- 4 & 5 -
Người thợ ảnh là Ted Boone. Anh biết những người ở quận 87 vì trước đây một tháng họ đã thẩm vấn anh về cái chết của cô vợ cũ. Bert Kling được giao trách nhiệm đi hỏi Boone.
- Ông Boone, tôi điện thoại cho ông để hỏi một việc. Có lẽ ông giúp chúng tôi được. Ông chụp không ít ảnh mốt phải không?
- Vâng.
- Có bao giờ ông mượn một người mẫu là Lucy Start Mitchell?
- Lucy Start Mitchell… Xem nào... Không.
- Tôi nghĩ đã hàng chục năm nay cô ấy không chụp nữa.
- Ô, nếu thế tôi không thể biết cô được. Thời gian ấy tôi không chụp ảnh mốt.
- Ông có biết tôi phải làm thế nào để biết tin về cô ấy không.
- Phải hỏi thăm các nhà quảng cáo. Họ có phiếu cá nhân đấy. Về phần tôi, tôi sẽ hỏi các đồng sự xem.
- Tôi rất biết ơn ông.
- Có gì đâu. Bình thường thôi
- Cám ơn ông Boone.
Bert Kling bỏ máy và cả buổi chiều điện thoại hỏi các nhà quảng cáo nhưng không được gì. Đúng ra, anh biết không một nhà quảng cáo nào đã làm với một người tên Lucy Start Mitchell.
Meyer Meyer không bực mình phải theo dõi, nhất là đối với một người quyến rũ như Lucy Mencken.
Ngày mồng 2 tháng bảy, Meyer ngồi sau tay lái một chiếc xe xanh nhạt phía trước gia đình Mencken. Tám giờ rưỡi sáng một người đàn ông theo hiệu lệnh của Charles Mencken ra khỏi nhà. Đến chín giờ ba mươi bảy phút, Lucy Mencken đưa ra khỏi nhà xe một chiếc M.G. đỏ, đi về hướng Peabody. Meyer bám theo Lucy Mencken đến hiệu làm đầu, Meyer chờ trước cửa. Lucy lại chỗ bưu điện, Meyer đứng phía ngoài. Lucy ăn sáng trong một quán trà thô sơ, Meyer ở trên hè đường. Lúc một giờ bốn mươi phút, Lucy vào một hiệu may.
Đến hai giờ mười lăm phút Meyer bắt đầu ngờ vực. Anh bỏ xe, vào cửa hiệu và bằng một cửa khác ra con đường song song. Tình cờ hoặc cố ý, Lucy Mencken đã đánh lạc hướng anh. Meyer trở lại trước nhà Mencken, nhìn vào nhà xe không thấy chiếc M.G. đỏ.
Lucy chỉ về nhà sáu giờ mười lăm phút. Meyer đi ăn tối và điện cho cảnh sát trưởng Byrnes. Đỏ mắt vì sự xấu hổ, anh thú nhận một bà tư sản ngoại ô thoát khỏi sự cảnh giác của anh trong năm giờ mười một phút, cảnh sát trưởng kiên nhẫn nghe lời tự thú đó và trả lời.
- Đừng rời mắt khỏi bà ta. Chắc không đi ra lại đâu. Willis sẽ đến thay cho anh. Anh nghĩ bà ta có thể làm gì trong năm giờ đó?
- Có trời biết!
- Anh đừng hoảng hốt lên thế, ở Peabody chưa có án mạng đâu. Meyer muốn cười, vì câu nói đó.
- Vâng, tôi chờ Willis.
Meyer lại về chỗ theo dõi và lúc chín rưỡi, Willis đến thay phiên, Meyer về nhà ngủ - Sarah, vợ anh muốn biết tại sao anh có vẻ buồn bã thế.
- Anh là một người hỏng việc, chẳng được tích sự gì. Đã ba mươi bảy tuổi, anh chẳng làm gì được nữa. Anh nói.
- Thôi, anh ngủ đi - Sarah bảo.
Meyer nằm nghiêng mình và cuối cùng ngủ được, không hề nghi ngờ bản thân anh cũng bị theo dõi và đưa người bí mật theo anh đến thẳng địa chỉ của Lucy Mencken.
Ngày thứ tư mồng 3 tháng bảy đến. Sy Kramer bị giết vì phát súng từ một chiếc xe đã qua một tuần. Cảnh sát không tiến thêm được gì so với ngày đầu. Người ta đã biết món tiền gửi nộp hàng tháng năm trăm và ba trăm đô la từ đầu tới nhưng chưa biết xuất xứ của những tấm séc một nghìn một trăm đô la. Cảnh sát chưa biết gì hơn về những món tiền lớn đưa vào sổ tiết kiệm của Sy Kramer ở đâu ra.
Một cuộc điều tra sâu hơn về lối sống của nạn nhân chứng tỏ ông Kramer quá cố thích ăn tiêu sang trọng. Quần áo do cắt may, sơ mi cũng thế nếu không phải áo nhập từ Ý. Căn nhà ở do một nhà trang trí lớn bố trí. Rượu uýtky là loại tốt nhất. Ông có hai chiếc xe, một chiếc Cadillac tháo mui được và một chiếc xe nhỏ đi săn. Tất cả những chi tiêu ấy mới đây thôi càng tăng thêm bí hiểm cho một việc vốn đã khá tăm tối.
Hàng tháng Kramer chi ra một nghìn chín trăm đô la và tiêu hầu hết. Ông ta thích sống phong lưu nhưng không bao giờ đụng đến bốn mươi lăm nghìn bảy trăm năm mươi đô la cẩn thận để dành. Như vậy thì ông ta chi về hai chiếc xe, trang trí, quần áo, đồ đạc, và những việc khác bằng gì?
Người bán chiếc xe Cadillac tuyên bố: Ô. Kramer mua vào cuối tháng chín trước và trả tiền mặt. Chiếc xe đi săn cũng mua cùng ngày, cũng trả tiền mặt như thế.
Kramer thuê căn nhà trong tháng chín, trả công người trang trí và hóa đơn đồ đạc bằng tiền mặt. Tất cả lên đến số tiền hai mươi ba ngàn đô la. Ông đặt may quần áo đẹp vào tháng chín, người ta giao hàng tháng mười, trả tiền hết hai nghìn đô la.
Tổng cộng, Kramer phung phí trong tháng điên rồ này hai mươi sáu nghìn đô la, bao một cô tình nhân đẹp và ngày hai mươi ba tháng mười còn để vào sổ nhà băng hai mươi mốt nghìn đô la.
Ba mươi sáu nghìn đầu ở đâu ra và xuất xứ của ba lần gửi hai mươi mốt nghìn, chín nghìn và mười lăm nghìn đô la trong tháng mười, tháng giêng và tháng tư? Ai trả những số tiền ấy? Ai có thể xuất ra tiền tổng cộng là tám mươi mốt nghìn đô la? Người đó phải chăng có lý do để thở phào nhẹ nhõm với cái chết của Kramer? Tám mươi mốt nghìn đô la có phải là lý do chính đáng để giết một con người?
Ngày hội toàn quốc mồng bốn tháng bảy bùng lên như ngọn lửa thăng thiên. Tuy cảnh sát đã cấm đốt pháo ở nơi công cộng, mọi kẻ lông bông từ sáu đến sáu mươi tuổi sẵn sàng cầm que diêm đốt ngòi pháo và bịt tai lùi lại ba bước. Một đứa bé mất một mắt khi pháo lớn bắn vào mũi và một đứa khác rơi từ mái nhà xuống chết bẹp trên hè phố.
Ngày mồng 4 tháng bảy này nếu không phải là trong những ngày nóng nhất thì chắc chắn là trong những ngày ồn ào nhất. Và tiếng pháo che đậy tiếng súng và tiếng pháo nổ. Cảnh sát luôn sẵn sàng lùng những phần tử dưới biển lên bờ, những loại trộm cắp lợi dụng sự náo nhiệt chung, những đứa trẻ nghỉ hè làm điều dại dột gì đó cho đỡ buồn và những người say rượu lè nhè gây gổ.
Mọi người ăn mừng nền tự do trừ những cảnh sát viên. Họ bực bội và tất cả đều tiếc đã không đi làm lính cứu hoả.
Ở trại tập trung của quận 87, kẻng báo động không ngớt và lính cứu hỏa phải túc trực. Ngày mồng 4 tháng bảy này hứa hẹn phải đạt kỷ lục về chữa cháy. Và những người lính cứu hoả bực bội; tất cả đều tiếc đã không đăng ký vào ngành cảnh sát.
-5-Hal Willis là thanh tra bậc ba, lương mỗi năm được năm nghìn hai trăm ba mươi đôi la, săn lùng những phần tử bất lương để nguy hiểm đến tính mạng và ngồi đánh những báo cáo ở bàn giấy. Anh đang theo dõi một người đàn bà cố gắng dấu thân hình dâm đãng dưới một chiếc áo dài rộng thùng thình. Công việc chẳng khó khăn gì và Willis không tưởng tượng được vì sao bà Mencken đẹp đẽ này có thể đánh lạc hướng Meyer. Chắc Meyer già rồi; không có lời giải thích nào khác được.
Willis nhỏ người, mảnh khảnh, thân hình vừa đúng cỡ những người cảnh sát buộc phải có và bên cạnh các bạn đồng sự, anh như người lùn. Nhưng anh là một chủ bài về giu-đô, thắt lưng đen, biết bao người cao lớn đều sửng sốt khi bị anh cho đo ván.
Hal Willis như vậy là đang đi theo Lucy Mencken, bắt đầu hiểu những lời dặn dò của
Carella và Meyer, hai người đã có vợ, nghiêm chỉnh, đã nhắc lại với anh dưới chiếc áo rộng của bà Mencken che dấu kíp mìn. Lúc đầu Willis nhún vai, thất vọng. Người đàn bà đáng kính vừa ra khỏi nhà không có vẻ gì là ma cà rồng với đôi giày để bằng, quần áo không ra gì. Người ta có thể nghĩ bà là một thủ thư nghiêm khắc hơn là một người yêu đương điên cuồng. Nhưng từng ít một, Willis hiểu ra những lời cảnh cáo của các đồng sự. Điều đó dựa vào một số cử chỉ, vào làn vải căng trên đùi khi Lucy Mencken xuống xe, và bước đi... Tuy ăn mặc sơ sài, bao giờ bà Mencken cũng làm cho người ta nghĩ ngợi. Việc theo dõi này thế là không có gì khó chịu.
Trong buổi sáng mồng 5 tháng bảy này, lúc đầu bà ta đưa Wills đến nhà ga Peabody. Thật bất ngờ. Viên thanh tra đậu ngay xe bên cạnh chiếc xe M.G. màu đỏ và vội vã vào phòng bán vé theo sát chân Lucy, chậm quá, không biết bà ta lấy vé đi đâu. Anh tự lập luận và chúi đầu vào đọc một tờ tạp chí, không ngừng để mắt vào bà ta, ngạc nhiên thấy chỉ có mình nhìn bà. Mái tóc búi tó và đôi giầy Đội quân cứu nạn lừa được mọi người đàn ông, không người nào quay lại với bà. Willis lắc đầu, nghĩ rằng lớp người mới thiếu khả năng quan sát. Những người đãng trí và bất lực. Thật đáng buồn.
Lucy Mencken nhìn đồng hồ, ra sân ga khi nghe một chiếc tàu vừa đến. Willis đi theo. Đây là chuyến tàu chợ ra thành phố. Bà lên tàu trong một toa hút được thuốc lá và Willis cũng lên, ngồi sau bà mấy ghế. Khi người kiểm soát đến, anh lấy một vé khứ hồi đến ga cuối cùng rồi lại đọc tạp chí, thỉnh thoảng ngước mắt nhìn ở mỗi chỗ dừng. Nhưng Lucy vẫn bất động cho đến ga cuối.
- Đàn bà - Willis tự nhủ. Người ta bảo mình theo dõi ở Peabody thì bà ta đưa mình ra thành phố!
Anh thanh tra không hài lòng. Trong thành phố, không khí ngột ngạt, không như ở ngoại ô. Anh rủa thầm điều không may và chạy theo Lucy đang chui vào một chiếc taxi. Willis lên chiếc taxi tiếp đó, giơ huy hiệu. Lái xe đuổi theo chiếc xe trước, không để bị bỏ rơi. Lucy Mencken bảo vào trung tâm, lên một tòa nhà ở đường Độc lập. Willis phải chạy qua tiền sảnh để cùng lên thang máy với bà ta.
Anh có thể quan sát bà gần hơn, nhận thấy bà không dùng nước hoa, có đôi mắt xanh trong và những chấm tàn nhang trên mũi. Có lúc anh tự hỏi có phải bà ta xuất xứ từ nông thôn không. Đến tầng tám, bà ra khỏi thang máy, Willis ra theo.
Lucy đi thẳng đến đầu hành lang còn anh thanh tra vờ xem kỹ số phòng như đang tìm một văn phòng tư. Anh thấy bà vào một cánh cửa kính không cần gõ cửa, phòng cuối cùng. Anh chờ hai phút rồi lại gần xem. Trên tấm biển những chữ đen ghi:
806
Patrick Blier
Hiệu ảnh - quảng cáo.
Willis tránh đi, ghi số nhà và tên rồi xuống lại tầng trệt. Anh cẩn thận đi vòng quanh tiền sảnh để chắc chắn không có lối ra nào khác rồi vào một buồng điện thoại có thể theo dõi chỗ thang máy. Anh bấm số gọi về quận 87.
- Quận 87, đội Murchison đây - một giọng nói trả lời.
- Willis đây. Hawes có trên văn phòng không?
- Chờ tí. Để tôi xem.
- Quận 87, thanh tra Hawes ở đầu máy...
- Cotton đấy à? - Hal gọi đây.
- Chào. Bà khách hàng ra sao rồi?
- Anh phải đến xem, đẹp lắm!
- Anh ở đâu?
- Ở thành phố, số nhà 1612 đường Độc lập. Giữa trung tâm, ngay sau quảng trường. Bà ta đang trong căn hộ 806, của một người tên Patrick Blier, Hiệu ảnh - Quảng cáo, ghi trên cửa. Tôi phải làm gì?
- Đừng rời bà ta. Khi bà ta đi thì tin cho tôi, tôi sẽ đến nói chuyện với ông chủ.
- Tôi nhắn tin qua đội thường trực, không có thì giờ đâu. Người đàn bà ấy chạy như ma quỷ.
- Được rồi, tôi chờ anh gọi.
Patrick Blier, Hiệu ảnh - Quảng cáo, đầu hói, mũi cong. Thoạt đầu người ta có cảm giác gặp một con diều hâu khổng lồ trên đường trở về. Ông ngồi sau chiếc bàn trong một gian phòng nhỏ, tường đầy trang trí, bận một chiếc sơ mi nylon trong suốt lộ lớp da đen. Những chùm lông cũng đen và rậm rạp phủ lên đôi cánh tay trần. Thực tình, Ô. P. Bier người đầy lông quá đáng, khắp nơi, trừ trên đầu.
- Còn anh? Anh muốn gì? - Ông hỏi khi Hawes vừa bước chân vào phòng.
- Thư ký không báo trước với ông à?
- Cô ấy nói có một thám tử muốn gặp tôi. Thế tôi hỏi anh, anh là thám tử tư hay thanh tra cảnh sát?
- Một thanh tra cảnh sát.
- Những thám tử tư, tôi ngán lắm rồi. Họ đều muốn tôi cho họ mượn ảnh khách hàng vì những việc ly dị. Anh muốn gì?
- Hỏi ông một số câu.
- Anh hỏi đi. Tôi không có thì giờ rảnh. Điện thoại, báo chí, các nhà biên tập, tôi không biết cho đầu vào đâu nữa.
- Lucy Mencken đến đây làm gì thế?
- Lucy Mencken là ma quỷ nào?
- Bà ta vừa ở đây ra.
- Anh ngớ ngẩn rồi, Lucy Menc... Anh muốn nói về Mitchell? Lucy Mitchell? Bà ấy phải không?
- Vâng. Tại sao bà ta đến đây?
- Bà ấy muốn những bức ảnh.
- Loại ảnh gì?
- Gợi cảm.
- Để bà ta làm gì?
- Dán vào an bum, tôi nghĩ thế. Bà ấy không tâm sự gì với tôi. Một người đàn bà chơi ảnh thì quan hệ gì đến tôi.
- Ông muốn nói những bức ảnh của chính bà ta?
- Vâng. Những bức ảnh gợi cảm.
- Trần truồng?
- Cũng có trong đó. Và những bức gần trần truồng, loại như vậy đấy.
- Ai đã lấy những bức ảnh ấy? Để làm gì?
- Một khách hàng của tôi. Chúa ơi! Để bán mà! Tôi bán cho những tạp chí của đàn ông. Không riêng gì ảnh nghệ thuật.
- Người khách hàng nào lấy phim ảnh Lucy Mitchell?
- Một người tên Jason Poole. Một con chủ bài đấy. Những bức ảnh ấy khá gợi cảm và không phải là ảnh ngày nay.
- Từ khi nào vậy?
- Khoảng mười, mười hai năm trước.
- Ông cho biết cụ thể đi.
- Chúa ơi, tôi không có thì giờ.
- Tôi cũng không. Tôi điều tra về một vụ án mạng.
- Một vụ án mạng? Ông nói sao? Một vụ giết người à?
- Đúng thế. Tôi nghe ông đây, Blier.
- Khoảng năm 1944-45 gì đấy. Thời kỳ đó tôi không có thư ký. Tôi đang một mình, ngồi ăn chiếc bánh nhân thịt thì cô búp bê ấy bước vào...
- Lucy Mitchell?
- Đúng, từ trang trại ra, còn rơm trong guốc đi. Nhưng đẹp! Bố ơi! Tôi mềm rũ đầu gối. Cô ấy bảo muốn chụp ảnh, được đăng lên báo. Tôi thấy gặp may rồi, thấy hình dáng cô mặc áo lót hay ở trần bày ra khắp nơi rồi. Tôi gửi cho Jason Poole in một loạt ảnh. Một loạt ảnh, ông nghĩ, làm đá cũng rỏ nước dãi. Sau đó ông biết sao không?
- Không, tôi đang chờ nghe.
- Tuần sau, tôi phải đóng cửa hiệu. Người ta kiện tôi bán, những bức ảnh đó. Làm sao tôi có thể biết cô ta đào mỏ? Thế là tôi có những bức ảnh tuyệt vời của Lucy Mitchell nhưng không có văn phòng. Và tôi bị mất chúng. Thời gian tôi trở lại, lập một văn phòng khác thì không còn những bức ảnh nữa. Tôi cũng không thấy chúng trên các tạp chí. Không bao giờ được tin.
- Có bao nhiêu ảnh?
- Ồ, đến ba tá.
- Và hôm nay Lucy Mitchell đến đòi lại?
- Tôi ngớ người... Cô ta thay đổi đến thế! Như một bà giám hiệu! Tôi bảo tôi không có phim. Bà ta bảo tôi làm việc với một tay tên là Sy Dramer. Tôi bảo bà ngớ ngẩn, tôi chỉ biết một người là Dean Kramer, chủ bút một tờ báo cho trẻ em. Bà muốn biết ông này có bà con gì với Sy Dramer không. Tôi không biết. Bà hỏi địa chỉ ông ta và tôi ghi cho bà.
Nhưng tôi không hiểu vì sao bà ta muốn tìm những bức ảnh đó sau một thời gian dài như vậy.
- Ông không biết có người nào tên là Sy Dramer ư?
- Không. Thậm chí tôi cũng không biết Dean Kramer rõ lắm. Một tay văn học. Ông ta có cảm hứng về văn học.
- Nghĩa là sao?
- Những bức ảnh phải có lời viết cẩn thận kèm theo. Như vậy người đọc có thể hình dung không chỉ dán mắt vào ảnh mà còn là học hỏi nữa. Nhưng này, tại sao Lucy Mitchell lại trang sức như vậy, sợ người ta dị nghị à?
- Có lẽ.
- Xưa kia...
Blier im lặng một lúc, nhớ những kỷ niệm xưa rồi thở dài, nói thêm:
- Ồ! Bố ơi!