sàigòn, nhờ cô hỏi thử xem... Nhưng tôi sợ tôi không có đủ khả năng để dạy ở trường mù. Vả lại tôi chưa nghe nói đến trường mù bao giờ. Bây giờ có nói, tôi mới biết...
- Tôi xin hứa với anh rằng tôi sẽ cố gắng vận động để anh được vào dạy ở trường ấy.
- Dạ, nhờ ơn cô...
Cô Toàn mở bóp lấy con dao, cắt một quả cam, trao bịnh nhân:
- Anh dùng tạm mấy múi cam.
- Dạ. Cám ơn cô Hai.
Chàng nghệ sĩ mù ăn cam xong, lấy khăn tay trong túi ra lau tay. Đây là một chiếc khăn của Toàn may cho. Cả áo quần sạch sẽ, trắng trẻo của chàng mặc đều là của Toàn sắm. Cho đến đôi dép chàng mang và cặp kính đen chàng đeo thường xuyên cũng là do Toàn mua cho. Tuy bị mù lòa, chàng vẫn có vẻ một trang thanh niên tuấn tú, nét thông minh vẫn lộ ra trên gương mặt hiền từ. Toàn hỏi:
- Hôm nay anh đã bước đi thật vững chưa?
- Thưa cô Hai, hôm nay tôi thấy chân tôi đã gần lành mạnh lại như trước... Tôi muốn đi để cô Hai xem...
Chàng nghệ sĩ mù vịn tay nơi thành ghế xi măng, đứng dậy... Chàng bước đi... Chỉ cái tội không trông thấy đường, nên chàng cứ phải đưa tay ra rờ phía trước, và hai chân phải dò dẫm lối đi, nhưng chàng bước đã chắc chắn, vững vàng, chân không bị thọt, không khập khễnh... Cô Toàn bước chậm rãi theo bên cạnh, để dìu dắt chàng. Thỉnh thoảng cô khẽ bảo:
- Anh coi chừng, có cái rễ cây lớn nơi bên lề đường...
Anh tránh qua tay phải... anh dừng bước mau... Coi chừng có bồn bông phía trước... Rẽ qua tay trái...
Đi một vòng quanh cả sân rộng, vừa nói chuyện về trường Mù Chợ lớn, rồi trở lại chiếc ghế xi măng dưới gốc cây, Toàn bảo:
- Thôi anh ngồi dưới gốc cây nghỉ.
Chàng thanh niên mù nở một nụ cười hãnh diện, sung sướng, đôi mắt đeo kính đen quay về phía Toàn:
- Hôm nay tôi biết có cô Hai vào thăm, nên tôi ra ngồi đây đón cô Hai, và tôi cố gắng đi được nhiều, để cô Hai xem.
- Anh đi thế có mỏi chân không?
- Thưa không, cô Hai. Tôi thấy khỏe lắm. Tôi không còn đau nhức nơi ống chân nữa. Tôi bước vững rồi, như cô Hai vừa thấy đó...
Chàng lấy tay rờ ghế xi măng và ngồi xuống:
- Xin lỗi, cô Hai...
Chàng ngồi im một lát, khẽ bảo:
- Mời cô Hai ngồi.
- Dạ.
Toàn chợt trông thấy Bác sĩ (Giám đốc bịnh viện, cùng Bác sĩ Võ thanh Bình bạn thân của ông, từ trong đi ra. Bác sĩ Bình ở Sàigòn và có phòng mạch tại Sàigòn, cô giáo Toàn mới quen biết ông được một tháng, do Bác sĩ Giám đốc bịnh viện giới thiệu một buổi chiều thứ bảy mà ngẫu nhiên hai người gặp cô từ trong bịnh viện ra về. Cuộc sơ ngộ đã gây cho bác sĩ Bình một rung cảm đột ngột. Một tiếng sét ái tình! Toàn không để ý đến. Nhưng rất ngạc nhiên khi đã đoán hiểu. Vị Bác sĩ trẻ tuổi vừa mới quen đã tỏ ra với Toàn những tình ý tha thiết bồng bột lạ. Từ hôm ấy, chiều thứ bảy nào Bác sĩ Bình cũng lái xe hơi Huê Kỳ từ Sàigòn xuống Mỹ tho để gặp cho được cô giáo Toàn. Đã có lần Bác sĩ Bình mời cô đi dùng cơm Tây tại nhà hàng sang trọng nhất ở Mỹ tho, có cả hai vợ chồng Bác sĩ Giám đốc bịnh viện. Toàn đã từ chối. Nhưng chính ông Giám đốc bịnh viện cũng khẩn khoản mời cô, để có dịp ông giới thiệu cô với phu nhân để hai người làm quen với nhau, cô giáo Toàn cảm kích hão ý của Bác sĩ Giám đốc, xin nhận lời và cảm ơn thịnh tình của hai vị Bác sĩ. Cơm xong, vào lúc 10 giờ đêm, Bác sĩ Bình lái xe đưa cô Giáo về nhà.
