← Quay lại trang sách

Chương 5

Gia đình ông bà Minh rời bỏ Ban Mê Thuột sau một thời gian ngắn, chưa đến 1 năm ở đây. Từ đất Bắc bốn mùa sang đến SàiGòn mưa nắng hai mùa, rồi lên Tây Nguyên núi đồi, bây giờ lại đến Quy Nhơn với biển và nắng gió, thật quá nhiều thay đổi! Đến Quy Nhơn với công việc mới tốt đẹp hơn nhưng ông bà Minh đều không tin rằng sẽ ở đây vĩnh viễn, chỉ lả tạm bợ trong thời gian này. Sinh trưởng và lớn lên ở đất Bắc qua bao năm tháng trôi nổi theo vận nước mà còn phải bỏ đi, huống gì là nơi đây, ở vùng đất mới mang tên Quy Nhơn.

Ông Minh bảo với các con nơi đây là vùng đất lịch sử.

Mộng Trinh hỏi bố:

- Quy Nhơn là nơi nào vậy mà nhiều lịch sử hả ba?

Ông Minh là người đọc rộng hiểu nhiều, ngay từ nhỏ ông vẫn bị cha mẹ mắng vì vừa ăn vừa đọc sách! Ông đọc đủ mọi loại sách, nhưng thích nhất là lịch sử. Trí nhớ ông rất tốt nên con cái đều thừa hưởng điều này. Ông Minh có thể trở thành một giáo sư lịch sử được nhưng ông say mê chính trị suốt cả đời mình.

Ông giải thích cho Mộng Trinh và Phong:

- Quy Nhơn là trung tâm hành chính của tỉnh Bình Định. Bình Định xưa là đất thuộc Việt Thường Thị và nền văn hóa Sa Huỳnh, sau đó người Chăm đã tới chiếm lĩnh vùng đất này. Chỗ này từng là cố đô của vương quốc Chămpa. Rồi ba sẽ đưa các con đi xem thành Đồ Bàn và các tháp Chàm với nghệ thuật kiến trúc độc đáo là những di sản của người Chăm còn sót lại.

Phong hỏi bố:

- Vậy ai đặt tên chỗ này là Quy Nhơn vậy ba? Người Chăm sao?

- Quy Nhơn là tên Việt Nam. Tên đó không phải do người Chăm đặt mà nó được hình thành từ năm 1602, thời chúa Tiên Nguyễn Hoàng. Cùng với Hoài Nhơn, sự ra đời của địa danh này nằm trong một chuỗi các tên gọi thể hiện chủ trương Nhân trị của các Chúa Nguyễn ở Đàng Trong. Có người cho rằng, Quy Nhơn nghĩa là người về, có người khẳng định nó là cách định danh cho nơi quy tụ nhân tài. Hai chữ Quy Nhơn có thể lấy ý từ câu nói nổi tiếng của Khổng Tử trong sách Luận ngữ:

Khắc kỷ phục lễ thiên hạ quy nhân yên

Có nghĩa là:

Gò mình, trở về với Lễ, thì thiên hạ sẽ trở về với đức Nhân.

Ông Minh kể với các con điều này với vẻ đắc ý.

Phong rất thích thú với những giải thích của bố mặc dù không hiểu lắm về hai câu nói của Khổng Tử. Cậu hỏi:

- Ba kể nữa đi ba!

- Các con có biết Bình Định cũng là nơi xuất phát phong trào nông dân khởi nghĩa vào thế kỷ 18 với tên tuổi của anh hùng áo vải Nguyễn Huệ; và cũng là quê hương của nhiều danh nhân lịch sử.

Phong và Mộng Trinh đều háo hức:

- Mình sẽ đi xem những di tích lịch sử đó chứ ba?

Ông Minh hiền từ nhìn hai con:

- Rồi ba mợ sẽ cho các con đi xem hết tất cả những di tích lịch sử ở đây.

Cũng từ những giải thích về Bình Định nên Phong đã vào thư viện thành phố mượn những sách về lịch sử để đọc. Phong đọc sách gì thì Mộng Trinh cũng theo em đọc sách đó. Không có bạn bè gì nên hai chị em cứ chúi đầu vào sách.

Tại thành phố biển Quy Nhơn với nhiều di tích lịch sử, ông bà Minh vẫn thuê nhà tạm trú. Mộng Trinh vào học trường Trinh Vương của các nữ tu, còn Phong vào học trường dòng La San.

Việc chuyển trường luôn luôn không ảnh hưởng gì đến việc học của Mộng Trinh và Phong là mấy. Riêng Phong học rất giỏi và dễ dàng nên chỉ vài tháng sau đang từ lớp ba, Phong nhẩy lớp lên học lớp nhất. Phong là một cậu bé hiếu học và cũng thích đọc sách về lịch sử như bố mình. Với thân xác của cậu bé hơn 7 tuổi nhưng trí tuệ của Phong phát triển nhanh hơn số tuổi. Phong như một cậu bé 12, 13 tuổi thì đúng hơn! Mộng Trinh cũng đang học lớp nhất ở trường Trinh Vương.

Hai chị em Mộng Trinh và Phong đều muốn tìm hiểu về vùng đất mà họ đến định cư. Nơi đây không chỉ có biển, hay những cồn cát, đụn cát tạo thành một dãy hẹp chạy dọc ven biển với chiều rộng trung bình khoảng 2 km, hình dạng và quy mô biến đổi theo thời gian, mà còn có những dẫy núi và nhiều đảo nhỏ. Các dãy núi chạy theo hướng Bắc - Nam, có sườn dốc đứng. Nhiều khu vực núi ăn ra sát biển tạo thành các mỏm núi đá dọc theo bờ, vách núi dốc đứng và dưới chân là các dải cát hẹp. Các dãy núi thấp xen lẫn với các cồn cát và đầm phá.

Cũng như các thành phố dọc miền Trung đầy nắng gió, hầu hết những trục đường chính ở Quy Nhơn đều được định danh bằng tên gọi của các nhân vật gắn liền với lịch sử triều Nguyễn. Dấu ấn văn hóa Chăm đã in đậm trong lịch sử hình thành và phát triển của Quy Nhơn.

Cuối tuần, bố mẹ Mộng Trinh đưa các con đi thăm những thắng cảnh nổi tiếng ở đây. Bố mẹ Mộng Trinh đều thích tìm hiểu nền văn hóa xưa cũ nơi đây nên đã đưa các con đến Tháp Đôi, một thắng cảnh nổi tiếng nhất của Bình Định. Đây là một địa danh quan trọng thể hiện nền văn hóa Chăm. Công trình này xây dựng vào cuối thế kỷ XII, được xếp vào loại đẹp và tiêu biểu cho nghệ thuật kiến trúc Champa.

Kiến trúc của tháp Đôi còn chịu ảnh hưởng của nghệ thuật Ấn Độ Giáo và phong cách Khmer. Vì lẽ ấy, nó không chỉ là chứng tích cho sự trầm tích và giao lưu văn hóa Việt Chăm trong hành trình mở cõi mà còn là một địa danh gắn liền với một biểu tượng khác của thành phố, đó là Cầu Đôi. Người Quy Nhơn từng có câu ca dao:

Cầu Đôi nằm cạnh Tháp Đôi,

Vật còn đèo bòng duyên lứa, huống chi tôi với mình.

Tháp Đôi tọa lạc ngay trung tâm thành phố Quy Nhơn, trong một không gian rộng. Đây là một trong tám cụm tháp Chăm Pa còn lại trên đất Bình Định và cũng là một trong những di tích kiến trúc văn hóa Chăm Pa mang đậm màu sắc tôn giáo đặc sắc.

Tháp Đôi còn có cái tên gọi khác là Tháp Hưng Thạnh có niên đại cuối thế kỷ XII đầu thế kỷ XIII. Đây là công trình kiến trúc tôn giáo của Vương quốc Chăm Pa cổ xưa.

Đến Tháp Đôi, Mộng Trinh tò mò hỏi bố:

- Chỗ này là chỗ gì vậy ba?

- Là đền thờ của người Chăm con ạ.

- Sao không giống nhà thờ của mình?

- Mỗi một tôn giáo đều khác nhau. Người Chăm họ xây những đền tháp là nơi các vị vua của họ thờ phụng thần linh.

Vẫn chưa hết tò mò, Mộng Trinh lại hỏi bố:

- Sao họ thờ những thần gì kỳ vậy?

- Đấy là niềm tin của họ. Tuy nhiên, xã hội Chăm Pa ngày xưa có sự kết hợp giữa vương quyền và thần quyền nên nhiều tháp còn thờ những vị vua Chăm Pa.

Tháp Đôi có cấu trúc độc đáo, gồm hai tháp, tháp lớn cao hơn tháp nhỏ một chút, cửa chính của hai tháp đều quay về hướng Nam. Tháp được xây bằng gạch nung xếp khít với nhau bằng một thứ chất kết dính đặc biệt, một kỹ thuật xây độc đáo chỉ có ở người Chăm. Chân tháp lớn là khối đá, gạch được xếp chồng một cách vững chãi; thân tháp khối vuông và đỉnh tháp mặt cong được tạo thành bởi gạch nung xếp khít chặt.

Ông Minh chỉ cho vợ xem:

- Em xem này, bên tháp lớn đều trang trí hoa văn đối xứng kết hợp với những hình vũ nữ được chạm khắc tinh tế vòng quanh riềm mái trông rất sống động.

Lại chỉ tiếp cho vợ sau khi đã quan sát:

- Giữa phần ngăn cách mái và thân tháp được trang trí bằng hình khác kìa! Anh nghĩ đây là hình những tu sĩ của người Chăm ngồi thiền và hai bên là voi chầu đối xứng. Họ làm thật tỉ mỉ và sống động!

Sang đến tháp nhỏ, Phong và Mộng Trinh hồn nhiên sờ vào những hình ảnh khắc bên ngoài tháp. Với tháp nhỏ cũng có cấu trúc tương tự như tháp lớn nhưng ở phần diềm mái thay vì các hình vũ nữ, hình khắc trang trí lại thể hiện một đàn hươu 13 con với những dáng vẻ rất khác nhau trông rất tinh nghịch và sống động.

Mộng Trinh còn nghịch ngợm sờ vào mặt một vị vua Chăm rồi thổi phù phù vào hình tượng, nói với em Phong:

- Chị thổi cho ông vua Chăm này sống lại nè Phong!

Phong cười nhìn chị và cũng không ngờ chị mình lại nghịch ngợm như thế!

Quay sang nói với vợ, ông Minh bảo:

- Nơi đây chính là điểm nhấn quan trọng. Nó mang hơi thở của hành trình Nam tiến và cũng là chứng tích cho những giao thoa văn hóa sâu sắc mà các dân tộc Việt - Chăm và Hoa đã chung tay kiến tạo.

Một buổi du ngoạn ngoài trời hết cho một ngày nghỉ, cả nhà ông bà Minh đều thấm mệt khi trở về nhà.

*

Đêm đó Mộng Trinh có một giấc mơ lạ nhưng vì sợ hãi nên cô bé nghĩ là sẽ không kể cho một ai nghe.

Trong giấc mơ Mộng Trinh thấy mình lớn hơn nhiều như một thiếu nữ, đi chân trần, mặc váy dài trắng toát có đính nhiều hoa tươi. Trên đầu đội nón rơm rộng vành, Mộng Trinh lang thang trong một vườn cỏ xanh tươi đầy hoa. Muôn vàn loại hoa tuyệt đẹp lung linh trong gió mát. Có nhiều tiếng chim gọi nhau líu lo.

Không biết đó là nơi đâu nhưng phong cảnh thật đẹp và yên bình. Một mình Mộng Trinh chạy chơi với chân trần qua nhiều cánh đồng hoa như vậy. Hương thơm của các loại hoa quyện với nhau như đang ở chốn bồng lai tiên cảnh nào đó thật kỳ diệu!

Trải qua những giây phút như vậy không biết là bao lâu rồi bỗng dưng trời đổ mưa nhưng vẫn nắng. Mộng Trinh trong giấc mơ cuống quít đi tìm chỗ trú mưa nhưng chung quanh không một cây lớn hay nhà cửa gì.

Đột nhiên như có một chiếc dù nhưng không hẳn là dù mà là vải, một tấm vải lớn căng ra phía trên đầu của Mộng Trinh để che mưa. Tấm vải cứ trôi nổi trên đầu của Mộng Trinh như một thứ ảo thuật.

Mộng Trinh cứ nhớn nhác tìm xem vì sao tấm vải này không cần cọc chống đỡ mà vần cứ bềnh bồng trên đầu mình như vậy.

Bỗng dưng khi cơn mưa đã tạnh, một bàn tay… không… hai bàn tay to lớn xếp tấm vải lại và một khuôn mặt hiện ra! Khuôn mặt đó giống hệt như mặt vị vua ở Tháp Đôi mà Mộng Trinh đã đưa tay sờ vào và còn nghịch ngợm thổi vào mặt vị vua. Chỉ khác là không phải chỉ tuyền một mầu đỏ của đất nung như hình tượng khắc mà còn có nhiều mầu khác. Mầu đen của hàm râu trông rất lẫm liệt, mầu đỏ của cặp môi. Và mầu đen của đôi mắt sáng quắc đang nhìn Mộng Trinh làm cô bé hét lên rồi tỉnh dậy!

Tiếng hét của Mộng Trinh tuy nhỏ nhưng làm cho em Phong đang nằm bên giường bên kia tỉnh giấc. Phong hỏi:

- Chị sao vậy?

Mồ hôi vã ra ướt đẫm cả khuôn mặt, Mộng Trinh thầm thì nho nhỏ trả lời em trai:

- À… chị… nằm mơ…

Giọng vẫn còn ngái ngủ, Phong lại hỏi:

- Chị… mơ gì sợ lắm sao mà hét?

- