← Quay lại trang sách

- 7 -

Tới chợ Tân Uyên, hai người không còn phương tiện đi nữa. Từ chợ vào đó có một con đường hẹp, trải đá đỏ, đường riêng của sở Thủy Lâm, bị bỏ phế trong những năm chiến tranh, rồi khi thái bình trở lại, sở nầy chỉ mới tu bổ sơ sịa thôi.

Không xe, không phải vì đường xấu, mà vì con đường đưa tới chỗ tuyệt đạo, và hai bên đường toàn rừng là rừng, không một bóng người qua.

Thu Vân chạy khắp chợ mới tìm được một cổ thổ mộ nhận chở họ vào đó.

Đi khỏi chợ độ hai cây số ngàn thì xe bắt đầu say rượu. Mỗi lần xe lắc lư là đôi bạn cười rộ lên, lấy làm hay ho lắm. Thăng đùa:

– Ta vượt bể ra khơi đây!

Thu Vân cũng phụ họa đùa theo, nhưng nàng vừa đùa vừa ám chỉ đến việc khác:

– Sóng gió sẽ to hơn thế nầy nhiều.

– Sao Vân lại chịu đi, không sợ sóng à?

– Vân liều. Vả say sóng cũng thú lắm. Và chính vì muốn được say sóng, nên Vân mới đề nghị lên đây.

Người đánh xe ngựa, không hiểu được những lời bóng gió ấy, nói:

– Chưa mà, thầy cô sắp được thấy sóng lớn đây.

Tức thì liền đó, chiếc xe ngã từ bên trái như lật đến nơi, rồi lại ngã sang bên phải, khìến Thu Vân kinh khủng níu chặt lấy Thăng. Thăng bị đụng đầu vào cột mui xe trong lần xe ngã dồn, còn đau điếng nên không săn sóc bạn được.

Lâu lắm chàng mới hoàn hồn cười nói:

– Khi đến nơi, ta phải sắp lại ruột gan cho nó có thứ tự trong đó mới được, giờ thì tim phổi gì cũng lộn tùng phèo trong ấy cả.

– Mấy năm trước Vân đi, đâu có quá tệ như vầy!

– Đi bằng gì?

– Bằng xe của …. ổng.

– Thảo nào. Đi xe hơi dầu sao cũng êm hơn xe ngựa chớ. Thu Vân có hối hận không còn xe hơi mà đi nữa hay không?

– Vân đã biết trước là sẽ như thế nầy thì còn hối hận gì?

– Sao Thu Vân lại chọn một nơi khổ như vầy.

– Có khó đi, mới không ai đến, và ta mới sống biệt tịch như Thăng muốn.

Phải, đây là một nơi biệt tịch. Cách chợ Tân Uyên độ mười lăm cây số trong rừng sâu, một hãng buôn Thụy Sĩ hãng Biedemann có tậu một sở trồng tiêu hồi tiền chiến, rộng độ 50 mẫu.

Việc canh tác thất bại, nên hãng ấy để cây mọc lại, biến sở tiêu ra một miếng đất săn bắn tư nhơn và một nơi nghỉ mát. Hãng có cất hai ngôi châlet dựa bờ một con suối có tên địa phương là Suối Sâu.

Đó là nơi lai vãng của những cặp nhơn tình từ xa đến, (vì lâu lắm người của hãng mới tới đó một lần) trong thời tiền chiến. Đầu năm 1945 ấy Thu Vân đã đến đó lần đầu với bạn hữu và đã vỡ lòng yêu nơi đó.

Vì thế khi Thăng băn khoăn tìm một nơi xa hẳn loài người trong một thời gian để tận hưởng tuần trăng mật thì Thu Vân sực nhớ lại nơi đây.

Đây là nơi đáp lại mơ ước của Thăng và nhứt là nhắc lại hạnh phúc của nàng.

Mấy năm trước, nàng có tìm đến đây một lần để thăm cảnh cũ. Hai ngôi châlet đã bị phá hủy, nhưng người giữ sở vẫn còn. Hắn cất một chòi tranh ngay trên nền một châlet cũ và, không ai trả lương cho vì chủ nhơn hình như quên mất sở rừng ấy, hắn sống về nghề săn bắn. Hắn có cho nàng biết, trong câu chuyện tình cờ, rằng hắn cất xong một cái chòi như thế trong ba tiếng đồng hồ.

Thu Vân biết đó là nơi ở được, mới đề nghị thế.

Anh đánh xe lại nói:

– Bận đi, tuy cũng vất vả y như bận về, nhưng về khổ hơn nhiều.

– Khổ làm sao?

– Rừng nầy, ngay hồi tiền chiến mà cũng có “ông thầy”, huống gì đường bỏ hoang từ lâu không ai đi… Bận về, tôi đi một mình, không có bạn lo lắm.

Thu Vân sợ hãi, nép mình vào Thăng. Đờn bà cao niên bao nhiêu, cũng cứ là em nhỏ đối với đờn ông, thành ra trong cuộc sống chung ngày đầu, Thăng không thấy sự chênh lệch nào cả, còn trái lại nữa.

Cây rừng ở đây tràn ra tới lề đường, họ chỉ thấy được một mảnh trời rất nhỏ, ốm và dài, như một cái mương nước xanh lơ chảy trên đầu họ.