Toàn không trang điểm nhiều, nhưng tuyệt đẹp. Nói chuyện với Bác sĩ Bình, cô luôn nhã nhặn, vui vẻ, và rất đứng đắn. Toàn đã thấy rõ cảm tình nồng nhiệt của Bác sĩ Bình đối với cô, cảm tình thố lộ trong mỗi lời nói đầy tình tứ, trong mỗi tia mắt rạo rực si mê. Nhưng Toàn vẫn thản nhiên. Cô cười nói rất duyên dáng nhưng đoan trang, lịch thiệp mà nghiêm chỉnh, không kiêu kỳ, cũng không dễ dãi.
Chiều hôm chúa nhật ấy, Toàn đang đứng trước mặt chàng thanh niên mù ngồi trên ghế xi măng trong sân bịnh viện, cô trông thấy Bác sĩ Giám đốc bịnh viện với Bác sĩ Bình từ trong đi ra. Hai người vừa đi vừa nói chuyện thân mật, tiến đến cô. Hai người nghiêng đầu chào. Toàn mỉm cười và cúi đầu đáp lễ. Bác sĩ Bình nhanh nhẩu hỏi:
- Thế nào, chàng nghệ sĩ tài hoa của cô hôm nay đã lành bịnh hẳn chưa?
Bác sĩ Bình điểm một nụ cười mỉa mai, lộ chút ghen tương bóng gió. Toàn nhã nhặn trả lời:
- Dạ việc đó chắc là Bác sĩ Giám Đốc bịnh viện đây biết rõ hơn tôi.
Ông Giám đốc muốn xoa dịu giây phút gay cấn vụng về do bạn mình gây ra:
- Bịnh nhân hôm nay đã đi mạnh dạn. Trong 10 hôm nữa có thể khỏi hẳn được.
Toàn tiếp tục nói chuyện với Giám đốc bịnh viện về vấn đề bịnh nhân, trong lúc Bác sĩ Bình im lặng ngó chàng thanh niên mù vừa đứng dậy lễ phép chào ông Giám đốc. Bác sĩ Bình quay ngó cô giáo, với một nụ cười:
- Chiều hôm qua, thứ bảy, hình như cô bỏ quên người bệnh của cô?
Toàn ngạc nhiên hỏi lại:
- Dạ, chiều hôm qua tôi bận việc nhà, không đến. Nhưng thưa Bác sĩ, sao Bác sĩ biết?
- Chiều hôm qua tôi ở Sàigòn xuống đây, nhưng rất tiếc không được may mắn gặp cô.
Toàn mỉm cười, hỏm hỉnh đáp lại:
- Chính chiều thứ bảy Bác sĩ đã bỏ quên những bệnh nhân của Bác sĩ ở Sàigòn, để đi Mỹ tho!
Ông Giám đốc bịnh viện cắt ngang câu chuyện đối đáp bằng trí khôn giữa bạn ông và cô Giáo sư trẻ đẹp:
- Mời cô sang nhà tôi uống trà. Cô biết, từ hôm quen cô, vợ tôi cứ khen cô mãi và mến cô lắm. Hôm nay nhân tiện ông bạn tôi đây và tôi sang thăm một người bà con bịnh nặng, vợ tôi có dặn nếu gặp cô thì mời cô sang chơi. Bây giờ chắc cô rảnh?
- Dạ, tôi định vào thăm bịnh nhân một lát rồi về. Nhưng tôi có thể sang chào bà Bác sĩ, vì từ hôm được hân hạnh quen bà nhà, tôi bận việc quá chưa đến hầu thăm bà được... Xin phép Bác sĩ, để tôi đưa ông bạn của tôi vào phòng đã
Bác sĩ Bình bảo:
- Tôi tưởng cậu ấy có thể đi một mình được...
Toàn điềm nhiên trả lời:
- Nhưng thưa Bác sĩ, đây là một người mù. Và hơn nữa, một bịnh nhân ạ.
‘‘Chàng nghệ sĩ mù’’ cúi đầu chào ông Giám đốc bịnh viện, rồi đi theo ‘‘cô Hai’’. Cô khẽ đỡ cánh tay chàng, dìu dắt chàng bước đi chậm rai... Cô nhận thấy nét mặt chàng đang vui bỗng nhiên sầm lại, như buồn buồn đau khổ...
Toàn ái ngại, nhưng không thể từ chối hảo tâm của Bác sĩ Võ thanh Bình. Nhân vì Toàn nói bà vợ ông Giám đốc bịnh viện rằng còn mấy hôm nữa là nghỉ lễ Noël cô sẽ về Sài gòn thăm gia đình, Bác sĩ Bình chụp ngay cơ hội:
- Cô cho phép tôi sẽ đem xe đến rước cô về Sàigòn?
- Ồ! Bác sĩ có lòng tốt tôi xin thành thật cảm ơn, nhưng tôi đâu dám làm phiền Bác sĩ như thế!,
- Có gì là phiền đâu, cô giáo sư! Trái lại...tôi rất...
- Nhưng Bác sĩ ở Sàigòn...
- Chính trước Noël một ngày tôi sẽ xuống Mỹ tho thăm hai ông bà bạn tôi đây, rồi Noël tôi trở về Sàigòn. Nhân tiện, tôi xin rước cô về Sàigòn luôn.
Vợ ông Giám đốc bịnh viện tiếp lời:
- Phải đấy, 23 Décembre anh Bình sẽ đem xuống một vài món quà mà chúng tôi nhờ anh ấy mua giùm, rồi sáng 24 anh trở về Sàigòn, sẵn xe anh ấy có thể đưa cô giáo sư về Sàigòn.
Chồng bà cũng tán thành ý kiến ấy. Chối từ thì có vẻ khiếm nhã, cô Toàn cảm ơn hảo ý của Bác sĩ Bình và sáng ngày 24 cô lên xe đi với ông. Sự thật, Toàn biết Bác sĩ Bình yêu cô, mê cô, và tìm mọi cơ hội để tỏ tình yêu ấy. Hơn nữa, trong vài câu chuyện thân mật giữa cô và bà vợ ông Giám đốc bịnh viện, cô đoán chừng như có cuộc vận động ngấm ngầm của Bác sĩ Bình nhờ vợ chồng người bạn đứng trung gian làm mai mối cô cho ông. Toàn vẫn tỏ thái độ vô tình, để xem như thế nào, và nhất là để tìm hiểu tư cách của Bác sĩ Võ thanh Bình. Nhân dịp ngồi cạnh ông trong chiếc xe huê kỳ từ Mỹ tho về Sàigòn, trao đổi câu chuyện tâm tình, Toàn đã hiểu được Bác sĩ Bình, là người như thế nào rồi. Cô nhận thấy chưa gì mà Bác sĩ Bình đã tỏ ra một tính ghen tuông quá tầm thường, ông mỉa mai cô sao lại săn sóc một kẻ bịnh nhân mù lòa mà ông bảo là ‘‘hạ cấp’’.
Ông vẫn khen cô có lòng nhân đạo, nhưng ông ghen với kẻ tàn tật được cô săn sóc, đỡ đần, và ông đã tỏ ra ích kỷ một cách tàn nhẫn và bần tiện, muốn bảo cô đừng giúp đỡ ‘‘thằng đui hạ lưu’’ ấy nữa, theo lời ông mạt sát chàng thanh niên xấu số kia. Ông hứa hẹn với cô một đời sống xa hoa rực rỡ, hạnh phúc tràn trề, nhưng trái lại ông sẽ yêu cầu cô đừng giao thiệp với lớp người ‘‘hèn hạ’’ mặc dầu chỉ giúp đỡ đôi chút.
Ông tỏ vẻ khinh bỉ ‘‘chàng nghệ sĩ mù” và ông ghê tởm những bệnh nhân, ông chỉ làm giàu trên những vết thương lở lói của họ, ông chỉ ham sống đời trưởng giả xa hoa nhờ các loại vi trùng hút máu những người mang bịnh, nghĩa là theo ông ‘‘những người đó có sống cũng không ích gì cho xã hội’’.
Toàn hỏi:
- Thưa ông, thế ông quan niệm nghề Bác sĩ như thế nào ạ?
