← Quay lại trang sách

Chương 25 VÔ KẾ KHẢ THI

Truyền thông chưa biết gì về chuyện này, nhưng tình hình sẽ sớm thay đổi. FBI đang tìm kiếm Chuck Searls. Họ biết việc này không dễ dàng, nhưng chỉ từ anh ta thì họ mới truy ra tận cùng vấn đề. 6 nhà lập trình khác cũng ít nhiều tham gia vào Electra-Cleark 2.4.0 đều được phỏng vấn, và tất cả họ đều phủ nhận không biết về cái gọi là ‘quả trứng phục sinh’, bọn họ đều vừa phẫn nộ, vừa ngạc nhiên trước cách thức thực hiện. Cả 6 người phải làm việc suốt 27 giờ để tìm ra 3 dòng mã riêng biệt. Rồi đưa đến một tin thực sự xấu: Cả 6 người bọn họ, thêm cả Searls, đều có quyền truy cập vào chương trình nháp. Dù sao thì tất cả bọn họ, đều là 6 lập trình viên cao cấp của hãng và có quyền truy cập vào chương trình bất cứ lúc nào trước khi nó biến mất khỏi ổ cứng máy tính của văn phòng, và như bất kỳ ai cùng cấp, thông qua nhận dạng bảo mật. Thêm vào đó, trong khi lưu bản ghi của mỗi lần truy cập, mỗi người trong số họ đều có khả năng giả mạo mã trên máy tính chính và xóa tham chiếu thời gian truy cập hoặc trộn nó cùng với những người khác. Vì vậy, quả trứng phục sinh có thể đã ở đó nhiều tháng trong quá trình hoàn thiện chương trình này, vì vậy nó mới tinh xảo đến thế. Cuố cùng, một trong số họ thừa nhận khá thoải mái rằng, bất kỳ ai trong số họ cũng có thể làm được điều đó. Không có dấu vân tay trên các chương trình máy tính. Do tầm quan trọng của vấn đề, không có cách nào để hoàn tác/ hủy bỏ những gì Electra-Clerk 2.4.0 đã làm

Hậu quả gây ra khủng khiếp đến mức các đặc vụ FBI phụ trách vụ án đã đùa một cách nghiệt ngã rằng, hàng ngàn sinh mạng đã được cứu sống nhờ việc sử dụng kính không vỡ trên các bức tường bên ngoài của các tòa nhà văn phòng ở Phố Wall. Giao dịch cuối cùng có thể được xác nhận là khi thị trường đóng cửa lúc mười hai giờ và bắt đầu từ 12:00:01 thì mọi dữ liệu đều nhảm nhí. Hàng tỷ – trên thực tế, hàng trăm tỷ đô la doanh thu đã biến mất khỏi hồ sơ băng máy tính của Công Ty Ủy Thác Lưu Ký (Depository Trust Company)

Tin tức vẫn chưa lan ra. Sự kiện này vẫn đang được giữ bí mật, theo đề xuất của các giám đốc cấp cao DTC lần đầu tiên đưa ra, và được chủ tịch SEC và NYSE chấp thuận. Họ phải giải thích các lý do với FBI. Ngoài số tiền bị mất trong đợt sụt giảm hôm thứ Sáu, cũng sẽ có một lượng tiền kha khá kiếm được thông qua “puts/ quyền chọn bán”, tên gọi của các giao dịch phái sinh được nhiều nhà môi giới sử dụng làm hàng rào bảo hiểm và có nghĩa là lợi nhuận cho phép trên thị trường giảm. Mỗi sàn giao dịch có hồ sơ giao dịch riêng, vì vậy về mặt lý thuyết, chỉ cần thời gian để tái tạo lại mọi thứ đã bị xóa bởi ‘quả trứng phục sinh’. Nhưng nếu thảm họa của DTC bị tiết lộ, những người môi giới vô lương tâm hoặc liều lĩnh sẽ làm sai lệch hồ sơ của chính mình. Điều này không xảy ra với các sàn giao dịch lớn, nhưng các sàn giao dịch nhỏ là không thể tránh khỏi và việc giả mạo như thế này gần như không thể kiểm tra – mọi thứ đều nói lên điều đó – đó là trường hợp hình sự khó giải quyết nhất. Ngay cả những sàn giao dịch lớn nhất và có uy tín nhất cũng có đầy rẫy những trò lừa đảo, hiện tại và trong tương lai. Đơn giản là số tiền quá lớn, và chuyện còn trở nên phức tạp hơn nữa khi các nhà môi giới, ngoài đạo đức nghề nghiệp, sẽ luôn quan tâm đến tiền của khách hàng

Vì lý do đó, hơn 200 đặc vụ đến văn phòng và tư gia của mọi người đứng đầu các công ty chứng khoán trong vòng 100 dặm quanh thành phố New York. Công việc dễ dàng hơn dự kiến, vì rất nhiều giám đốc đang tận dụng những ngày cuối tuần làm việc điên cuồng và hầu hết họ đều hợp tác, cung cấp cho cảnh sát hồ sơ máy tính. Ước tính các nhà chức trách liên bang hiện có 80 phần trăm giao dịch sau 12 giờ trưa ngày thứ Sáu. Đó là phần dễ dàng. Phần khó, các đặc vụ mới được biết, là phân tích và so sánh các bản ghi giao dịch của các sàn giao dịch khác nhau. Trớ trêu thay, không cần lệnh, một lập trình viên từ công ty của Searls đã phác thảo các yêu cầu tối thiểu cho nhiệm vụ: một máy trạm cao cấp cho mọi bộ hồ sơ của công ty, được tích hợp thông qua một máy tính có sức mạnh không kém gì Cray Y-MP (có một ở CIA, và ba ở NSA, ông nói với họ), để kết nối chúng, cộng với một chương trình thiết kế cực kỳ tốt. Có hàng nghìn nhà môi giới và tổ chức, mỗi người trong số đó xử lý hàng triệu giao dịch. Ông ta nói chuyện một cách hùng hồn với hai đặc vụ, những người có thể theo kịp bài diễn thuyết tua đi nhanh của ông ta, có lẽ sắp xếp theo thứ tự từ 10 đến 16….có lẽ là 18. Ông ta phải giải thích rằng con số thứ hai là khối lập phương của một triệu, hay một triệu nhân một triệu lần một triệu. Một con số rất lớn. Ồ, còn một điều nữa: Họ tốt hơn cmn là phải có hồ sơ của mọi công ty chứng khoán và mọi nhà môi giới, nếu không kết quả sẽ nằm ngoài tầm kiểm soát. Mất bao lâu để sắp xếp tất cả các giao dịch? Ông ta miễn cưỡng bày tỏ ý kiến ​​của mình về việc này, và các đặc vụ vô cùng không hài lòng khi phải quay lại văn phòng mình ở Tòa nhà Văn phòng Liên bang Javits để giải thích với Boss, người vốn thậm chí từ chối máy tính để đánh văn bản. Khi quay trở lại văn phòng, dòng chữ NHIỆM VỤ BẤT KHẢ THI cứ lảng vảng trong đầu

Nhưng nó vẫn phải được hoàn thành. Dù sao thì nó không chỉ là vấn đề giao dịch cổ phiếu. Mỗi giao dịch đều là tiền thật, được xử lý bằng điện tử, từ tài khoản này sang tài khoản khác, và mặc dù là tiền điện tử, nhưng dòng tiền phức tạp phải được tính đến. Mọi sàn giao dịch, mọi tổ chức, mọi ngân hàng và thậm chí mọi công dân Hoa Kỳ, kể cả người không mua hoặc bán cổ phiếu, sẽ không biết có bao nhiêu tiền trong tài khoản của họ cho đến khi tất cả các giao dịch được làm rõ. Ngoài sự tê liệt của Phố Wall, toàn bộ hệ thống ngân hàng của Hoa Kỳ hiện đã bị đóng băng. Kết luận được đưa ra vào thời điểm chiếc Không Lực Một hạ cánh xuống Căn Cứ Không Quân Andrews

“Ôi, Cứt thật” Phó Giám Đốc FBI chi nhanh New York thốt lên. So với những điều tra viên khác của cơ quan liên bang đang họp văn phòng góc Tây Bắc, biểu hiện của ông rõ ràng hơn. Hầu hết thời gian những người đó chỉ nhìn chằm chằm vào những tấm thảm rẻ tiền và thở dài thườn thượt

Tình hình chắc chắn trở nên tồi tệ hơn, và đúng như thế. Một nhân viên của DTC kể chuyện với một người hàng xóm, một luật sư, và người này lại nói với một người khác, một phóng viên, và vị này gọi vài cuộc điện thoại, sau đó viết bài cho The New York Times. Tờ báo hàng đầu đó đã gọi cho Bộ Trưởng Ngân Khố vốn vừa trở về từ chuyến đi Moscow và vẫn chưa được báo cáo gì về tình thế nghiêm trọng, nên đã từ chối bình luận trước câu hỏi của tờ Times. Trước khi ông ta sửa sai thì bài báo đã được lên kế hoạch xuất bản

Bộ trưởng Ngân khố Bosley Fiedler chạy như bay qua đường hầm nối giữa Tòa Ngân Khố và Nhà Trắng. Do lười vận động, ông gần như tắt thở đến nơi khi đến phòng Roosevelt, ngay sau viên đại sứ Nhật vừa rời đi

“Chuyện gì vậy Buzz?” Tổng thống Durling hỏi

Fiedler hít một hơi và dành năm phút giải thích về câu chuyện ông vừa biết qua cuộc họp từ xa với New York “Chúng ta không thể mở cửa thị trường” ông kết luận “ý tôi là, thị trường chứng khoán không thể mở cửa. Không ai có thể giao dịch được hết. Khoong ai biết họ có bao nhiêu tiền. Không ai biết ai sở hữu những gì. Và ngân hàng….thưa tổng thống, chúng ta đang có một vấn đề lớn ở đây. Thậm chí là rắc rối lớn chưa từng có”

“Buzz, chỉ là vấn đề tiền, phải không?” Arnie van Damm hỏi, không biết tại sao tất cả mọi chuyện lại xảy ra trong cùng một ngày, sau vài tháng tốt đẹp vừa qua

“Không, nó không chỉ là vấn đề tiền bạc” Mọi người quay đầu lại vì Ryan là người duy nhất trả lời câu hỏi này “Đó là vấn đề lòng tin. Buzz đây đã viết một cuốn sách về điều này khi tôi còn đang làm việc cho Merrill Lynch” Anh nghĩ, có lẽ lời giới thiệu thân thiện sẽ giúp người đàn ông này bình tĩnh một chút

“Cảm ơn, Jack” Fiedler ngồi xuống và uống hết cốc nước “Hãy xem sự sụp đổ của thị trường chứng khoán năm 1929. Điều thì thực sự đã mất? Câu trả lời về mặt tài chính là không có gì. Nhiều nhà đầu tư đã phá sản, được thúc đẩy bởi các cuộc gọi ký quỹ, nhưng mọi người thường không hiểu họ đã mất bao nhiêu tiền, chính là số tiền đưa cho người khác”

“Tôi không hiểu” Arnie nói

“Không ai thực sự hiểu hết. Đơn giản quá. Trên thị trường, người ta thường phức tạp hóa mọi thứ, họ quên rằng rừng được tạo thành từ những cây riêng lẻ. Nhà đầu tư nào thua lỗ thì đưa tiền cho người môi giới, đổi lại anh ta nhận được chứng chỉ. Anh ta đổi tiền lấy một thứ gì đó có giá trị, nhưng giờ giá trị đó bị giảm, và đó là lúc mọi thứ sụp đổ. Nhưng gã đầu tiên, gã đưa cái chứng chỉ đó và và nhận được tiền trước khi sụp đổ – về mặt lý thuyết, anh ta đã làm một việc thông minh, anh ta chả mất gì, không phải sao? Vì vậy số tiền lưu hành vào năm 1929 thực sự không thay đổi chút nào”

“Tiền không biến mất, Arnie” Ryan giải thích “Nó chỉ chuyển từ túi người này sang túi người khác. Nó không đi đâu cả. Ngân hàng dự trữ liên bang kiểm soát chuyện đó” Mọi chuyện rất rõ ràng, tuy nhiên van Damm vẫn không hiểu

“Vậy thì tại sao cuộc Đại Suy Thoái lại cmn xảy ra?”

“Lòng tin” Fiedler trả lời “Vào năm 1929, thực sự có một số lượng lớn các nhà đầu tư đã bị ảnh hưởng nặng nề bởi lệnh ký quỹ của các ngân hàng. Họ mua cổ phiếu và bán chúng với giá thấp. Bây giờ chúng tôi gọi đó là đòn bẩy. Rồi ngân hàng không thể bù đắp khi bán tháo. Điều này cũng đúng đối với ngân hàng thiếu vốn, trong trường hợp này, người ta không dám hành động hấp tấp, họ sợ mạo hiểm những gì họ còn lại. Những người thoát ra kịp thời và vẫn có tiền – những người không thực sự bị tổn thương – họ thấy gì phần còn lại của nền kinh tế thì thích và không làm gì cả, họ chỉ ngồi im vì đơn giản là ngoài kia trông rất đáng sợ. Đó mới chính là vấn đề, Arnie.

Ông thấy đấy, những gì tạo ra một nền kinh tế không phải của cải, mà là việc sử dụng của cải vật chất, các giao dịch hàng ngày, tiền lưu thông từ một đứa trẻ cắt cỏ cho ông để kiếm một đô la, đến việc mua lại một công ty lớn. Nếu lưu thông tiền tệ dừng lại thì mọi thứ dừng lại hết” Ryan gật đầu đồng ý với Fiedler. Một bài giảng ngắn gọn súc tích nhưng đầy đủ tuyệt vời

“Tôi vẫn không chắc mình đã hiểu” vị chánh văn phòng Nhà Trắng nói. Tổng Thống vẫn đang lắng nghe

Đến phần mình. Ryan lắc đầu “Không nhiều người hiểu được. Như Buzz nói, nó quá đơn giản. Ông nhìn vào sự vận động, chứ không phải tĩnh lặng, để dự báo các xu hướng, nhưng ở đây tĩnh lặng chính là thực sự nguy hiểm đấy. Nếu tôi quyết định ngồi im và không làm gì cả thì tiền của tôi không lưu thông. Nếu tôi không tiêu dùng, những người sản xuất hàng tiêu dùng sẽ mất việc làm. Đây là một điều khủng khiếp đối với người sản xuất và công nhân của mình. Đến lượt mình, những người đó cũng sợ hãi và giữ chặt tiền – tại sao phải tiêu dùng khihoj có thể mất việc làm và phải ăn uống, đúng không? Và chuyện cứ như vậy tiếp diễn theo dây chuyền. Các anh, chúng ta thực sự đang có vấn đề ở đây” Jack kết luận “Sáng thứ hai là các ngâ hàng sẽ thấy là họ thậm chí còn không biết mình có bao nhiêu tiền. Cuộc khủng hoảng ngân hàng thực sự phải đến năm 1932 mới xảy ra, sau khi thị trường chứng khoán đã sụp đổ trước đó từ lâu. Lần này cũng không ngoại lệ”

“Tệ đến mức nào?” Tổng Thống hỏi

“Tôi không biết” Fiedler trả lời “Chuyện này chưa bao giờ xảy ra trước đây”

“Ngài có thích một lời nói dối không?” Bộ trưởng ngân khố hỏi “Chúng ta cần chủ tịch FED ở đây. Chúng ta đang đối mặt với rất nhiều vấn đề. Vấn đề lớn đầu tiên là một cuộc khủng hoảng thanh khoản với tỷ lệ chưa từng có”

“Còn chưa kể đến một cuộc chiến đang bắn nhau ngoài kia” Ryan chỉ ra phòng khi mọi người quên

“Cuộc chiến nào nghiêm trọng hơn?” Tổng Thống Durling hỏi

Ryan nghĩ vài giây trước khi trả lời “Nếu tính về thiệt hại đối với đất nước chúng ta? Chúng ta có 2 tàu ngầm bị chìm, ước tính 250 thủy thủ chết. 2 tàu sân bay hư hỏng nhưng có thể sửa chữa được. Quần đảo Marianas đang trong ngay chủ mới. Tất cả đều tệ cả” Jack nói với giọng đều đều đánh giá, vừa nói vừa nghĩ “Nhưng điều đó không thực sự ảnh hưởng đến an ninh quốc gia vì nó không gây nguy hiểm cho sức mạnh của chúng ta. Nước Mỹ hướng tới những ý tưởng được chia sẻ. Chúng tai là những người có tư duy độc đáo và tin rằng chúng ta có thể đạt được lý tưởng của mình. Đây là niềm tin chung. Vì vậy, chúng ta tự tin và lạc quan, đó là điều khó tin ở các nước khác. Nếu ngài lấy đi điều đó, chúa ơi, chúng ta sẽ không có gì khác so với các quốc gia kia. Tổng Thống, trả lời ngắn gọn cho câu hỏi của ngài, vấn đề kinh tế nguy hiểm hơn nhiều so với những gì Nhật vừa làm”

“Jack, cậu khiến tôi ngạc nhiên đấy” Durling nói

“Sir, như Buzz nói, ngài có sẵn sàng nói dối không?”

“Có vấn đề quái gì vậy?” Ron Jones hỏi. Mặt trời đã mọc và USS Pasadena đã khuất bóng, tàu chiến vẫn neo đậu ở bến tàu, lá cờ treo lơ lửng cô đơn trong không khí vắng lặng. Một tàu chiến của Hải quân Hoa Kỳ vẫn đỗ tại bến tàu, trong khi người anh em của nó đã chết trong tay kẻ thù. Tại sao không ai làm điều gì hết?

“Nó vẫn chưa nhận được lệnh” Mancuso nói “Bởi vì tôi không nhận được lệnh, vì CINCPAC không nhận được lênh, vì Hội Đồng Chỉ Huy Quốc Gia không ra lệnh gì hết”

“Họ đã tỉnh chưa đấy?”

“Bộ Trưởng Quốc Phòng chắc giờ đang ở Nhà Trắng. Tổng Thống chắc cũng đã được báo cáo tình hình rồi” ComSubPac nghĩ

“Nhưng ông ta không có thời gian cho việc đó” Jones nhận xét

“Ông ấy là Tổng Thống, Ron. Chúng ta làm theo lệnh”

“Phải, giống như Johnson đã gửi bố tôi tới Việt Nam” Jones quay lại nhìn biểu đồ trên tường. Khi trời tối, các tàu mặt nước của Nhật sẽ nằm ngoài bán kính tác chiến của tàu sân bay, và các tàu này sẽ không thể tấn công. Tàu USS Gary đã kết thúc cuộc tìm kiếm những người sống sót, nguyên nhân chủ yếu vì sợ vẫn còn tàu ngầm Nhật ở đó, nhưng khi thế giới nhìn vào, nó giống như bị đuổi khỏi hiện trường bởi tàu tuần tra của Lực Lượng Bảo Vệ Nhạt Bản. Thông tin tình báo họ có được từ vê tinh, vì việc cử máy bay tuần tra P-3C để theo dõi các hạm đội mặt nước sẽ là một điều khó hiểu, chứ chưa nói đến việc theo dõi tàu ngầm “Thoát khỏi nguy hiểm trước đã, hả?”

Mancuso quyết định giờ không phải lúc tức giận. Anh là một đô đốc và được trả lương để nghĩ như một đô đốc “Làm dần từng bước một. Các tài sản quan trọng nhất của chúng ta là hai tàu sân bay đó đang gặp nguy hiểm. Chúng ta phải đưa được chúng về cảng, sửa chữa chúng. Wally đang lập kế hoạch chiến đấu bây giờ. Chúng ta cũng phải thu thập thông tin, phân tích, rồi mới quyết định làm gì”

“Và phải xem ông ta có đồng ý không?”

Mancuso gật đầu “Đó là cách hệ thống đang vận hành”

“Tuyệt thật”

Khung cảnh lúc bình minh thật sự rất dễ chịu. Yamata ngồi canh cửa sổ của boong trên bên trái máy bay 747, nhìn ra cửa sổ, phớt lờ những lời xì xào xung quanh. Ông ta hiếm khi được ngủ suốt 3 ngày qua, nhưng vẫn tràn đầy năng lượng và phấn khích. Đây là chuyến bay cuối cùng được lên kế hoạch. Những người đi cùng chủ yếu là các nhà quản lý, cùng một số kỹ sư và công chức, dự kiến sẽ thành lập nên một chính phủ mới. Các quan chức làm nhiệm vụ này chẳn khá thông minh để biết tiến hành theo cách của mình. Tất nhiên, mọi người trên Saipan sẽ được bỏ phiếu, và cuộc bầu cử sẽ được tiến hành dưới sự giám sát quốc tế, vì lý do chính trị. Có khoảng 29.000 dân sinh sống ở Saipan, chưa bao gồm người Nhật, nhiều người trong số đó sở hữu đất đai, nhà cửa và doanh nghiệp. Chưa kể những người lính và những người sống trong khách sạn. Các khách sạn – tất nhiên những khách sạn lớn nhất cũng do người Nhật sở hữu – sẽ được coi là chung cư, và tất cả những khách sạn trong khu chung cư đều là cư dân trên đảo. Là công dân Nhật Bản, họ đều có quyền bầu cử. Binh lính cũng là công dân Nhật Bản, và họ cũng có quyền bầu cử. Vì tình trạng của các đơn vị đồn trú không cố định, họ cũng được coi là cư dân của hòn đảo. Bao gồm cả quân nhân và dân sự, có 31.000 người Nhật Bản trên đảo. Khi bầu cử đến, chắc chắn các đồng hương sẽ thực hiện đầy đủ các quyền công dân của mình, phải không? Ông ta nhìn chằm chằm vào phía đông và tự nghĩ: Giám sát quốc tế sao, thật nhảm nhí!

Ở độ cao 37.000 feet trên không, thật thú vị khi được ngắm nhìn ánh sáng yên lặng đầu tiên của bình minh trên đường chân trời, dường như làm sáng một cụm sao vẫn còn lấp lánh. Bình minh càng lúc càng sáng, và trải ra xung quanh, từ màu tím sang màu đỏ thẫm, màu hồng, đến màu đỏ cam, rồi mặt trời lộ ra một khuôn mặt trắng bạc. Mặt trời vẫn chưa ló dạng trong vùng biển tối đen bên dưới máy bay. Yamata nghĩ, có vẻ như mình là người duy nhất có thể tận hưởng cảnh bình minh, và phải mất một thời gian nữa người trên mặt đất mới có thể thưởng thức được cảnh đẹp như vậy. Máy bay hơi rẽ sang phải và bắt đầu hạ độ cao, hạ xuống từ từ trong không khí buổi sớm, dường như mặt trời đóng băng ở đó. Ánh nắng vàng đọng lại khoảnh khắc tuyệt vời này trong vài phút. Cảnh đẹp khiến Yamata gần như muốn khóc. Ông ta vẫn nhớ vẻ ngoài của cha mẹ mình, và ngôi nhà khiêm tốn của họ trên Saipan. Cha của ông ta là một doanh nhân nhỏ, không giàu lắm, và kiếm sống bằng nghề bán đồ dùng cho các đơn vị đồn trú trên đảo. Yamata nhớ chuyện cha mình luôn rất lịch sự với binh lính, mỉm cười, cúi chào và chịu đựng sự chế nhạo của họ về đôi chân teo tóp của ông. Cậu bé Yamata chứng kiến ​​cảnh tượng này cho rằng mình nên tôn trọng những người lính vũ trang trong quân phục Nhật Bản. Tất nhiên, quan điểm này đã thay đổi khi ông ta lớn lên. Bọn họ chỉ là những người hầu, bất kể có theo truyền thống Samurai hay không – từ samurai có nghĩa là phục vụ, ôn ta tự nhắc mình, sõ là phục vụ ông chủ, khoog phải sao? – Họ chăm sóc và bảo vệ chủ vì chủ thuê họ, trả tiền cho họ và bảo họ phải làm gì. Ông ta phải tôn trọng họ, mặc dù họ không xứng đáng. Kỳ lạ thay, quân hàm càng cao, họ càng hiểu rõ vị trí thực sự của mình

“Chúng ta sẽ hạ cánh trong vòng 15 phút nữa” một đại tá nói với ông ta

“Dozo/ cảm ơn” Thay vì cúi đầu, ông ta chỉ gật đầu, vì đang ngồi, nhưng ngay cả như thế thì một cái gật đầu cũng được đo lường hợp lý, chính xác là kiểu để thừa nhận sự phục vụ của một kẻ bề dưới. Nếu một ngày nào đó viên đại tá trở thành tướng Không quân vì khả năng của mình, cách gật đầu sẽ thay đổi và nếu anh ta tiến xa hơn, thì một ngày nào đó, nếu may mắn, Yamata-san có thể cho anh ta vào danh sách bạn bè, gọi anh ta bằng tên thay vì họ, mỉm cười với anh ta, pha trò và mời anh ta một ly. Khi anh ta đạt được mục tiêu đó, anh ta sẽ biết được chủ nhân thực sự là ai. Viên đại tá có lẽ muốn đạt được mục tiêu đó. Yamata thắt dây an toàn và vuốt tóc

Cơ trưởng Sato đã kiệt sức. Ông ta ở trên máy bay quá lâu, bỏ qua chế độ nghỉ ngơi của phi hành đoàn, nhưng không thể không làm nhiệm vụ của mình. Ông ta nhìn ra cửa sổ cảng và thấy hai chiếc máy bay chiến đấu xuất hiện và biến mất vào sáng sớm, rất có thể là F-15, có lẽ một chiếc do con trai ông ta lái, đang lượn vòng, bảo vệ đất liền một lần nữa về với tổ quốc. Hãy cẩn thận, ông ta tự nhủ. Những người lính của đất mẹ đang ở trên máy bay này và họ xứng đáng được chăm sóc tốt nhất. Ông ta đặt một tay vào bàn đạp ga và tay kia trên bàn xoay, chiếc máy bay Boeing xuống một đường vô hình trong không trung về điểm mắt đã chọn. Dưới sự chỉ huy của ông ta, phi công phụ hạ những cánh tà lớn xuống. Sato nhẹ nhàng kéo cần điều khiển lại, nâng mũi, bật đèn máy bay rồi cho máy bay hạ cánh. Bánh xe cao su kêu cót két một tiếng cho đến khi máy bay hạ xuống đất.

“Anh cứ như một nhà thơ” viên phi công phụ nói, lần nào cũng ấn tượng trước kỹ năng của người đàn ông này

Ông ta cười nhẹ khi làm thủ tục đảo ngược lực đẩy “Cậu đi taxi đi” Rồi bật công tắc của hệ thống liên lạc trong cabin “Chào mừng đến với Nhật Bản” ông ta nói chuyện với các hành khách

Yamata sửng sốt khi nghe thấy điều này. Ông ta đã cởi dây an toan trước khi máy bay dừng lại hẳn. Cánh cửa lên buồng lái ở ngay kia và ông ta phải nói điều gì đó

“Cơ trưởng?”

“Vâng, Yamata-san?”

“Ông đã hiểu rồi, đúng không?”

Cái gật đầu của ông ta đầy tự hào của một người chuyên nghiệp và mang đúng phong cách của zaibatsu “Hai” phần thường của ông ta là một cái cúi đầu đầy chân thành và trái tim viên phi công trở nên ấm áp khi thấy thái độ kính trọng của Yamata-san

Vị doanh nhân không vội, và bây giờ không cần phải vội. Đám quan chức và viên chức hành chính đứng lần lượt ra của máy bay, lên xe buýt đã chờ sẵn và đi đến khách sạn Hotel Nikko Saipan, một khách sạn lớn hiện đại trên bờ biển phía tây của hòn đảo, và sẽ là trụ sở hành chính tạm thời của lực lượng chiếm đóng – chính phủ mới, Yamata tự sửa. Phải mất năm phút để tất cả các hành khách xuống khỏi máy bay, rồi ông ta tự lên một chiếc Toyota Land Cruiser do chính người của ông ta cầm lái, người lái xe tự biết phải làm gì mà không cần lệnh, biết rõ Yamata cần yên lặng lúc này

Ông ta không để ý nhiều đến những gì đang diễn ra xung quanh, dù tất cả những thứ này đều do ông ta mang lại, nhưng nó không quan trọng như ông ta nghĩ ban đầu. Ồ, có lẽ ông ta nên mỉm cười khi nhìn thấy các phương tiện quân sự, nhưng ông ta mệt mỏi quá. Dù đã cố gắng hết sức để mở mắt nhưng mí mắt của ông ta sụp xuống. Viên tài xế lập kế hoạch tuyến đường cẩn thận và cố gắng tránh các khu vực có mật độ giao thông cao, lái xe qua Câu lạc bộ đồng quê Marianas, lúc này dù mặt trời đã mọc nhưng vẫn chưa thể nhìn thấy sân gôn. Xung quanh không có dấu hiệu nào của quân đội, ngoại trừ hai chiếc xe liên lạc vệ tinh đậu ở rìa bãi đậu xe vốn là con xe của NHK mới được sơn xanh lạ. Không, chúng ta không thể làm hỏng sân golf, vốn chắc chắn là mảnh đất đắt giá nhất trên đảo lúc này.

Nó ở ngay đây, Yamata nghĩ, nhớ lại hình dạng của ngọn đồi. Cửa hàng khiêm tốn của cha ông ta ở gần phi trường Bắc, và nhớ đến những chiếc phi cơ chiến đấu A6M Type-Zero, những phi công khí phách và những người lính dũng cảm. Nơi đây từng có một nhà máy chế biến mía đường thuộc sở hữu của Nanyo Kohatsu Kaisha và cảnh nhai bã mía vẫn còn in đậm trong trí nhớ ông ta. Lúc đó, buổi sáng với làn gió hiu hiu hiu hiu làm sao. Yamata kiên quyết gạt ký ức sang một bên, bước ra khỏi xe và đi về phía bắc.

Chắc hẳn bố mẹ, những người em của ông ta đã đi trên con đường này, và ông ta dường như nhìn thấy cha mình đang lê một cái chân khoèo, chiến đấu một cách tuyệt vọng cho nhân phẩm bị căn bệnh thời thơ ấu cướp đi. Trong những ngày cuối cùng, Cha có giúp đỡ những người lính, mang đến cho họ những vật dụng mà Cha có không? Trong những ngày cuối cùng, những người lính đó có ngừng cười ác ý trước những khiếm khuyết trên cơ thể của cha họ và bày tỏ lòng biết ơn chân thành đối với ông? Đối với họ, cái chết đã được nhìn thấy và chạm vào. Yamata chọn tin vào cả hai khả năng. Và họ sẽ rút lui sau khi kiên cường chống trả, rút lui băng qua cầu kéo cho đến khoảnh khắc cuối cùng.

Người dân địa phương gọi nó là Vách đá Banzai Cliff, những người ít có quan điểm phân biệt chủng tộc hơn thì gọi nó là Vách đá Tự Sát Suicide Cliff. Yamata sẽ phải tự mình đặt cho nó cái tên đàng hoàng hơn. Cuộc kháng chiến có tổ chức chấm dứt vào ngày 9 tháng 7 năm 1944, ngày mà người Mỹ tuyên bố Saipan “nằm trong quyền kiểm soát”

Thực tế có hai vách đá uốn cong vào trong giống như một nhà hát, cao hơn hai trăm bốn mươi mét so với mực nước biển. Ở đây có những cột đá cẩm thạch, được xây dựng bởi các sinh viên Nhật Bản từ nhiều năm trước, tạc thành hình một đứa trẻ đang quỳ cầu nguyện. Gia đình ông lúc đó chắc cũng đang ở đây, nắm tay nhau đi đến mép vực. Yamata nhớ đến đôi bàn tay mạnh mẽ của cha mình. Những đứa em có sợ không? Hai mươi mốt ngày ồn ào, kinh hoàng và bàng hoàng đã trôi qua, và ông ta nghĩ họ bối rối hơn là sợ hãi. Người mẹ nhìn người cha. Một người phụ nữ ấm áp và chắc nịch, tiếng cười hạnh phúc và ngọt ngào của bà vang lên bên tai con trai bà. Những người lính thỉnh thoảng cộc cằn với cha, nhưng không bao giờ làm thế với bà và bọn trẻ. Nắm tay nhau, Yamata chọn cách tin tưởng, mỗi người ôm đứa trẻ trong vòng tay yêu thương cuối cùng, tự hào từ chối chấp nhận bị giam cầm dưới bàn tay của những kẻ man rợ, và những đứa con mồ côi của họ cũng thế. Khi nhắm mắt lại, Yamat có thể nhìn thấy tất cả. Lần đầu tiên trong đời, Yamata run lên vì xúc động trước cảnh tượng quá khứ.. Trong những năm qua, mỗi lần đến đây, ông ta nhiều nhất là để cho mình bùng cháy vì cơn thịnh nộ, nhưng hôm nay anh ấy có thể để bản thân trút giận và khóc một cách tự hào, bởi vì ông ta đã trả xong món nợ danh dự cho cha mẹ ruột của mình và món nợ danh dự của ông ta đối với những kẻ đã giết họ đến chết. Hoàn toàn đầy đủ

Viên tài xế nhìn Yamata, mặc dù không biết rõ chuyện nhưng anh ta có thể hiểu được tâm trạng của ông chủ vì anh ta biết lịch sử của nơi này. Nhìn người đàn ông 60 tuổi này xúc động, vỗ tay triệu tập người thân đã ra đi. Đứng cách đó cả trăm mét, anh nhìn thấy người đàn ông đang run rẩy ôm vai vì khóc.. Một lúc sau, Yamata nằm nghiêng trên mặt đất và ngủ thiếp đi. Ông ta ta có thể đã mơ thấy người thân. Viên tài xế tự nghĩ rằng có thể có những linh hồn lang thang sẽ đến thăm giấc mơ và đưa ra lời khuyên cho Yamata. Điều khiến người lái xe thực sự ngạc nhiên là gã khốn già này cũng có linh hồn. Có lẽ anh ta đã nhầm về sếp của mình.

“Mẹ kiếp, chúng rất có tổ chức” Oraza tự nhủ, nhìn qua chiếc ống nhòm rẻ tiền mà ông còn giữ ở nhà

Cửa sổ phòng khách nhà ông nhìn ra sân bay và cửa sổ phòng bếp thì nhìn thẳng ra cảng. Orchid Ace đã rời đi, thay vào đó là một con tàu vận tải tên là Century Highway No. 5, đang dỡ hàng xe jeep và xe tải. Portagee đã kiệt sức vì buộc mình phải thức cả đêm. Ông đã không ngủ hai mươi bảy giờ, bao gồm cả vài giờ làm việc trên biển phía tây hòn đảo. Viên cựu master chief biết mình đã quá già để làm mấy công việc theo dõi này. Burroughs thì trẻ và thông minh hơn, đang cuộn mình trên tấm thảm phòng khách và ngáy o o

Lần đầu tiên sau nhiều năm, Oreza thèm một điếu thuốc, giúp cho mình tỉnh táo. Những lúc thế này mới thấy điếu thuốc cần thiết làm sao, đó là lý do vì sao lính hay hút thuốc – ít nhất đó là những cảnh mà mấy bộ phim về thế chiến thứ 2 hay chiếu. Nhưng đây không phải thế chiến thứ 2 và ông cũng không phải là lính chiến. Dù ông đã phục vụ cho Lực lượng tuần duyên Hoa Kỳ suốt 30 năm nhưng chưa bao giờ phải bắn một phát súng vì tức giận, thậm chí cả khi ở Việt Nam. Những người khác luôn mang theo súng, nhưng ông thì không biết cách bắn

“Thức suốt đêm à?” Isabel hỏi, mặc quần áo sẵn sàng đi làm. Hôm nay là thứ hai theo múi giờ địa phương và là ngày làm việc. Bà nhìn xuống cuốn sổ tay được đặt cạnh điện thoại, thấy những dòng chữ nguệch ngoạc được viết trên đó “Có chuyện gì phát sinh không?”

“Izz, anh không biết”

“Có muốn ăn sáng không?”

“Không sao đâu” Pete Burroughs nói, vươn vai vào bếp “Tôi nghĩ mình đã ngủ được 3 giờ” anh hơi suy nghĩ “tôi cảm thấy…thật tệ” anh không chửi thề vì sự tôn trọng dành cho người phụ nữ trong phòng

“Chà, tôi phải có mặt tại nơi làm việc trong khoảng 1 giờ nữa” Mrs. Oreza nhận xét, mở cánh tủ lạnh. Burroughs nhìn thấy ngũ cốc nguội và sữa tách béo cho bữa sáng, và bánh mì nướng. Anh nghĩ, chỉ cần thêm một ít trái cây là anh có được bữa sáng giống như ở San Jose. Anh ngửi thấy mùi cà phê, tìm một cái tách và rót cho mình ly cà phê

“Có người ở đây thực sự biết cách pha cà phê này”

“là Manni” Isabel nói

Lần đầu tiên sau nhiều giờ Oreza mỉm cười “tôi học được cách pha cà phê từ trung sỹ trưởng. Pha đúng cánh, đúng lượng và thêm một chút muối”

Có thể vào một đêm tối và nhiều gió, sau khi hiến tế một con dê, Burroughs nghĩ. Nếu vậy, con dê đó đã chết vì danh dự. Anh nhấp một ngụm cà phê và xem danh sách đếm của Oreza

“Nhiều thế à?”

“Đấy là còn là con số thận trọng đấy. Từ đây đến Nhật cần khoảng 2 giờ bay. Cả đi lẫn về là 4 giờ. Tính rộng ra mỗi lần cất hay hạ cánh mất 90 phút. Một chuyến khứ hồi tổng cộng cần 7 giờ. Trung bình mỗi may bay sẽ bay 3.5 chuyến mỗi ngày, mỗi lần chuyên chở 300 người, có thể lên đến 350 lính. Tức là mỗi ngày chở được khoảng 1000 người. 15 máy bay hoạt động liên tục một ngày, sẽ tương ứng với toàn sư đoàn đấy. Cậu có cho rằng người Nhật có hơn 15 chiếc 747 không?” Portagee hỏi “Như tôi nói, chỉ là ước tính thận trọng. Vấn đề duy nhất là đưa các phương tiện cơ giới vào”

“Cần bao nhiêu tàu?”

Oreza cau mày ‘Không chắc. Trong Chiến tranh vùng vịnh Ba Tư – tôi đã phụ trách an ninh cảng ở đó….mẹ kiếp. Phụ thuộc vào loai tàu cậu sử dụng và cách đóng gói. Tính thận trọng thì cần khoảng 12 tàu thương mại loại lớn. Xe tải, xe jeep, tất cả những thứ này đều phải được tính đến, giống như một đợt tái định cư lớn của cư dân thành phố. Rồi bọn họ cũng cần phải tính đến nhiên liệu. Dân số trên đảo này sẽ tăng gấp đôi, nguồn cung nước ngọt có thể không đủ” Oreza cúi đầu ghi chú điều này trên sổ “Dù sao thì bọn họ cũng đến để ở lại. Điều đó là chắc cmn rồi” ông nói rồi tiến về phía bàn với bữa ăn sáng nhiều canxi, mong chờ ba quả trứng, và thịt xông khói, bánh mì trắng và bánh mì nướng với bơ, và bánh mì nâu và tất cả cholesterol kèm theo. Cái tuổi 50 chết tiệt này!

“Thế tôi phải làm gì?” Viên kỹ sư hỏi “Ông có thể đóng giả dân địa phương nhưng tôi chắc mình không thể”

“Pete, cậu thuê thuyền của tôi và tôi là thuyền trưởng, ok? Tôi chịu trách nhiệm về an toàn của cậu. Sir, đó là luật biển cả”

“Chúng ta có còn trên biển nữa đâu” Burroughs chỉ ra

Oreza bực mình với sự thật trần trụi này “Con gái tôi là luật sư. Tôi sẽ lo mọi việc. Ăn sáng đi. Tôi cần ngủ một chút và cậu phải tiếp tục việc theo dõi”

“Còn em thì sao?” Mrs. Oreza hỏi

“Nếu em không xuất hiện ở nơi làm việc…”

“…ai đó sẽ đặt câu hỏi tại sao”

“Sẽ rất tốt nếu chúng ta biết được tình hình thực tế lúc này về mấy viên cảnh sát bị bắn” chồng bà nói “Izz, anh đã phải thức cả đêm, nhưng không nghe thấy tiếng súng. Mọi ngã tư đều có lính canh, nhưng chắc bọn chúng không làm gì mọi người đâu” ông dừng lại “honey, anh cũng không thích chuyện này, nhưng chúng ta phải đối mặt với thực tế”

“Ed, anh có làm điều đó không?” Durling thẳng thừng hỏi, ánh mặt mệt mỏi nhìn vào viên Phó Tổng Thống, trong lòng không ngừng chửi rủa thì tên này đã buộc ông phải đối phó với một vấn đề nữa trong số rất nhiều cuộc khủng hoảng dồn dập phải giải quyết trong nhiệm kỳ. Nhưng bài báo của Post khiến ông chẳng còn lựa chọn nào khác.

“Tại sao anh lại vứt bỏ tôi? Sao không ít nhất cảnh báo cho tôi?”

Tổng Thống vẫy tay chào quanh phòng bầu dục “Ở đây có rất nhiều thứ anh có thể làm, và rất nhiều thứ không thể làm. Một tỏng số đó là vướng vào một cuộc điều tra hình sự”

“Đừng có nó thế. Rất nhiều người đều đã…”

“Phải, và tất cả bọn họ đều phải trả giá” Roger Durling không nói thêm là đó cũng có phải lỗi của tôi éo đâu. Tôi không định khiến sự nghiệp của mình rủi ro vì anh “Anh vẫn không trả lời câu hỏi của tôi”

“Coi này, Roger!” Ed Kealty muốn quát lại, nhưng tổng thống đã giơ tay ngăn lời ông ta nói tiếp

“Ed, tôi đang có một nền kinh tế trên đà sụp đổ. Tôi đang phải xử lý về các thủy thủ đã chết trên biển Thái Bình Dương. Tôi không còn sức để giải quyết việc này đâu. Tôi không thể lãng phí vốn chính trị của mình cho vụ này. Tôi cũng không có thời gian cho việc này. Vì vậy, hãy trả lời câu hỏi của tôi” Durling yêu cầu

Vị phó tổng thống đỏ mặt, ngẹo đầu sang phải, rồi nói “Được rồi, tôi thích phụ nữ. Tôi chưa bao giờ dấu điều đó. Vợ tôi và tôi đạt được hiểu biết chung về chuyện đó” ông ta ngửa đầu ra sau “Nhưng tôi chưa bao giờ, CHƯA BAO GIỜ lạm dụng tình dục, hành hung, hãm hiếp hay buộc bất kỳ ai ngủ với mình trong suốt cmn cuộc đời mình. CHƯA BAO GIỜ. Tôi không phải làm thế”

“Lisa Beringer thì sao?” Durling hỏi, tìm cái tên trong cuốn sổ

“Cô ta ngọt ngào, thông minh, chân thanh và cô ta cầu xin tôi – chà, anh có thể đoán được câu chuyện. tôi đã giải thích với cô ta rằng tôi không thể làm điều đó. Năm đó tôi dự định tái tranh cử và ngoài ra, cô ta quá trẻ. Cô ta xứng đáng lập gia đình với một người trẻ cùng độ tuổi, có con và sống một cuộc đời tốt đẹp. Nhưng cô ta không chịu, bắt đầu uống rượu – có thể là thứ gì đó khác, nhưng tôi không nghĩ thế. Dù sao thì, một đêm cô ta đang lái xe trên đường vành đai và mất lái, Roger. Tôi đã ở đó dự đám tang. Tôi vẫn liên lạc với bố mẹ cô ta. Chà” Kealty nói “nhưng tôi nghĩ cho đến gần đây thì không liên lạc nữa”

“Cô ta có để lại một bằng chứng, một lá thư”

“Nhiều hơn một lá thư” Kealty thò tay vào túi áo khoác và lấy ra 2 phong bì thư “tôi ngạc nhiên thì không thấy ai để ý đế ngày trên bức thư mà FBI đang có. 10 ngày trước khi chết. Bức thư này là 1 tuần sau đó và bức thư này là ngày cô ta qua đời. Nhân viên của tôi đã tìm được chúng. Tôi đoán Barbara Linders đã tìm thấy chúng, thực tế thì có tất cả 3 bức”

“Cái cô gái Linders đó nói rằng anh….”

“chuốc thuốc cho cô ta?” Kealty lắc đầu “anh biết rõ rôi nghiện rượu, anh biết rõ điều đó khi mời tôi vào nội các. Phải, tôi là một kẻ nghiện rượu, nhưng tôi ly cuối cùng của tôi uống đã cách đây 2 năm rồi” ông ta gượng gạo cười “Đời sống tình dục của tôi giờ còn tốt hơn. Quay trở lại với Barbara. Ngày đó cô ta bị ốm, bị cảm. Cô ta đi đến hiệu thuốc gần Đồi (Capitol) và có một đơn thuốc và..”

“Sao anh biết chuyện đó?”

“Có lẽ tôi giữ một cuốn nhật ký, có lẽ tôi chỉ là có trí nhớ tốt. Dù sao thì, tôi biết ngày tháng xảy ra chuyện này. Có lẽ một trong những nhân viên của tôi đã kiểm tra ghi chép của hiệu thuốc và có lẽ một trong những chai thuốc cô ta uống trên nhãn có ghi rõ là không nên uống rượu khi uống thuốc này. Roger, tôi không biết chuyện đó. Khi tôi bị cảm lạnh – chà, tôi uống brandy, chà, quá khứ là thế” Kealty công nhận “Mẹ kiếp, trước đây tôi uống như hũ chìm. Vì vậy tôi có rót vài ly cho cô ta và cô ta rất hợp tác. Tôi nghĩ là quá nghe lời, nhưng tôi lúc đó cũng chỉ biết phương thuốc uống rượu và không phải là kẻ hiếp dâm”

“Vậy anh đang nói với tôi là anh vô tội?”

“Anh muốn nói tôi là một thằng đĩ đực và không biết kéo khóa quần? Phải, tôi cũng nghĩ thế. Tôi từng đến gặp linh mục, bác sỹ và cả phòng khám – để làm vài xét nghiệm. Cuối cùng, tôi đến gặp trưởng khoa thần kinh ở Harvard Medical School. Họ nghĩ rằng một số bộ phận của não điều chỉnh các xung động, và đó là lý thuyết, nhưng không phải là không hợp lý. Nó liên quan đến hoạt động quá nhiều. Tôi từng là một đứa bị tăng động, Cho đến giờ, tôi chưa bao giờ ngủ quá sáu tiếng mỗi đêm. Roger, tôi là thế đấy, nhưng tôi không phải là kẻ hiếp dâm”

Vậy ra đó là những gì đã xảy ra, Durling nghĩ. Mặc dù không phải luật sư, nhưng ông đã từng thuê luật sư, nghe tư vấn đủ để hiểu những gì vừa nghe. Kealty có thể tự bảo vệ mình trên hai mặt: thứ nhất, bằng chứng chống lại ông ta mỏng manh hơn những gì các nhà điều tra tưởng tượng; và thứ hai, đó thực sự không phải lỗi của ông ta. Tổng Thống tự hỏi lời biện hộ nào là đúng. Không lời nào dúng? Một trong hai lời biện hộ là đúng? Hay cả hai đều đúng?

“Vậy anh định làm gì?” ông hỏi phó tổng thống, cùng tông giọng rất giống với giọng mấy giờ trước đó nói chuyện với đại sứ Nhật Bản. Ông bắt đầu có thiện cảm hơn với người ngồi đối diện, bất kể bản thân ông ta. Chuyện gì xảy ra nếu gã này đang thực sự nói thật? Làm sao ông biết – và dù sao thì bồi thẩm đoàn sẽ phán thế nào? Nếu mọi chuyện đi quá xavaf nếu bồi thẩm đoàn tuyên bố ông ta vô tôi, thì phiên điều trần của Tư pháp quốc hội sẽ thế nào? Kealty vẫn còn rất nhiều ảnh hưởng bên quốc hội

“Dù sao đi nữa thì tôi không nghĩ sẽ có ai ghi bảng hiệu DURLING / KEALTY vào mùa hè này, đúng không?” nụ cười xuất hiện trên môi khi ông ta hỏi

“tôi không nghĩ sẽ có” tổng thống xác nhận chuyện đó, một lần nữa quay lại thái độ lạnh lùng. Đây không phải là lúc đùa cợt

“Roger, tôi không muốn làm gì tổn thương anh cả. Tôi đã bắt đầu thu thập bằng chứng từ 2 ngày trước. Nếu anh cảnh báo trước cho tôi thì tôi có thể nói những điều này sớm hơn, giúp mọi người tiết kiệm được rất nhiều thời gian và rắc rối. Bao gồm cả Barbara. Tôi không biết tung tích của cô ta. Cô ấy rất giỏi về quyền công dân và mấy thứ tương tự, nhanh trí và tốt bụng. Anh biết đấy. Chuyện đó xảy ra một làn duy nhất, sau đó cô ta vẫn ở lại làm việc tại văn phòng tôi” Kealty chỉ ra

“Chúng tôi sẽ kiểm soát chuyện đó. Ed, nói xem anh muốn gì”

“tôi sẽ ra đi, tôi sẽ từ chức. tôi sẽ không bị truy tố”

“Không đủ” Durling giọng đều đều bằng phẳng

“Ồ tôi sẽ thừa nhận điểm yếu của mình, tôi sẽ gửi lời xin lỗi đến anh, công khai chân thành về những thiệt hại mà anh phải gánh chịu trong nhiệm kỳ tổng thống của mình. Các luật sư của tôi sẽ gặp luật sư bên họ và đàm phán bồi thường. Tôi rời bỏ chính trường”

“Và nếu điều đó vẫn không đủ?”

“Sẽ đủ” Kealty tự tin nói “Tôi không thể hầu tòa cho đến khi giải quyết xong các vấn đề hiến pháp liên quan. Roger, sẽ mất vài tháng. Có lẽ phải đến mùa hè, có lẽ đến cả Đại hội đảng. Anh không có khả năng đó. Tôi nghĩ, tình huống xấu nhất có thể xảy đến với anh là Ủy ban tư pháp của Quốc hội đệ trình hồ sơ luận tội lên Hạ viện, nhưng Hạ viện sẽ không thông qua, có lẽ hầu như không được thông qua, và sau đó Thượng viện sẽ thảo luận, không có quyết định thống nhất. Anh cũng biết là tôi đã giúp nhiều người ở cả Thượng Viện và Hạ Viện mà” Kealty lắc đầu “Không đáng để gây ảnh hưởng chính trị tới anh, và quốc hội cũng như công việc của chính phủ. Anh cần tận dụng tất cả thời gian mình có. Chúa ơi, anh còn cần nhiều thời gian hơn thế” Keatly đứng dậy và bước về phía bên phải của văn phòng tổng thống. Cánh cửa kết hợp hoàn hảo với những bức tường màu vỏ trứng, với khung cong và viền vàng. Ông ta đi thẳng, không nhìn lại “Dù sao thì giờ cũng phụ thuộc vào anh cả”

Tổng thống Durling cảm thấy tức giận khi nghe mấy lời này. Cuối cùng, lối thoát dễ dàng cũng có thể là lối thoát duy nhất – nhưng ai mà biết được. Họ sẽ chỉ sẽ chỉ biết hành động của ông phải phù hợp về mặt chính trị trong một thời điểm lịch sử đòi hỏi sự minh bạch về mặt chính trị. Nền kinh tế lâm nguy, chiến tranh mới bắt đầu – ông không có thời gian cho thằng ngu xuẩn này. Một phụ nữ trẻ đã chết. Những phụ nữ khác thì kiện vì bị quấy rối tình dục. Nhưng nếu người phụ nữ trẻ đó chết vì một số nguyên nhân khác thì sao và sẽ thế nào nếu những người kia ….Mẹ nó chứ, ông chửi thầm trong đầu. Hãy cứ để bồi thẩm đoàn quyết định. Nhưng trước khi bồi thẩm đoàn có thể ra phán quyết, vấn đề phải trải qua ba thủ tục pháp lý, và ngay cả một luật sư bào chữa vô danh cũng sẽ lập luận rằng mạng C-SPAN đã tung ra tất cả bằng chứng cho thế giới, bóp méo sự thật và tước đoạt quyền quyền hiến định của Kealty để được xét xử công bằng và khách quan trước các bồi thẩm đoàn công tâm. Trong một phiên tòa xét xử của tòa án quận liên bang, phán quyết đó có thể đoán trước được, và thậm chí còn hơn thế khi kháng cáo – nạn nhân không nhận được gì. Và sẽ thế nào nếu tên khốn này, về mặt kỹ thuật, thực sự vô tội? Một kéo mở khóa quần là đáng ghê tởm, nhưng nó không phải là một tội ác

Cả ông và quốc gia Mỹ đều không thể phân tâm vì chuyện này. Roger Durling bấm chuông gọi thư ký

“Vâng, thưa Tổng Thống?”

“goi cho tôi bộ trưởng tư pháp”

Durling nghĩ, có lẽ ông đã sai. Phải, ông có thể can thiêp vào một cuộc điều tra hình sự và ông phải làm điều đó. Và chuyện đó rất dễ. Mẹ kiếp.