- 10 -
Sand’s Spit là một vùng ngoại ô của thành phố, miền đất đẹp của tầng lớp trung lưu, đường phố sạch sẽ, nề nếp tư sản.
Phil Kettering ở trong khu bãi biển Montbois, tuy xung quanh không có bãi biển và núi rừng. Khu này ở chính giữa bán đảo, trên một đồng bằng rộng, cây cối chỉ là những cây thủy tùng nhỏ rải rác. Gia sản của Kettering là một trang trại. Những ngôi nhà xây dựng thiết kế như nhau, có ba phòng ở, một phòng khách, bếp và phòng tắm. Phil Kettering sống đơn độc trong một ngôi nhà như vậy.
Buổi sáng thứ ba, 11 tháng bảy, Phil Kettering không có ở nhà. Cổng khóa kỹ, màn hạ xuống, cửa lớn cửa sổ đều đóng kín. Khi Carella và Hawes đến nơi, dừng xe trước nhà, thấy bên trong vắng lặng.
Họ bấm chuông nhiều lần. Ở bãi cỏ trước mặt, một người đàn bà ngừng xén cỏ nhìn lên. Hai người đi vòng quanh nhà. Bà láng giềng đã sang qua đường nhìn chiếc xe cảnh sát rõ thật tò mò. Khi hai anh thanh tra lại gần, bà hỏi:
- Các ông ở sở cảnh sát à?
- Đúng vậy - Hawes trả lời.
- Các ông tìm gặp Phil?
- Vâng.
- Ông ấy không có ở nhà.
- Bao lâu rồi?
- Ô, đã mấy tháng nay. Chúng tôi nghĩ ông ấy đã chuyển chỗ ở. Là người chưa vợ con độc nhất ở khu này. Chỉ một mình sống trong ngôi nhà lớn như vậy cũng dở hơi. Và cũng phiền phức. Mọi người đều có gia đình. Đàn bà quan tâm đến một người độc thân và những ông chồng không thích thế. Ông ấy đi chỗ khác là đúng.
- Sao bà biết ông ấy chuyển chỗ ở?
- Không thấy ông ấy nữa, người ta nghĩ là ông ấy bỏ đi.
- Lần cuối cùng bà gặp ông ấy lúc nào?
- Mùa hè vừa rồi.
- Chính xác là thời kỳ nào?
- Tôi không rõ lắm. Ông ấy đi luôn luôn. Đi săn nhiều; một thiện xạ đấy. Các ông phải xem phòng khách của ông ấy, đầy đầu thú rừng. Một nhà thể thao mà. Săn bắn, chơi tennit rất giỏi. Phải xem phòng ngủ của ông ấy. Đầy những quả... bóng tennit.
- Bà không cho rằng Ô. Kettering có một chỗ ở khác trong thành phố?
- Không nghe ông ấy nói chuyện bao giờ.
- Ngoài những buổi đi săn, thỉnh thoảng ông có vắng mặt lâu ngày không?
- Không.
- Tài khoản của ông ở nhà băng nào?
- Ông ấy không có tài khoản.
- Sao bà biết.
- Chà, ông ấy nói. Có hai người trong khu trả tiền nhà bằng tiền mặt. Phil và một người ở đầu phố. Chúng tôi trả một lần khởi điểm rồi số còn lại trả tiền hàng tháng. Phil trả một lúc tám nghìn năm trăm đô la, khi vừa rời quân đội. ông ta vớ được một món ở Đức.
Bà nhìn hai anh thanh tra như sẵn sàng nói dài hơn.
- Cung ứng đấy - Carella nói - Cơ quan dân sự không làm những việc thuộc về quân đội. Ông ta làm gì? Chợ đen à?
- Vâng. Ông bán đường và cà phê. Hình như là suất đội, phụ trách một cơ sở hậu cần. Ông đặt hàng nhiều hơn cần thiết và bán lại cho những người dân Đức. Được nhiều tiền lắm. Do đó có khả năng trả ngay tiền nhà.
- Bà chắc chắn chứ? Ông ta trả tiền mặt?
- Vâng, đúng thế.
- Nhà băng nào phụ trách những tài khoản của các gia đình?
- Ngân hàng Sand’s Spit. Chỉ có hai nhà băng phụ trách khu này. Nhà băng kia ở thành phố: Banker’s Trust.
- Cotton, anh đi ngó qua hòm thư xem. Bà có biết Kettering có bà con gì ở thành phố, ở vùng này?
- Ông ấy nguyên quán ở California. Bố mẹ đã chết, có cô em ở Los Angeles nhưng không hòa thuận với nhau.
- Cô ta tên gì?
- Hình như là Susie.
- Kettering không có bạn gái à?
- Thỉnh thoảng ông ta đưa về một cô gái. Một cô gái trẻ, người tử tế. Mọi người mong cho họ cưới nhau. Ông biết vì sao đấy.
Carella mỉm cười.
- Bà có biết ông ấy làm việc ở đâu không?
- Ngoài thành phố, làm thợ ảnh.
- Carella suy nghĩ một lúc.
- Ảnh thương mại? ảnh nghệ thuật? Đúng ra là ảnh gì?
- Tôi nghĩ ông ta làm quảng cáo hoặc ảnh họa báo.
- Làm sao mà từ bếp núc lại nhảy qua nhiếp ảnh?
- Tôi không rõ. Vả lại ông ta phụ trách một cơ sở hậu cần, cung cấp thực phẩm cho quân đội. Không phải là bếp núc. Ông ta không làm bếp.
- Công việc có phát đạt không?
- Ông ta kiếm sống khá, thế thôi. Ở Isola, có trong danh bạ điện thoại, Phil Kettering.
Hawes lúc đó trở lại báo:
- Trong hòm thư chẳng có gì, Steve.
- Ở cửa không có sữa đem đến?
- Không.
- Đã từ lâu người ta không đem sữa đến cho ông nữa, bà hàng xóm nói xen vào. Chính tôi báo cho họ chai chất đống trước cửa bếp.
- Vào thời gian nào?
- Mùa thu. Khoảng tháng mười.
- Bà có nhớ đầu tháng chín Kettering có một đợt đi săn không?
- Có. Ông ấy đi vùng núi, trong vùng Adirondacks đâu đó thì phải.
- Khi nào thì ông ta trở về?
- Không trở về. Chắc thời gian đó ông chuyển chỗ ở.
- Sau chuyến đi ấy ông ta không trở về à?
- Nếu trở về thì tôi không trông thấy.
- Bà có thấy xe chuyên chở đồ đạc không?
- Không. Đồ đạc ông vẫn còn đấy.
- Bà có thể cho biết tên một hay hai người bạn gái của ông ta?
- Được. Có Alice, tôi quên mất họ của cô. Một cô gái xinh. Đáng lẽ ông phải cưới cô ấy, khỏi phải chuyển chỗ luôn luôn..., tôi phải trở lại xén cỏ đây. Phil đã làm điều gì à?
- Bà đã giúp chúng tôi rất nhiều, thưa bà...?
- Jennings. Có phải Phil đã làm điều gì không?
- Bà chỉ chỗ bưu điện cho được không?
- Cứ đi thẳng, không lạc được đâu. Giữa con đường chính, ngay khi các ông vào làng. Phil đã làm việc gì?
- Xin cám ơn nhiều, thưa bà Jennings. Và xin lỗi vì đã làm phiền bà - Carella nói.
Hai người trở lại xe. Bà Jennings nhìn họ ra đi. Rồi bà đến chống tay vào cổng bà hàng xóm kể chuyện hai ông cảnh sát đến hỏi rất nhiều về Phil Kettering. Bà kết luận:
- Chắc ông ấy đã làm điều gì đấy.
Nhân viên bưu điện là một người nhỏ thó, nóng nảy, hung hãn, phàn nàn về công việc ở đây.
- Người ta không tổ chức được việc phân phối thư cho một khu mới. Không tìm đủ bưu tá. Và không như trong thành phố, bưu tá giải phóng một lúc cả nửa túi thư từ. Cứ bỏ chỗ người gác cổng hay bỏ vào thùng thư ở tiền sảnh. Năm giây là xong, ở đây phải đi qua vườn, bổ vào từng hòm thư rồi đi lộn lại, bắt đầu vào các nhà khác. Ba phần tư thời gian phải xoay xở với chó, mèo hoặc trẻ con. Và bao giờ cũng mọc lên một khu mới, không bao giờ hết. Không phải là cuộc sống nữa!
- Ông có phân phối thư từ cho một người tên là Phil Kettering?
- Có! Người bưu tá bỗng rạng rỡ kêu lên. Ông đến vì thư từ của ông ấy? Ông cử các ông đến nhận à?
- Chúng tôi...
- Chà, tôi rất hài lòng cuối cùng được thấy các ông! Cả đống thư từ ùn lên đến trần nhà. Không thể bỏ vào hòm thư của ông ấy được nữa, sẽ tràn cả ra hè đường. Chúng tôi vẫn mong có địa chỉ mới để gửi đi. Các ông sẽ thấy! Như là người ta thừa chỗ! Các ông đến nhận chứ?
- Không. Nhưng chúng tôi muốn xem.
- Tôi không để các ông lấy đi được. Thư từ gửi cho ông ấy. Chúng tôi chỉ có thể giao lại cho ông ta.
- Cảnh sát - Carella nói và giơ thẻ.
- Không thay đổi được gì. Thư từ thuộc về người nhận hoặc Bưu điện. Các ông muốn mang đi thì phải có sự xét xử đã.
- Nhưng có lẽ chúng tôi có thể xem lướt qua được chứ?
- Được. Muốn xem hết các ông phải để cả buổi chiều. Thư từ chất đống lại từ tháng chín trước.
Carella và Hawes xem hàng chồng phong bì. Có những thông tư, hóa đơn, chứng từ và thư riêng. Bức thư đầu tiên đóng dấu ngày 29 tháng tám. Có một số do người tên là Arthur Banks ở Los Angeles gửi, một số từ địa chỉ của Alice Lossing ở Isola. Hại anh thanh tra ghi những điểm cần thiết, thấy chưa cần thiết xin lệnh tiếp nhận số thư từ này. Điều cấp tốc là đến văn phòng của Kettering ở Isola. Họ cám ơn ông nhân viên Bưu điện và ra xe.
Văn phòng của Phil Kettering ở trên một con đường nhỏ trung tâm Isola. Ngồi nhà có nhiều văn phòng sang trọng của những nhà kinh doanh lớn. Văn phòng của Kettering không thuộc loại này, ở cuối hành lang tối tăm tầng ba, cánh cửa khiêm tốn bằng khung kính, phía dưới bên trái ghi những chữ đen Nhiếp ảnh.
Văn phòng khóa cửa. Carella và Hawes nhờ người gác cửa mở ra sau khi nhân viên này đã xin ý kiến ông quản lý. Những việc đó mất bốn mươi lăm phút.
Văn phòng ngăn làm ba phòng, một là bàn làm việc và giấy tờ, phòng kia là chỗ đặt máy chụp ảnh và một phòng tối. Quang cảnh không có vẻ phát đạt, cũng không có bụi bậm. Hàng đêm người quét dọn vào lau chùi đồ đạc, xem có rác đem đổ. Nhà cửa sạch sẽ. Nếu Kettering qua lại đó thì người quét dọn cũng xóa hết dấu vết của ông ta rồi.
Phía trong cửa có một chồng khá lớn giấy tờ, thư tín, tuồn qua một khe vuông. Hai anh thanh tra quyết định dựa vào luật lệ mở xem giấy tờ. Không có gì quan trọng, thư từ đều nói về công việc. Những bức ảnh không có gì gợi cảm và trong thư từ cho thấy Kettering không chụp những phụ nữ hở hang.
Trên bàn có những bức thư đã mở, viết từ cuối tháng tám Kettering hẳn đã đọc nhưng không trả lời. Một số thư hỏi vì sao không thực hiện những yêu cầu trong tháng tám.
Rõ ràng từ cuối tháng tám Kettering không bước chân vào văn phòng Carella và Hawes rời văn phòng, xuống gặp ông quản lý ngôi nhà. Đây là một người khoảng ba mươi tuổi, ăn mặc tử tế, bình tĩnh và đứng đắn. Ông tuyên bố:
- Tôi sẽ mời ông ta ra cửa. Các ông nghĩ đã nhiều tháng nay không trả tiền nhà. Mất tiền thuê nhà, tôi sẽ đề nghị ông đi chỗ khác. Chấm hết.
- Việc đó có vẻ làm ông không hài lòng - Carella nói. Kettering không cho ông biết sẽ ra đi?
- Tuyệt đối không, ông nói như vậy là thế nào? Ông ta chuồn thẳng, thậm chí không tỏ ra lịch sự bảo với tôi là sẽ rời bỏ văn phòng. Đi trốn ai? Cảnh sát à? Ông ta nhúng tay vào việc gì? Cướp? Án mạng? Vì sao một người biến mất như vậy? Tôi muốn biết đấy.
Carella và Hawes hoàn toàn đồng tình, Carella công nhận chúng tôi cũng muốn biết lắm.
Hai người cảm ơn ông quản lý, rồi khỏi ngôi nhà. Chỉ còn phải hỏi những người cùng đi săn đợt ấy. Họ phân công nhiệm vụ và chia tay nhau.
Cơ sở quảng cáo gọi là Ruther-Smith và Công ty. Công việc tiến triển tốt, dùng đến ba mươi nhân viên. Frank Ruther là hội viên, chịu trách nhiệm viết phần lớn những bài quảng cáo.
- Tôi thích viết một cuốn sách thì hơn - ông thổ lộ với Hawes. Đáng buồn là tôi không có khả năng ấy.
Đây là một người da nâu, đôi mắt u tối, vừa quá bốn mươi tuổi. Ông không ăn mặc như một nhân viên quảng cáo mà có ý làm như tác giả thành đạt, áo ngoài vải tuýt, quần phlanen, cravat vải đan. Thêm vào đó là một ống điếu tròn. Ông tiếp Hawes rất thân mật, mời ngồi trên chiếc bành lịch sự.
- Ông nội tôi làm ra nhiều tiền lắm - Ông nói - Cụ đi tỉnh này sang tỉnh khác bán những chiếc bình, đến một thời gian phải tổ chức các đại lý. Cụ để lại cho bố tôi cả một gia tài lớn.
- Bố ông trước đây làm gì?
- Chạy theo đồng tiền. Ông kinh doanh kiểu khác nhưng làm các khoản tiền do những chiếc bình đưa lại sinh sôi nảy nở một cách kỳ lạ. Bắt đầu bằng nhập những con chó xù của Pháp. Xem thì có vẻ lôi thôi nhưng ông là cửa hàng chó quan trọng nhất trong tỉnh. Những con chó nòi mà. Bố tôi là một nhà kinh doanh giỏi, có thể nói như vậy. Khi mất, ông để lại cho tôi gia tài của hai thế hệ gia đình Ruther.
- Còn ông thì làm gì?
- Tôi muốn trở thành nhà văn, viết hàng tá tiểu thuyết nhưng rồi vứt vào sọt rác. Tôi đã sống thoải mái.
Trước khi bố tôi chết tôi tiêu pha rộng rãi, thấy không cần thiết phải gò bó. Chưa đầy hai mươi năm tôi tiêu gần hết của cải hai thế hệ Ruther góp nhặt được. Khi thấy chỉ còn mười lăm nghìn đô la, tôi thôi viết truyện và xây dựng cơ sở này cùng với Smith. Công việc phát đạt. Cuối cùng tôi có cảm giác đã làm được một việc gì đấy. Tâm trạng thấy mình không làm được việc gì rất nặng nề, ông Hawes ạ.
- Vâng, đúng thế.
- Ông đến gặp tôi có việc gì thế?
- Ông biết gì về người tên là Phil Kettering?
- Kettering? - Ruther nói và nhíu lông mày có vẻ ngỡ ngàng - Rất tiếc nhưng tên này không nhắc tôi điều gì cả.
Phil Kettering - Hawes nói lặp lại.
- Tôi phải biết ư?
- Vâng.
- Chà, ông có thể gợi hướng cho tôi không?
- Kukabonga.
- A, đúng, Lạy Chúa, đúng rồi! Xin lỗi, tôi thường không nhớ tên. Nhất là dạo ấy... tôi đang có chuyện hơi rắc rối, không nhớ được gì nhiều.
- Loại rắc rối gì vậy?
- Buồn về những quan hệ vợ chồng. Riêng tư thôi. Chúng tôi định ly dị nhau.
- Và ông bà đã ly dị?
- Không. Mọi việc được dàn xếp xong. Bây giờ rất tốt rồi.
- Trở lại với Kettering. Ông ta rời khỏi Kukabonga lúc nào?
- Một buổi sáng rất sớm, tôi không nhớ ngày nữa. Ông ta nói sẽ đi một vòng quanh rừng trước khi lên đường. Ăn sáng xong thì đi.
- Không có ai cùng đi à?
- Không.
- Sau đó?
- Sau đó tôi và hai người nữa ăn sáng rồi cũng ra đi. Tôi quên mất tên của họ rồi.
- Ngoài ông ra, không phải còn ba người à?
- Ông muốn nói đến Kramer? Có ông ấy nữa nhưng ông ta không đi cùng chúng tôi sáng hôm đó.
- Ông không đọc báo nói về Kramer ư?
- Không. Có việc gì vậy?
- Ông ta chết rồi.
Ruther im lặng một lúc rồi nói.
- Tôi rất buồn được biết tin ấy.
- Thật chứ?
- Vâng. Chúng tôi có cãi cọ nhau nhân vì một món ăn nhưng lâu rồi và lúc ấy tôi quá bực tức. Việc buồn phiền vì gia đình làm tôi nóng lên. Nhưng chắc chắn không bao giờ tôi mong ông ta chết. Ông chết vì sao vậy?
- Bị một phát súng.
- A, Tai nạn à?
- Không phải.
- Ông muốn nói bị giết hại?
- Đúng vậy.
- Kẻ nào bắn?
- Chúng tôi không biết. Từ năm trước đến nay ông có gặp Kettering không?
- Không. Tôi gặp lại ông ấy làm gì. Chúng tôi chỉ quen biết nhau trong dịp đi săn, thế thôi.
- Ông có thể cho biết bây giừ ông ta ở đâu không?
- Ồ không. Ông ta có liên quan gì đến cái chết của Kramer không?
- Chúng tôi nghĩ rằng Kettering đứng về phía ông trong cuộc cãi cọ và suýt nữa đánh nhau với Kramer phải không?
- Đúng. Nhưng tôi nói với ông việc đó xảy ra lâu rồi. Dù sao cũng không thể nghĩ rằng ông ta hận thù trong bao nhiêu tháng như thế.
- Tôi cũng chỉ nghĩ thế thôi, Ô. Ruther. ông có thể nhớ lại tên hai ông bạn kia được không?
- Không. Tôi xin lỗi. Chỉ biết một người có tên rất lạ nhưng không nhớ được tên là gì.
- Được rồi. Ông rời căn nhà đi săn vào lúc nào?
- Tôi nhớ hình như là vào ngày thứ bảy, mồng 8 hoặc 9 tháng chín. Đó là tuần đầu tháng chín.
- Còn Kramer đi ngày nào?
- Có lẽ cùng ngày với tôi.
- Và những người kia?
- Tôi nhớ chúng tôi đi cùng một lúc. Chúng tôi chỉ ở đó một tuần lễ. Tôi đã nói với ông, tôi nhớ mơ hồ lắm. Lo lắng về gia đình hơn việc săn bắn. Muông thú tôi bắn chỉ là một con quạ.
- Kettering có đe dọa Kramer không?
- Không. Ông ta chỉ bảo ra ngoài giải thích, thế thôi.
- Ông ta có vẻ rất nóng giận chứ?
- Vâng. Vì sao ông nghĩ là Kettering giết Kramer?
- Chúng tôi không biết, Ô. Ruther. Nhưng ông ta có một động cơ có thể thừa nhận được và hình như đã biến mất. Lại có vấn đề nữa, theo chứng cứ Kettering bắn xuất xắc, Kramer lại bị hạ vì một khẩu súng săn.
- Có hàng nghìn người trong thành phố này có súng săn. Tôi cũng có một khẩu.
- Thế ư? Ông Ruther nhãn hiệu gì?
- Một khẩu Marlin. Cỡ nòng 22.
- Kramer bị hạ bởi khẩu Savage ba trăm.
Hawes đứng dậy.
- Nếu ông nhớ lại tên hai ông bạn kia, nhờ ông gọi điện thoại cho tôi. Danh thiếp tôi đây.
- Ruther xem kỹ danh thiếp rồi ngẩng lên nhìn.
- Ông biết việc cãi cọ giữa Kramer và tôi, biết tôi đã đến Kukabonga, biết tên Kramer và tên tôi. Ông đã đến Kukabonga đúng không? Ruther vừa nói vừa cười.
- Đúng.
- Ông đã gặp người chủ nhà?
- Vâng.
- Như vậy ông cũng biết tên hai người kia phải không?
- Phải. Thực ra tôi biết tên tuổi họ rồi.
- Như vậy, tại sao ông còn hỏi tôi?
- Thủ tục thông thường mà - Hawes nhún vai nói.
- Ông nghi ngờ tôi có dính líu tới cái chết của Kramer à?
- Ông có dính líu không?
- Không.
Hawes mỉm cười.
- Nếu vậy, ông không có gì phải lo lắng, Ô. Ruther.
Anh thanh tra đi ra cửa nhưng Ruther giữ anh lại.
- Khoan đã, Hawes.
Giọng nói đanh, trịch thượng làm Cotton Hawes quay ngay lại.
- Có gì vậy, Ô. Ruther?
Ruther đã đứng dậy, vòng ra khỏi bàn. Đôi mắt càng u tối, miệng mím chặt.
- Tôi không thích người ta chế nhạo tôi.
- Có ai chế nhạo ông?
- Ông biết hai người kia và tên tuổi họ. Ông cố đưa tôi vào bẫy.
- Vì lý do gì? Bẫy nào?
Không khí trong gian phòng bỗng chốc thay đổi, bây giờ có vẻ căng thẳng làm Hawes bất ngờ. Mặt Ruther tái xanh, đôi mắt long lên như sẵn sàng lao tới.
- Một cái bẫy. Để tôi nói điều gì đó trong giả thuyết của ông.
- Tôi không có một giả thuyết nào cả, Hawes nói và nắm chặt tay, đôi chân giạng ra đề phòng bất trắc.
- Vậy sao ông giăng bẫy tôi?
- Tôi không giăng bẫy ông, Ô. Ruther. Nhưng ông phải biết điều mà mọi người kinh doanh không quên được.
- Thế ư? Điều gì vậy?
- Biết ngừng lại đúng lúc trong đang phát đạt. Ruther đứng im, có vẻ không biết nên quyết định ra sao. Cuối cùng ông cười.
- Tôi xin lỗi, tôi... Tôi có cảm tưởng ông chế nhạo tôi.
- Thôi, chúng ta quên chuyện này đi – Hawes nói.
- Hoan nghênh. Xin cám ơn. Ruther nói vừa giơ tay ra. Chúng ta đừng nghĩ đến nữa, quên hết mọi chuyện này.
Hawes nắm lấy bàn tay giơ ra.
- Đúng. Chúng ta quên hết đi.