Bác sĩ Võ thanh Bình đáp:
- Tôi nói thật với Toàn, tôi không ưa triết lý vẩn vơ. Nếu phải triết Iý, thì triết lý của tôi gồm hai chữ LaTinh: Primo Vivere, là lo sống trước đã. Cũng như người Tàu nói: dĩ thực vi tiên, lo ăn trước đã. Tôi học nghề Bác sĩ, nói thật với cô không phải để ‘‘cứu nhân độ thế’’ như một số Thầy thuốc tuyên bố giả dối đó đâu. Tôi chọn nghề đó là vì tôi thấy làm Bác sĩ dễ làm giàu, mau làm giàu. Đấy, cô xem, chỉ vài ba năm, tôi đã sắm được xe hơi, nhà lầu, và có đầy đủ tiện nghi để sống cuộc đời vương giả. Tôi nghe mấy ông bạn của tôi nói chuyện về ông giáo sư Ngọc Minh ở trường Đại học Văn khoa, một thằng cha triết học ươn ươn gàn gàn, cứ đem ‘‘Tình thương nhân loại’’ ra làm mực thước cho đời người. Sống như thế tức là sống thụt lùi về đời thượng cổ man rợ, đời Diogène, Esope, chứ không phải là đời Nguyên tử của loài người tiến bộ. Tôi mong Toàn đồng ý với tôi, và chúng ta sẽ xây dựng hạnh phúc gia đinh, nghĩa là hạnh phúc của chúng ta, bằng sắc đẹp, bằng tiền tài, bằng địa vị, bằng danh lợi. Tôi thú thật với Toàn rằng tôi yêu Toàn vì Toàn có một nhan sắc kiều diễm mê hồn. Đôi mắt của Toàn đẹp quá, Toàn à. Tôi chưa từng yêu một cô thiếu nữ nào mà sắc đẹp làm tôi say mê như Toàn. Nhưng tôi hơi ngạc nhiên, xin lỗi Toàn nhé, và tôi buồn thấy Toàn đối dãi dịu dàng gần như âu yếm một thằng đui, một thằng què, một kẻ thất nghiệp ngồi đầu đường xó chợ để hát kiếm tiền. Một đứa tàn tật như thế, tôi tự hỏi, sống làm chi trong xã hội? xã hội có nhờ cậy gì được nó không? Giả sử xe nhà binh cán nó chết, tôi tưởng cũng chẳng có ai thương tiếc nó đâu. Toàn là người có học thức. Một cô giáo sư Trung học là một bậc thượng lưu trong nữ giới, có tài hoa hơn người. Một đời sống xa hoa sung sướng trên nhung lụa mới xứng đáng với địa vị của Toàn. Tôi xin đem cả hạnh phúc cao quý ấy dâng tặng Toàn. Nếu Toàn bằng lòng, chúng ta sẽ làm đám đảm cưới linh đình nhất ở Thủ đô Sàigòn, đãi tiệc cưới tại nhà hàng Caravelle, mời hết các nhân vật to lớn trong chính phủ, và trong Y giới, Giáo giới. Cưới xong, chúng ta đi du lịch 3 tháng trăng mật, sang Nhật Bản, Phi luật Tân, và Úc Châu, Mỹ Châu, Âu Châu, ghé Ấn Độ chơi mười hôm rồi ghé Xiêm, ghé Miến Điện. Tôi đã sắp đặt chương trình như thế để hưởng hạnh phúc tuyệt với với Toàn, nếu Toàn... Toàn yêu kiều diễm lệ, Toàn... Toàn biết tại sau tôi 32 tuổi mà chưa có vợ không? Là vì tôi kén chọn một người vợ xứng đáng với tôi. Tôi xin thú thật với Toàn rằng đàn bà con gái, họ yêu tôi nhiều lắm. Vì tôi là Bác sĩ, vì tôi có nhiều tiền, vì tôi có xe hơi có biệt thự, có đủ cả. Tôi có thể làm ông Bộ trưởng, ông Đại sứ, còn hơn mấy ông Bộ trưởng bây giờ nữa đó. Nhưng các bà các cô ấy yêu tôi, tôi biết là họ chỉ muốn lợi dụng, thèm thuồng cái địa vị Bác sĩ của tôi thôi. Bây giờ tôi mới quyết định thành lập gia thất, và xây dựng hạnh phúc mà tôi muốn hoàn toàn, rực rỡ, với một người thật đẹp mà tôi thật yêu. Trời xui khiến tôi gặp Toàn. Ngay giờ phút đầu tiên tôi mới ngó Toàn, thật là một tiếng sét, tôi đã thấy ngay rằng Toàn là một vì Tiên nữ xuất thế, người đẹp duy nhất, người bạn trăm năm mà tôi đang tìm kiếm...
Bác sĩ Võ thanh Bình lái xe chạy chậm chậm... Ông âu yếm nhìn vào đôi mắt của cô giáo sư Phạm thị Toàn. Ông đợi cô đáp lại ông bằng một nụ cười chấp nhận. Nhưng Toàn im lặng, nghiêm trang, mắt đăm đăm nhìn thẳng phía trước...
Bác sĩ Bình không nản lòng, vẫn mỉm cười tình tứ, hỏi:
- Tôi đưa Toàn về thẳng biệt thự của tôi ở Hòa Hưng, Toàn nghỉ một lát cho khỏe rồi chiều tôi đưa Toàn về thăm Ba Má nhé?
Toàn vẫn làm nghiêm, không một lời đáp lại.
Tuy nhiên, Toàn là người lịch thiệp, không đến nỗi lỗ mãng. Dù cô không tán đồng tư tưởng của Bác sĩ Võ thanh Bình, và cô không chịu được những lời ông chỉ trích giáo sư Ngọc Minh và khinh miệt người nghệ sĩ mù, Toàn vẫn không muốn tỏ ra phẫn nộ. Bẩm tính hiền lành, thanh nhã, Toàn suy nghĩ một lúc rồi đáp:
- Mỗi người có một quan niệm riêng về ý nghĩa và giá trị của cuộc đời. Đứng về phương diện ông, có lẽ ông nói đúng...
- Cô giáo đồng ý chứ? Thế thì thật vinh hạnh cho tôi! Tôi chỉ mong ước được như thế thôi.
- Sự đồng ý, tôi chưa dám chắc... Vì tôi cũng có những ý nghĩ riêng của tôi...
- Tôi mong được Toàn trả lời sớm.
- Tôi sẽ không để ông chờ đợi lâu đâu.
- Thế thì hạnh phúc cho tôi lắm! Tôi hy vọng rằng Toàn sẽ cho tôi được mãn nguyện. Tôi xin thề với Toàn một tình yêu trung thành triệt để...
- Chúng ta sẽ xem xét lại vấn đề... Bây giờ xin nói chuyện khác...
- Toàn về thẳng biệt thự của tôi để nghỉ một lát cho khỏe nhé?
- Dạ. Không lẽ Bác sĩ có lòng tốt đưa tôi từ Mỹ tho về Sàigòn, mà tôi lại không tiễn Bác sĩ về đến tận nhà sao?
Nhưng xin thưa trước rằng tôi chỉ vào thăm năm phút rồi sẽ xin giã từ, vì tôi nóng lòng về thăm gia đình tôi.
Bác-sĩ Võ thanh Bình cười:
- Tôi phục cô giáo lắm. Cô ăn nói khôn ngoan lắm.
Tôi không lầm một khi tôi nghĩ rằng cô là người đàn bà hoàn toàn...người đàn bà lý tưởng.
Toàn mỉm cười:
- Tôi lại không ưa cái gì lý tưởng. Tôi ưa thực tế. Lý tưởng cao xa quá. Thực tế gần gũi hơn, có phải không bác sĩ?
- Chính thế... Nhưng cô giáo cứ cho tôi hết cái ngạc nhiên nầy đến ngạc nhiên khác.
- Bác sĩ ngạc nhiên lắm ư? Vì sao thế thưa bác sĩ?
- Vì Toàn thường ca tụng ông Ngọc Minh, ông ấy đâu có phải là con người thực tế? Toàn hy sinh thì giờ và tiền của để nuôi một phế nhân hèn hạ, đấy đâu phải là một hành động thực tế?
- Vậy thì, Bác sĩ bảo thế nào là thực tế?
- Thực tế là như tôi đã bảo với Toàn, đời sống xây dựng trên hạnh phúc thiết thực về tinh thần và vật chất theo những khả năng của mỗi người.
- Dạ, đấy là thực tế của người giàu sang, của người có những khả năng rộng lớn. Nhưng còn những kẻ chỉ có những phương tiện khiêm tốn hơn, và họ muốn xử dụng đầy đủ những phương tiện ấy theo sở thích của họ, không cần phải mơ tưởng chuyện cao xa, không muốn đuổi theo giấc mộng công hầu, thế chính họ cũng sống theo thực tế của họ đấy chứ?
- Toàn là giáo sư Văn chương có khác. Toàn lý luận khéo quá, tôi xin bái phục.
- Bác sĩ dạy quá lời... Tôi cho rằng cuộc đời có hai mặt, cũng như quả đất mà chúng ta đang bám vào đây. Chúng ta sống ban ngày khi quả đất xoay về phía mặt trời, nhưng khi quả đất xoay qua phía mặt trăng thì là ban đêm. Tựu trung, mặt nào cũng là mặt đất cả, và ban ngày ban đêm luân chuyển mãi mãi, không có bên nào sáng hẳn, không bên nào tối hẳn. Đấy là thực tế của vũ trụ, thực tế của mọi vật, thực tế của đời người. Thưa Bác sĩ có phải thế không?
- Toàn nói đúng, Tôi không cãi. Nhưng Toàn thích sống giữa ánh sáng rực rỡ của mặt trời, hay là thích ở trong bóng tối của ban đêm?
- Dạ thưa Bác sĩ, đã biết rằng sáng với tối vẫn là một, thì chúngta đâu có lựa chọn được. Cứ ở một chỗ mà có sáng rồi có tối, hết tối rồi lại sáng, mặt trời đâu có chiếu riêng cho ai?... Tối với sáng, cũng như mộng với thực. Ta nằm trong tối nhắm mắt lại, tưởng là giấc mộng, nhưng qua một đêm, mở mắt ra, thì tuần hoàn của thiên mộng sẽ là thực, thực sẽ là mộng, lấy đâu làm giới hạn? Lấy gì làm tiêu chuẩn?
- Toàn nói thế sao đúng? Đêm không phải là ngày. Trong ban đêm đâu có ban ngày? Trong ánh sáng chói lọi của mặt trời, đâu có bóng tối?
- Dạ, tôi đâu dám nghĩ rằng tôi nói đúng. Nhưng tôi nhận xét thực tế trong cõi đời ; không cớ ánh sáng nào mà không có bóng tối, không có ban đêm mà nào không có ban ngày. Thì đây, Bác sĩ đang sống trong huy hoàng nhung lụa, rực rỡ những ngọc ngà châu báu. Nhưng giữa cuộc sống xa hoa chói lọi ấy, biết bao nhiêu là những chuyện làm cho Bác sĩ buồn, giận, đau, khổ, tâm không vui tươi, hồn không thanh thoát: Thưa, đấy là những bóng tối trong ánh sáng! Những bóng tối nặng nề, tịch mịch, triền miên trong trí óc, trong suy tư, trong tư tưởng. Trái lại, chàng nghệ sĩ mù kia y không được diễm phúc trông thấy mặt trời. Y sống trong một vực thẳm âm u. Nhưng chắc chắn y phải có những lúc vui vẻ, phấn khởi, hân hoan, đầy hy vọng, đấy là ánh sáng thiêng liêng đã rọi vào hồn y, vào con tim y, đấy là hào quang ấm áp, rực Irỡ huy hoàng của Thượng Đế ban cho y. Thế cho nên, theo ý nghĩ nông cạn của tôi, ánh sáng và bóng tối chỉ là những tượng trưng. Cuộc đời hoa lệ hay đen tối đều là ảo ảnh. Tình cảm rạo rực trong lòng ta, rung động đê mê xao xuyến trong hồn ta đấy mới là thực tế. Kẻ có chân hạnh phúc, tức là kẻ nào được hưởng trọn vẹn những hân hoan sâu đậm của tâm hồn. Thưa Bác sĩ, có phải thế không ạ?
Bác sĩ Võ Thanh Bình im lặng một lúc, rồi bảo:
- Cô nói đúng.
Cô giáo Toàn đến thăm trường Mù ở Chợ lớn. Cô đi thẳng đến văn phòng ông Hiệu trưởng, xin vào yết kiến. Ông Hiệu trưởng cũng là một người mù, nhưng học giỏi.
- Thưa ông Hiệu trưởng, tôi có một người bạn trai bị mù. Trước kia anh ấy đã thi đậu Trung học Đệ nhứt cấp do một biến cố, rủi ro anh ấy bị mù từ mấy năm nay. Nay tôi muốn đến xin ông Hiệu trưởng làm ơn nhận cho anh ấy vào dạy tại trường nầy, thưa ông Hiệu trưởng có thể được không?
- Người ấy có biết đọc chữ nổi của người mù chưa?
-Dạ thưa... chưa.
- Chưa, thì làm sao dạy được? Chương trình học vấn ở trường Mù khác hẳn chương trình các học đường khác. Chúng tôi không phải dạy bằng lối chữ viết thường mà bằng lối chữ nổi của Louis Braille. Cho nên các giáo viên cần phải biết lối chữ ấy.
- Thưa ông Hiệu trưởng nếu thế thì xin ông Hiệu trưởng làm ơn cho người ấy vào học mẫu tự Braille một thời gian. Có lẽ người ấy sẽ mau biết. Trong luc đó, nhờ có bằng Trung học Đệ nhứt cấp người ấy sẽ co thể tạm giảng bằng miệng các bài học trong chương trình, như Sử, Địa, Văn chương chẳng hạn. Trong thời gian học chữ Braille, bạn tôi xin đóng tiền học phí, và nếu được ông Hiệu trưởng cho tạm dạy tập sự bằng miệng, người bạn tôi cũng không dám xin lương bổng gì đâu.
- Nói đúng ra, nếu thầy ấy đã có học lực đến T.H.Đ.N.C. thì học mẫu tự của người Mù sẽ mau chóng, và sẽ áp dụng được ngay trong việc giáo huấn cho các em. Đây là trường tiểu học, vì ở nước ta chưa có trường Trung học riêng cho người Mù. Nếu người bạn của cô sẽ quen thuộc với chữ nổi được rồi, thì thầy ấy có thể trở thành một giáo viên rất tốt. Xin thú thật với cô, ở trường Mù đây chúng tôi chưa có giáo viên đỗ T.H.Đ.N.C. Cô có thể cho tôi biết ngoài trình độ học vấn người bạn của cô còn có khả năng gì nữa không?
- Dạ thưa ông Hiệu trưởng anh ấy rất giỏi về Âm nhạc.
- À, thế hả? âmnhạc gì?
- Thưa anh ấy chuyên về tân nhạc, và cũng rất giỏi về cổ nhạc Nam phần.
- Hát hay không?
- Dạ thưa, anh ấy ca hay lắm.
- Thế thì được. Chính lúc nầy chúng tôi đang tổ chức một Ban Ca Vũ nhạc của trường Mù. Ở đây có một thầy ca rất hay, nhưng chỉ ca Vọng cổ, thầy ấy đang học ca tân nhạc. Người bạn của cô hiện giờ ở đâu?
- Thưa anh ấy ở Mỹ tho.
- Bao nhiêu tuổi?
- Thưa, 23 tuổi. Vì tôi dạy tại trường Nữ Trung học Mỹ tho có quen với anh ấy, nên anh ấy nhờ tôi lên xin giùm ông Hiệu trưởng.
- Được, tôi xin tán thành. Tôi sẽ nhận thầy ấy ăn ở luôn trong trường khỏi tốn tiền, trong thời gian thầy ấy cố gắng học mau lẹ phương pháp xử dụng lối chữ nổi riêng cho người Mù, thầy ấy sẽ dạy về ca nhạc, và giúp chúng tôi thành lập mau chóng Ban Ca vũ nhạc của người mù, để kịp biểu diễn trong dịp Tết sắp đến, lấy tiền giúp quỹ nhà trường. Xin thú thật với cô, quỹ nhà trường nghèo lắm. Chúng tôi muốn mở thêm nhiều ngành hoạt động mới cho học sinh Mù, theo những điều học hỏi của tôi ở các trường Mù bên Pháp, nhưng chỉ vì tài chính eo hẹp nên chúng tôi đành phải bó tay. Nếu ban Ca vũ nhạc của trường Mù chúng tôi sẽ thu được kết quả mỹ mãn, đó là hy vọng duy nhất cho công quỹ của nhà trường được dồi dào hơn, và hoạt động của chúng tôi sẽ được phát triển hơn. Tương lai của các học sinh Mù sẽ nhờ đó mà được thêm bảo đảm. Tôi chỉ còn lo tìm người dạy về môn vũ. Môn vũ thì hơi khó, vì một là cần phải các môn vũ lành mạnh của các em ở học đường, hai là dạy cho các em Mù khó hơn dạy các em bình thường.
- Thưa ông Hiệu trưởng, nếu ông Hiệu trưởng cần đến, tôi sẽ xin tình nguyện giúp về môn vũ, vì tôi được biết chút ít các môn vũ ở học đường.
- Nếu thế thì còn gì hơn. Phải, đúng là các môn vũ ở học đường phải do các thầy giáo và cô giáo có khả năng và kinh nghiệm về bộ môn ấy, chỉ huy cho các em trường Mù thì thích hợp lắm. Tôi xin thành thật cảm ơn cô giáo có thiện chí rất tốt đẹp.
- Nhưng vì tôi bận dạy học suốt cả tuần lễ ở Mỹ tho, tôi chỉ có thể về Sàigòn chiều thứ bảy. Vậy tôi xin đến đây dạy giúp về môn vũ cho các học sinh buổi sáng Chúa nhật. Tôi có thể dạy đến 4 giờ chiều, rồi còn phải đi xe đò về Mỹ tho, để sáng thứ hai có mặt ở trường tôi.
- Nếu cô sắp đặt cho chúng tôi mỗi tuần được một Chúa nhật như thế, cũng đã quý lắm rồi. Về vấn đề đài thọ các...
- Dạ, xin thưa trước rằng riêng về phần tôi, tôi xin giúp không, không dám nhận món tiền nào cả. Mong ông Hiệu trưởng cho phép tôi có dịp giúp đỡ chút ít các em học sinh Mù, và được vinh hạnh cộng tác với quý trường vì một phương diện rất hợp với sỡ trường của tôi là môn văn nghệ.
- Cô giáo tử tế quá... Cô làm cho tôi vô cùng cảm động..,
- Xin ông cho tôi biết bao giờ thì ông cần đến tôi?.. Chúa nhật tuần tới chăng?
- Dạ vâng... Nếu thuận tiện cho cô. Chúng tôi cũng đang gắp rút tổ chức, vì chỉ còn hai tháng nữa là đến Tết.