Đằng chân trời, rừng khép lại trông như là tuyệt đạo ở gần đâu đó.

Đá đỏ trải đường, lâu đời không được bồi đấp, đã biến thành một thứ thổ chu nhuyễn bân mà móng ngựa đặt nhẹ xuống cũng đủ cho nó bay lên thành một thứ bụi mù.

Đôi bạn nghe chừng như sẽ không bao giờ đến nơi cả. Nhưng sau bốn tiếng đồng hồ vất vả, xe rẽ vào một ngõ đất ở bên trái con đường thì Thu Vân reo lên:

– Sắp đến nơi rồi.

Ngõ đất cắt sở rừng ra làm đôi vì không người đi nên cỏ mọc um tùm. Tuy nhiên, chính nhờ không người, không xe đi trên đó, nên nó không bị đào lở và hôm nay xe chạy được êm.

Ở đây, cây giao nhành lại với nhau, kết thành một nóc lá xanh không khít mặt, khiến nắng rơi vào bóng râm thành từng mõm nhỏ, thêu hoa trắng trên cỏ xanh. Hoa nắng rung rinh mỗi lần ngựa đạp lên cỏ; Thăng trả tiền rồi cho xe về để đi bộ hầu được nhìn những đóa hoa ánh sáng nầy lướt trên chiếc áo dài đen của Thu Vân.

Chàng đi trước, ngoái lại mỉm cười nhìn bạn. Chưa bao giờ chàng được thấy một Thu Vân đẹp ghê hồn như lúc nầy. Không biết có phải thiên nhiên tăng sắc đẹp của con người lên, hay vì ở đây không có người, không có người đẹp để tranh bằng và tranh hơn với Thu Vân?

Rồi chàng ngừng bước để lùi ra sau, xem người đẹp thướt tha đạp cỏ.

Tiếng chim lạ của một vùng không phải là quê hương của chàng, cho Thăng ấn tượng lạc vào rừng sâu, hơn thế lạc đến non tiên, và người thiếu phụ đi trước mặt chàng là một nàng tiên đang rước chàng vào điện Ngọc Hư.

Con đường đất tối như hang bỗng trở ra một vũng ánh sáng chan hòa. Miếng đất trồng chừng hai mẫu ấy có lẽ ngày xưa là sân chơi của hai sơn trại Thụy Sĩ, và chòi tranh đằng xa kia giúp Thăng đoán được con suối đang chảy trước mặt chòi.

Ở đây cây rừng không cây nào to hơn một ôm cả, nhưng vì cảnh hoang vu quá nên họ cứ nghe như là lạc vào giữa rừng già.

Họ đi bộ xuống dốc vì cuộc đất thoai thoải nghiêng xuống, và tiến về nhà chòi dưới kia.

Bây giờ dễ thường đã gần đúng ngọ rồi vì bóng họ gần tròn. Cả hai đều nghe đói lắm nên mau bước thêm. Thăng nghe mỏi cả hai tay vì chiếc va-li áo quần được sang từ trái qua mặt rồi từ mặt qua trái.

Họ ngạc nhiên mà không thấy bóng ai ra đón cả, cũng chẳng có gương mặt tò mò nào hiện ra sân để nhìn khách lạ.

Họ đã đến nơi. Nhưng Thăng không nhìn vào nhà. Một con suối rộng độ mười thước và có lẽ sâu đến ba thước đang khảy đờn trước chòi lá ấy, sát bên thềm.

Nước suối trong nhưng không thấy đáy vì đáy xanh đậm những thủy thảo, những rêu cỏ gì không biết.

Buộc vào cột nhà bằng một sợi mây rừng, một chiếc thuyền nan cứ muốn bứt dây mà trôi.

– Thích qua, Thăng nói.

– Ngày xưa suối được vét đáy hằng tháng nên cát trắng phơi ra dưới ấy, trông rất sạch. Lại có cầu qua suối, có thang xuống nước, có xuồng cao su, có giàn hoa lợp trên đầu khách tắm.

– Nhưng cảnh hoang phế nầy lại đẹp hơn. Giờ ta không thấy được sự sửa sang do con người, quên con người đi, và quên được tất cả mọi ưu phiền.

Thu Vân day lạì dòm vào cái chòi một buồng ấy rồi nói:

– Hắn đã đi vắng, ta đói chết!

Nói xong nàng bước vào chòi và Thăng nối gót theo bạn.

Chòi rộng độ năm thước và sâu lối sáu thước, vách bằng vỏ cây, và không ngăn buồng.

Mới bước vào, họ đụng ngay một cái bếp làm bằng ba cục đá ong, lửa nấu cơm buổi ăn trưa còn ngún nơi đó. Kế đó là một khạp đường thẻ đựng nước, chắc là nước suối. Cạnh khạp nước là một khạp nhỏ, Thu Vân giở nắp ra thì thấy gạo còn được phân nửa. Rồi sóng chén, rồi kệ để nồi ơ. Vài con khô sặc treo lủng lẳng trên kèo nhà, thòng xuống, đánh đòng đưa trước cơn gió nhẹ. Trong cùng là một chiếc chõng tre đơn sơ trải manh chiếu rách; một cái gối bằng tre ống chẻ hai chận lên một đầu chiếu.

– Y đi không biết chừng nào mới về.

– Chắc y đi săn. Để Thu Vân nấu cơm rồi ta ăn với cá khô nầy.

Lần đầu tiên Thăng sống trong gia đình riêng của chàng, trong sự săn sóc của một người vợ. Chàng nghe là lạ, hay hay và nhứt là nghe tình yêu của chàng bỗng dưng biến chất.

Thu Vân không phải là một cô nhân tình phải được chinh phục, hay đang chinh phục, hoặc đã chinh phục xong dù chàng chưa chắc nắm vững được trong tay, mà chàng còn hồi hộp sợ kẻ khác cướp đi, sợ nàng chóa mắt vì một mối tình khác; Thu Vân là một người hoàn toàn thuộc về chàng rồi, chàng khỏi lo không được, lo bị cướp nữa.

Kỳ lạ thay, lòng chàng, chàng nghe nhẹ như là không biết yêu là gì. Không, Thu Vân không có trên đời nầy, chàng không nghĩ đến nàng từng giây từng phút như trước cái ngày quyết định lên đường.

– Thăng nè!

– Gì đó Thu Vân?

– Thăng nên đi quơ nhánh khô, quơ cho nhiều thật nhiều.

– Cơm đã sôi rồi, còn quơ củi làm gì?

– Nhà không có hộp diêm. Nếu hắn không về thì chiều nay ta chết đói sao? Lấy lửa đâu mà nấu cơm. Phải nuôi lửa cho nó sống đến lúc nào hắn về tới đây.

– Thu Vân nè!

– Gì đó?

– Rủi chủ nhà nầy không phải là hắn?

– Thì cũng chẳng sao cả. Ta đủ tiền thì bất kỳ ai cũng vui lòng nuôi ta cho đến khi nào ta cạn túi.

– Nhưng Thu Vân ở nhà một mình có sợ hay không? Người chủ mới chưa biết hiền dữ thế nào?

– Sao lại một mình? Thăng đừng có đi xa đa nghen. Anh xe ngựa ảnh nói ở đây có “ông thầy”. Như vậy, chỉ nên tới mé rừng mà lượm củi thôi, không nên chun vào đó.

– Vâng mợ ạ.

Thăng nhái giọng miền Bắc khiến Thu Vân cười ngặc nghẹo. Chàng nhìn bạn cười rồi chạy a lại, vừa hôn bạn vừa nói:

– Thu Vân cười, trông thấy ghét ghê.

Thu Vân giấu hai tay lấm lọ sau lưng, đưa má tới cho Thăng hôn rồi giục:

– Đi mau lên, hết củi rồi. Đi chuyến đầu về ăn cơm là vừa.

– O.K. Có lẽ khỏi ăn cơm với cá khô. Thăng đi săn … cắc ké đây.

Khi nhà điêu khắc biến thành tiều phu khệ nệ ôm một ôm nhánh khô về gần tới chòi thì y ngẩng lên, hỉnh mũi đánh hơi vì mùi cá khô nướng bay ra tới đây, thơm phức. Đã gần buổi, Thăng nghe thèm món ăn nhà nghèo ấy quá sức.

Chàng chạy chớ không đi nữa, không vì quá thèm, mà để được về với Thu Vân. Đi chưa đầy cây số, đứng ở mé rừng thấy chòi tranh không sót một tấm tre đan nào, thế mà chàng cứ nghe là xa bạn lắm, lòng không còn bình thản như khi nãy ngồi trên chõng tre xem Thu Vân nấu cơm.

Vào tới nhà, chàng vứt đại củi xuống đất, nhánh khô gãy kêu răng rắc, vỏ cây bắn tung lên.

– Cơm đã xong chưa chị bếp?

– Thưa bác tiều, xong rồi ạ.

Chàng chạy a lại để hôn Thu Vân lần nữa. Bận nầy cả hai đều giấu tay sau lưng vì tay Thăng cũng đã bẩn. Họ đưa mặt tới trông như hai con gà chọi, hai tay sau lưng mỗi người trông tương tựa như đuôi gà.

– Hôn trừ cơm được không, Thu Vân?

– Sao lại không. Độ trước sầu trừ cơm lại không được à?

– Vậy hả? Té ra Thu Vân đã có sầu đến no? Lúc nào?

– Lúc Thăng đến nhà tặng hoa rồi vùng vằng ra về.

– Ha há, sao không nói cho Thăng biết để Thăng sung sướng; bây giờ đã sung sướng đến độ tột cùng rồi mới hay chi tiết đó thì không thể sướng thêm được nữa.

– Bộ Thăng thích làm Vân khổ lắm hả?

– Rất thích, Thu Vân mà khổ vì Thăng thì Thăng nghe sung sướng lạ kỳ.

– Ích kỷ.

– Có lẽ đúng. Nhưng Thu Vân có ích kỷ như vậy hay không? Nghe Thăng khổ vì Thu Vân, Thu Vân …

Thu Vân đập mạnh đầu vào ngực Thăng rồi nói nhõng nhẽo:

– Có…ó…ó…

– Hình như yêu là ích kỷ.

– Đừng có nói triết lý, nghe mệt lắm. À, Thăng nói gì mà sung sướng quá rồi không thể sung sướng được nữa.

– Thu Vân cứ bỏ vào ly nước nửa chén đường thử xem. Không bao giờ đường tan hết được cả. Nó chỉ tan đến nước nào đó thôi, và cái nước đó người khoa học gọi là cái độ bảo hòa.

– Nữa, hết triết lý đến khoa học.

– Thì tại Thu Vân hỏi. Nầy, nghe cho hết đây. Cũng chỉ mới ôn lại để dạy học trò, nên còn nhớ được, Thăng sắp dạy môn Toán Lý Hóa. Đường chen vào nước, như ta chen vào đám đông. Ta có năm mươi người mà đám ấy thì đông đúc quá thì chỉ độ hai mươi đứa là xâm nhập vào khối đông được thôi.

– Gàn. Thôi ăn cơm kẻo đói quá thì … à, tại sao ta đói quá, ta lại ăn không được? Chắc bụng đói đã tới độ bảo hòa rồi hả?

– Cái đó thì chịu. Ăn rồi uống gì Thu vân.

– Trà Huế. Hắn có cả khạp trà Huế phơi khô.

Trong bữa ăn, cứ thỉnh thoảng Thu Vân ném vào bếp lửa một cây củi, để nuôi lửa như nàng đã nói. Thăng ngạc nhiên mà thấy bạn có những đức tính nho nhỏ của một người nội trợ, mặc dầu nàng không làm nội trợ bao giờ.

– Hắn có thể tìm đồ ăn cho mình được hay không Thu Vân? Thăng nhai khô sặc nghe mỏi răng nên hỏi như vậy.

– Thỉnh thoảng hắn đi chợ…

– Chợ nào?

– Chợ Tân Uyên.

– Đi xa dữ vậy à?

– Hắn băng rừng, thâu ngắn đường lại chỉ còn xa độ một phần ba thôi. Có tiền là muốn ăn gì có nấy trong hai ngày đầu.

– Sao lại chỉ trong hai ngày đầu thôi?

– Vì cá thịt để lâu quá không được. Rau cũng vậy. Ở đây hắn chỉ trồng ớt, gừng, rau răm thôi. Nếu muốn ăn rau khác thì phải dặn hắn mua.

– Sao hắn không trồng đủ thứ rau như ở thôn quê Thu Vân?

– Dân rừng và dân săn họ như vậy đó. Họ không ưa trồng trọt. Nếu ưa thì họ đã ở đồng làm nghề nông rồi.

Tuy nói vậy chớ cũng có thể kéo dài số đồ ăn dự trữ. Ta mua gà chẳng hạn, rồi cột đó, để dành. Ngoài ra, ngày nào hắn cũng săn được con gì.

– À, hắn bán thịt rừng, chắc phải đi chợ thường hơn Thu Vân nói chớ.

– Không. Săn được gà rừng, chồn, thỏ thì hắn để mà ăn, vì không đáng mang đi xa. Chỉ khi nào được man, mển, hắn mới đem ra chợ thôi.

Họ đã xong bữa cơm. Chỉ có hai cái chén và hai đôi đũa đó thôi, nên Thăng không cho bạn rửa, mặc dầu chỉ bước có hai bước là tới bờ suối.

Bờ suối ở đây đã được tay người sửa sang từ hồi tiền chiến. Nó không dốc xuống như ven các suối thường mà bằng mặt, vì bực suối được đóng cọc đứng và khít rịt với nhau. Đầu cọc ngang mực với mặt nền nhà, và từ hàng cọc vào nhà, họ đổ đầy cát trắng lấy ở đáy suối.

Ngồi ở bờ suối mà khom xuống thì như là ngồi ở bờ hồ tắm xi-măng, khỏi dùng thứ nước dơ của các bờ cạn.

Công việc rửa chén dễ dàng và nghe chừng thú lắm, nên Thu Vân cứ đòi đi rửa.

– Thu Vân rửa tay thôi rồi trở về đây nghe cái nầy, ngộ lắm.

Khi Thu Vân vào chòi thì thấy Thăng nằm trên chõng, mắt lim dim. Chàng nói, khi nghe tiếng bước của bạn.

– Ăn cơm xong, nghe gió hiu buồn ngủ ghê. Thu Vân nằm đây, nghe cái nầy.

Nhà chỉ có một chiếc gối. Thăng chìa tay ra cho bạn gối đầu:

– Thu Vân nhắm mắt lại, rồi lắng nghe.

Quả thật thế, ở đây rất nhiều âm thanh và tiếng động mà từ sớm đến giờ Thu Vân không chú ý tới.

Các thứ âm thanh, tiếng động ấy nằm trên nhiều cung bậc do gần xa, cao thấp.

Đầu tiên, suối chảy đờn bằng một giai điệu ngắn và độc nhứt, cứ khảy đi khảy lại mãi, vô cùng bất tận, mới nghe thì thích, nhưng nghe mãi đâm ra chán tai.

Kế đó, chim vu cốt từ trên rừng xa gởi xuống những tiếng kêu nghe như là chim đứng trên hết tất cả mọi ngọn cây cao mà hót, tìếng chim bao trùm vạn vật như một cái vòng tròn.

Vu cốt… vu cốt… vu cốt …

Còn con chim gì đôi bạn không biết tên, mà nó kêu như thế nầy:

Cuốc cô cuộc cô cuộc cô cuộc cô cuộc cô cuốc…

Hai tiếng cuốc cô khít liền nhau quá và hai tiếng cuốc cô khác lại khít liền với hai tiếng đó, mãi rồi người nghe không phân biệt là cuốc cô cuốc cô hay cô cuốc cô cuốc nữa.

Ngậm ngùi lắm là tiếng chim hít cô.

H…í…í…í…t c…ô…ô…ô!

Giọng than vãn của bất kỳ kẻ bạc phước nào cũng không ai oán bằng tiếng kêu buồn thảm của con chim mà không bao giờ ai thấy được nầy.

Gần hơn, trên những nhánh cây mọc dựa bờ suối, chim vịt làm họ nghĩ đến một kẻ nghèo khó, đói rét với giọng kêu khúm núm của nó:

Kíp…kíp…kíp…kíp…kíp kíp kíp ki…p!

Thăng co tay lại kẹp mạnh đầu Thu Vân và thì thầm:

– Đã tận thế rồi. Không có tiếng của loài người và tiếng động do loài người gây ra. Chỉ còn thiên nhiên và hai ta thôi.

Thăng tỉnh giấc, ngơ ngác một hồi lâu mới nhớ ra việc chàng và Thu Vân về cái xó hẻo lánh nầy.

Trong giấc ngủ chàng không có nằm mơ. Nhưng rõ là chàng vừa ra khỏi một giấc mộng dài và đẹp. Mới hôm qua đây Thu Vân và chàng chỉ là đôi bạn rất thân thôi. Giờ thì đã là vợ chồng với nhau rồi.

Thăng nhìn lại bạn thì thấy Thu Vân vẫn đẹp trong giấc ngủ. Có nhiều người, cả nam lẫn nữ để lộ ra những nét xấu xí, hiểm ác của họ trong lúc họ ngủ. Thu Vân, trái lại, trở nên ngây thơ như em nhỏ, trông nàng trẻ thêm ra.

Thăng có cảm giác êm dịu như nhìn cô gái đẹp ngủ yên một trăm năm trong rừng sâu. Cảm giác nầy không hoàn toàn sai vì Thu Vân quả đã vượt thời gian, năm tháng không tàn phá được bao nhiêu sự trẻ trung của nàng.

Chàng chống tay để ngồi dậy thật nhẹ nhưng vạt giường bằng tre lại kêu lên răn rắc khiến Thu Vân giựt mình mở mắt ra.

Như bạn khi nãy, Thu Vân cũng ngơ ngác nhìn Thăng rồi nhìn nếp nhà tranh đến già một phút đồng hồ mới nhớ ra mọi việc. Nàng mỉm cười kéo Thăng nằm trở xuống và nói:

– Muốn ngủ đến tận thế cũng không sợ ai quấy rầy, tội gì mà dậy.

Khi Thăng nằm xong, nàng hỏi:

– Thăng lấy lại cái tay Thu Vân gối đầu hồi nào mà Thu Vân không hay?

– Lúc Thu Vân trở mình, lăn đi nới khác.

– Thăng gối đầu bằng ống tre, chắc đau đầu lắm hở?

– Chỉ đau sơ thôi. Người Tàu họ gối đầu cả bằng gối sứ, còn cứng hơn nữa.

– Gối sứ?

– Ừ, loại gối ấy vuông vức như hột lúc lắc, rỗng lòng và tráng men rất láng.

– Lạ quá, người Tàu ở xứ lạnh, lại dùng thứ gối loại không ấm.

Thu Vân ngáp dài, vươn vai rồi hỏi:

– Mấy giờ rồi Thăng?

– Thu Vân không cho mang đồng hồ theo, nói là để quên thời gian sao còn …

– À… nhưng cứ xem tia nắng rọi xiên qua vách thì cũng đoán được đã hơn bốn giờ chiều rồi, mà hắn chưa về.

– Mong cho hắn không về đêm nay. Ta cần được tự do.

– Nhưng sợ lắm.

Thăng lại kẹp đầu bạn trong tay:

– Có Thăng mà còn sợ à?

Thu Vân chui rút vào thêm như gà con mắc mưa cố chui vào bụng gà mẹ và nhõng nhẽo nói:

– Không, có Thăng không sợ lắm, chỉ sợ ít ít thôi.

– Sợ ít ít thì thú, yêu Thu Vân, Thăng đã sợ ít ít rằng không được nên nghe hay lắm.

– Thu Vân không sợ, sao cũng nghe hay?

– Có sợ chớ! Thu Vân do dự giữa hai tình thế và vẫn sợ không có gan yêu Thăng.

Lần nầy chính Thu Vân choàng tay qua Thăng, hắn đang nằm nghiêng:

– Bây giờ thì đã có gan rồi đó.

– Có gan mãi hay không?

– Nhứt định là có mãi. Chỉ sợ Thăng thôi.

– Sợ Thăng làm sao?

– Thôi không nói.

Họ nhìn nhau sát quá nên bỗng nghe buồn cười. Đôi bạn cười xòa. Đoạn Thu Vân vụt ngồi dậy rồi ra lịnh:

– Thăng đi quơ củi thêm, mau lên, trời sắp tối mà ta chưa có củi dự trữ đêm nay.

Thăng cũng hoảng, tức tốc cũng nhảy xuống giường:

– Phải rồi, sau bữa cơm trưa thì quên mất cái vụ nuôi lửa đã dự định.

Thăng đi năm chuyến củi thì cơm chiều đã nấu xong. Đôi bạn tắm cho mát để ăn cơm tối.

Bây giờ mặt trời đã đốt cháy đỏ đầu rừng và chim về từng đàn trên trời hồng.

Thăng nhảy xuống nước thì nghe ớn lạnh cùng khắp thân thể. Khí âm u của rừng như là cô động lại trong dòng nước trong veo nầy mà ngay hồi trưa, nhúng tay vào đó, chàng đã nghe cái lạnh chạy vào đến nách như một luồng điện.

Thu Vân cũng nhảy ùm xuống theo bạn và la oái lên một tiếng. Chắc nàng không bị lạnh hơn Thăng, nhưng phụ nữ có tánh hay la vậy thôi.

Nước suối chảy mạnh bất ngờ quá. Vì không có lau sậy mọc nơi suối, họ không thấy được nó chảy nhanh đến mức nào, giờ lội trong nước mới hay sức chảy của nó. Ở đây cứ phải lội và phải lội ngược dòng luôn, chớ không ở yên được một nơi như trên sông hay trong hồ tắm.

Nếu ở yên một nới thì năm phút sau là bị trôi đi không biết đến bao xa, trôi vào một cái hang lá cây tối om, trông vào thấy âm u bí mật bắt rởn óc.

Đoạn suối trước nhà dài dài lối ba mươi thước, hai bên bờ đốn cây trống trơn nên sáng sủa lắm. Đôi bạn lội cầm chừng để được ở trong cá hồ tắm thiên nhiên ấy mãi vì chiều đã gần tím rồi, họ ngại đi xa.

Thăng nói:

– Tắm hôm nay không thú lắm, ta không dám lội đi đâu, cũng chẳng thì giờ đùa giỡn. Nhưng đây là buổi sơ giao cho quen với suối, và lần sau, mai nầy, chắc vui vẻ lắm.

Chàng nói vừa tới đó bỗng nghe một tiếng cà-um vang cả các khu rừng. Tiếng vội lặp lại và phóng đại lên tiếng kêu của vua rừng khiến nó to quá, uy vệ quá và gây khủng khiếp quá.

Thu Vân gần chết điếng nhưng Thăng còn bình tĩnh nên dìu bạn lội vào bờ. Nàng sợ quá, leo lên mấy lần mà cứ trợt mãi, rốt cuộc nhờ Thăng nhảy lên trước, kéo tay nàng mà rút lên.

Họ vội vàng chạy bay vào chòi, đóng cửa lại. Cửa đây là một tấm vĩ tre thật lớn, đan thưa, dựng đứng nơi vách bên phải. Thăng vội vàng và hơi bối rối, nên lụp chụp mãi mới bưng được tấm vĩ tương đối nhẹ ấy để chận bít cửa lại.

Chàng gài xong hai đầu vĩ, phủi tay nói:

– Bây giờ thì mười con cọp cũng không sợ.

– Có mặt hắn, đừng có gọi “ông” là con cọp, hắn giận lắm. Phải kêu bằng “ông thầy” hắn mới an lòng.

Bỗng một tiếng cà um nữa vang lên. Lần này họ không sợ, và Thăng lắng nghe rồi nói:

– Xa lắm.

– Nghe mà biết được à?

– Được chớ. Nhưng dẫu gần cũng không hề gì.

– Liệu nó phá cửa được chăng?

– Nó đạp một cái nhà nầy sập ngay. Nhưng nó không đạp.

– Sao vậy?

– Nó ngại. Và ta còn có lửa nên nó sợ.

Họ ăn cơm nghe kém ngon miệng hơn khi sáng, vì không đói nhiều, và vì món lạ miệng, ăn một lần thì hết lạ. Thu Vân băn khoăn:

– Nếu nửa đêm hắn về thì mình tính sao Thăng?

– Thì mở cửa cho hắn vô, xin lỗi hắn và cắt nghĩa…

– Úy, không được đâu. Thu Vân đã quên mặt hắn rồi. Nếu không phải hắn, mở cửa thì nguy.

– Quanh vùng nầy, chắc chỉ có mình hắn là người, thì không lý nào mà có ai khác gõ cửa vào giữa đêm. Nhưng thôi, ta nên quên hết, quên luôn cả người chủ nhà, để tận hưởng tự do của ta.

Rửa tay và uống nước xong, Thăng gây lửa lớn. Chàng chất củi thật nhiều giữa ba ông táo đá và giây lát sau ánh sáng màu hỏa hoàng bừng lên, soi rõ từng tấm vỏ cây một dùng làm vách nhà.

Họ ngồi ngay dưới đất, cạnh lò lửa, làm thinh mà nhìn ánh sáng chập chờn trên vách lắng nghe đêm thở dài ngoài kia, và nghe suối to tiếng reo khi mà mọi vật im lìm.

Thăng đặt nhẹ tay lên vai bạn rồi nói:

– Ngày xưa lâu lắm, cách đây mấy trăm ngàn năm, trong một hang đá kia, một nam và một nữ cũng ngồi bên đống lửa như thế nầy. Rồi không ai dạy, họ đã yêu nhau, rồi về sau, họ sanh con đẻ cháu, chật cả hang, chúng tràn ra rừng ở trên cây; rồi đốn rừng cất nhà mà ở…

– Ta cũng yêu nhau như cặp người ngày xưa ấy, rồi cũng sanh con đẻ cháu chật nhà nầy…

– Ta lập thành phố ngay ở đây.

– Đây là trung tâm đô thị.

– Nhưng ta sẽ không tự do nữa để mà yêu.

Đôi bạn cười xòa, Thăng nhìn bạn. Trong thứ ánh sáng không rõ rệt nầy gương mặt Thu Vân bỗng nhiên đẹp hẵn lên. Nếu xét tỉ mỉ về chi tiết thì mặt Thu Vân không khéo lắm. Nhưng mặt ấy lại tuyệt mỹ trong những đường nét lớn, nên chi khi mà ánh sáng lờ mờ thì những gì hay về bóng dáng cố nhiên rực rỡ lên.

Đôi con mắt to của Thu Vân như thu hút cả lửa lò và sáng một ánh sáng man rợ, đầy nhục cảm. Cái miệng hơi rộng và đôi môi dày của nàng tố giác một sức yêu đương nóng bỏng và cuồng loạn khiến Thăng có cảm giác rờn rợn rất kỳ thú.

– Giờ nầy hôm qua Thu Vân làm gì, nghĩ gì?

– Thu Vân đi từ biệt Sàigòn rồi về soạn va-li, rồi đi nằm để nghĩ đến Thăng.

– Nghĩ thế nào?

– Nghĩ rằng đêm hôm sau, tức là đêm nay, tức là bây giờ đây, ta không còn cách nhau hằng chục con đường, hằng trăm dãy nhà nữa, mà nằm kế nhau trong một nếp chòi tranh, xa hẳn loài người, họ ngỡ là ta đã mất tích rồi.

– Nghĩ thế, Thu Vân có sung sướng hay không?

– Sung sướng sao cho bằng bây giờ?

Thăng hôn lên tóc bạn rồi nói, như tự nói với mình:

– Sung sướng hơn cả bây giờ … những ảo ảnh luôn luôn lóng lánh muôn màu …

Thu Vân giựt mình, lo sợ day lại nhìn Thăng trân trối. Nàng thấy một nghệ sĩ Thăng đi vắng, ngồi đó như cái xác không hồn, hồn chàng đã viẽn du theo một giấc mộng nào xa vắng lắm.

Nàng sợ hãi, đưa tay lên níu đầu Thăng, kéo về đầu nàng. Má kề má, nàng thì thầm:

– Thăng, Thu Vân đây nè.

Thăng như tỉnh cơn mơ, rồi say sưa nhìn màu da mặt ửng hồng dưới ánh lửa của Thu Vân. Bây giờ, tia mắt Thu Vân càng nóng hơn, hừng hực đòi hỏi và miệng nàng như muốn ngốn cả Thăng vào đó.

Thăng để bạn nằm trên đùi mình rồi hôn cho đôi mắt đáng sợ ấy nhắm lại. Dưới mắt chàng, một người đẹp như đã chết, im lặng đợi chờ sự yêu đương thiển cận của loài người. Nhưng chàng nghệ sĩ lại chỉ say vì vẻ đẹp thuần túy của một thân thể, một gương mặt mà chàng định sẽ tạc vào đá cho vẻ đẹp ấy được trường cửu mãi mãi theo thời gian, hệt như những pho tượng đá của những thành phố hoang tàn.

Có lẽ Thu Vân chờ đợi lâu quá nên nàng lại đưa tay lên kéo cổ Thăng xuống.

Pho tượng đá tuyệt mỹ nầy lại có linh hồn. Môi nó mấp máy như muốn nói điều gì, nhưng lại không được, bập bẹ thầm như trẻ ngây dại.

Bây giờ lửa ăn hết củi và không được tiếp tục nuôi nấng nữa nên thỏn mỏn lần. Bóng hai người được phóng đại lên vách, càng được phóng to ra vì bóng tối đeo bám vào rìa hình mỗi lúc một dầy thêm.

Không còn một sinh vật nào chứng kiến cái giây phút mà người nghệ sĩ nhường chỗ cho một người đờn ông thường đang nhìn đôi môi dày dưới mắt hắn. Khi nãy họ đã mắc cỡ dưới ánh lửa nó như có linh hồn, họ đã thẹn thùng với bóng họ nó như tò mò rình rập. Giờ đây họ ẩn trong bóng tối như ẩn vào một phòng kín.

Thăng đứng lên, người bạn trên tay, nàng nằm xụi lơ như một kẻ chết đuối vừa được vớt lên, mãi cho đến lúc bạn nàng đặt nàng lên chiếc giường vạt cứng, nàng cũng vẫn không hay biết.

Tia nắng như một lưỡi kiếm soi thủng vách nhà bên tả và đâm thẳng vào ngực Thăng. Ở đây không có bụi nên nó trong vắt và đứng im. Thu Vân đưa tay ra hứng lấy giọt nắng, bụm lại thì nó tràn trề ra khỏi nắm tay của nàng. Nàng nói:

– Thăng nè, hạnh phúc chắc cũng như giọt nắng nầy, không làm sao mà cất giữ được, có phải không Thăng?

– Mà cất giữ làm gì chớ, để yên nó có đẹp hơn không?

– Nhưng Thu Vân cứ sợ nó đi mất.

– Nó đi, nhưng không mất, ngày mai nó sẽ trở lại.

– Nhưng nó trở lại để soi sáng kẻ khác.

– Đừng có lo về chuyện ngày mai. Hãy cứ sống với ngày hôm nay cái đã.

– Ngày mai, Thăng vẫn còn là Thăng, nhưng Thu Vân thì sẽ khác rồi.

– Làm sao mà khác được. Thu Vân vẫn biết yêu như người con gái… Không, năm năm nữa Thu Vân vẫn còn là Thu Vân.

– Năm năm! Ngắn ngủi quá!

Bổng cả hai đều giựt mình. Một tiếng ho ngoài cửa làm họ kinh sợ quá sức. Họ quên cả thực tế, cứ ngỡ đang sống biệt tích nơi một hoang đảo, xa hẳn loài người.

Đôi bạn ngồi phắt dậy. Qua những lỗ vuông của vĩ tre, một gương mặt lạ đang nhìn họ. Người đờn ông ấy độ năm mươi, để búi tóc và bịt khăn xéo. Hắn để râu ngạnh trê trông hơi dữ tợn, mặc dầu nhìn kỹ thì tế nhận được những nét hiền hậu trên mặt hắn.

Thu Vân ở đây một ngày trọn, nhưng cũng không nhận ra ông chủ nhà nầy. Tuy nhiên nàng đoán là hắn chớ không ai. Qua mấy phút kinh ngạc đầu, nàng bước xuống giường rồi vừa đi ra vừa hỏi, miệng mỉm cười:

– Phải chú Bảy đó không?

Người đờn ông râu ngạnh trê không hề nhếch mép. Hắn đứng đó như tượng gỗ, mặt như bằng sáp và mắt thì hết nhìn Thăng đến Thu Vân.

Thu Vân vừa mở cửa vừa nói:

– Xin lỗi chú, chúng tôi đến đây từ chiều hôm qua, thấy nhà trống không có ai, nên cứ ngủ nhờ một đêm.

Thăng đã đến nơi và rê vĩ tre lại dựng nơi vách. Người râu ngạnh trê cúi xuống xách cây ná và ống tên dựng ở cột hàng hiên rồi lặng lẽ vào nhà.

Hắn treo ná và ống tên lên một cái móc bằng nhánh cây gần nới vách, rồi ngồi chồm hỗm xuống đất, thò tay vào túi móc một xòn thuốc bằng da lâu đời lên nước láng bóng, đoạn thong thả vấn thuốc, như không có việc gì xảy ra, không có ai hết trong nhà nầy, trừ hắn ra.

Thu Vân đi lại gần hắn và hỏi:

– Chú có nhớ tôi hay không? Tôi đã đến đây một lần, cách đây ba năm?

Bấy giờ hắn mới chịu mở môi để đáp cộc lốc:

– Nhớ.

– Giờ vợ chồng tôi muốn xin chú cho ở nhờ vài hôm để nghỉ ngơi, không biết chú có vui lòng không?

Hắn làm thinh mà nhìn Thăng rất lâu, không biết hắn nghĩ gì trong trí hắn. Hắn ngạc nhiên vì anh chồng trẻ hơn chị vợ nhiều quá chăng? Chắc là không. Ở thôn quê, lắm vợ đồng tuổi với chồng, nhưng vì lao lực quá, hoặc vì sinh đẻ thiếu vệ sinh quá, già hơn chồng họ là sự thường.

Chắc hắn cố nhớ lại xem có gặp Thăng lần nào hay chưa. Năm kia Thu Vân đã vào đây với nhiều bạn trai, hắn không biết có Thăng trong đám đó hay chăng.

Lâu lắm hắn mới đáp:

– Cũng được.

– Chú đi vắng, chắc là đi săn?

– Ừ.

– Thịt đâu?

– Không được gì hết!

– Rồi lấy gì …

– Tôi đi săn lớn, tìm nai mà không có. Còn kiếm ăn thì chung quanh đây gà rừng, chồn, thỏ, trúc, nhím thiếu gì.

– Chú Bảy nè, hôm qua tới nay tụi tôi nấu cơm ăn bằng gạo của chú. Gạo đã hết mà khô cũng không còn. Tôi thấy chú cần đi chợ. Tôi đưa tiền, chú mua thêm vài thứ lạ miệng, ăn cho vui.

– Cũng được.

Người chủ nhà luôn luôn đáp “cũng được”, tức là hắn không phấn khởi lắm trong việc tiếp khách, cũng chẳng sợ khách bao nhiêu.

– Chú đi liền được hôn, kẻo trưa nay nhịn đói cả bọn. Đây, tiền đây.

Thu Vân vừa nói, vừa đi lại mở va-li và lấy ba tờ giấy một trăm đưa cho hắn.

Cô dặn:

– Chú mua gạo, khô, mắm, bánh ngọt, vài con gà, còn thì tùy ý chú; tụi tôi ở năm ba bữa, nếu ở thêm, sẽ đưa tiền nhờ chú mua thêm.

Hắn cầm tiền, rồi lặng lẽ ra đi, mặt không lộ tình cảm nào cả.