- Ông Hiệu trưởng định tổ chức trình diễn trong Tết hay ngoài Tết?
- Chúng tôi chưa nhất định. Xin thú thật với cô rằng vì thiếu ‘‘nghệsĩ’’ chuyên môn, thiếu cả ‘‘tài-tử’’, nên trước đây chúng tôi định tổ chức một cuộc trình diễn tàm tạm thôi, và chúng tôi cũng không mấy hăng hái. Chúng tôi đã cho dọ hỏi ý kiến vài bạn nam nữ danh ca, nhờ họ giúp sức, nhưng một vài người đòi hỏi tiền thù lao qua nhiều, một vài người không nỡ đòi tiền thì lại tìm cách tư chối. Thành thử chúng tôi cũng bị mất ít nhiều nhiệt hứng, tự thấy mình là bọn người Mù, ít ai thương xót tới, xã hội ruồng bỏ... Lâm lúc nghĩ mà tủi nhục lắm, cô Giáo à!
- Bây giờ chúng tôi sẽ cố gắng hoạt động để tỏ cho xã hội thấy rằng người Mù cũng là người, và cũng có đủ khả năng, có lẽ còn hơn những ngươi không Mù nữa.
- Nếu ai cũng nghĩ như cô thì an ủi cho chúng tôi biết bao!
- Thưa ông Hiệu trưởng, bây giờ tôi xin phép tạm biệt ông để về Mỹ tho. Ngày mai tôi bận dạy ở trường nhưng chỉ dạy vài hôm là nghỉ lễ Tết, vậy chiều ngày 1 tháng giêng tôi sẽ đưa người bạn tôi ở Mỹ tho lên trình diện ông Hiệu trưởng.
- Dạ. Cảm ơn cô.
Ông Hiệu trưởng tuy mù nhưng chắc đã quen thuộc đường lối trong văn phòng, nên ông đứng dậy ung dung tiễn cô giáo Phạm thị Toàn ra đến cửa không vấp các bàn ghế và đồ đạc để chật văn phòng.
‘‘Chàng nghệ sĩ mù’’ mà ở đây người ta gọi là thầy Năm Mỹ tho đã trở thành một giáo viên thực thụ ở trường Mù Chợ lớn. Chỉ một tháng đầu, năm ngón tay của chàng đã quen rờ trên các bảng chữ nổi, chàng đã đọc được các sách giáo khoa sử địa, và Việt văn làm riêng cho giáo viên và học sinh Mù với những tấm bảng đúc bằng chữ nổi. Chàng lại được ông Hiệu trưởng đề cử làm trưởng ban Văn nghệ, coi cả về ba bộ môn Ca Vũ Nhạc. Trong những giờ phút tĩnh mịch âm u, nhớ cô Toàn, người ân nhân trung thành, tận tụy, mà chàng không thấy mặt, chàng sáng tác vài bản nhạc u sầu gợi lên những tiếng tơ lòng lâm ly áo não. Hầu hết các bài chàng ca dạy cho học sinh Mù, do tự chàng đặt và tự chàng phổ nhạc, đều là những lời ai bi thống thiết, hoặc reo vang hy vọng tưng bừng, ông hiệu trưởng, các giáo viên, tất cả nhân viên và học sinh đều mê giọng đờn của chàng, nhất là chiếc đờn Hạ uy di. Ông hiệu trưởng đã phải nhiệt thành khen tặng: ‘‘Anh là một thiên tài’’, Chàng điều khiển cả hai bộ môn Ca Nhạc, trong hai tháng trời ròng rã đã hoàn thành một chương trình nghệ thuật dồi dào, với 8 nghệ sĩ Mù, Giáo viên và học sinh.
Cô Toàn, về bộ vũ, cũng đã thành công trong khoảng thời gian ngắn ngủi ấy với hai vũ điệu mới, rất hấp dẫn và vô cùng cảm động. Với 16 học sinh được lựa chọn, ở đây toàn là Nam học sinh Mù từ 10 đến 18 tuổi, cô cải trang thành 8 nàng thôn nữ và 8 nông dân trai trẻ cùng nhau múa hát mừng ngày lúa chín, và một vũ điệu Cendrillon. Tập dượt mấy lần chắc chắn có kết quả tốt đẹp không ngờ, ông Hiệu trưởng và toàn thể giáo viên đã quyết định ngày mồng 4 Tết ban văn nghệ trường Mù sẽ trình diễn công khai trên sân khấu Đô thành. Cô giáo Toàn tình nguyện phụ trách việc cổ động trên các báo và bán vé trước bắt đầu từ Rằm tháng Chạp ta.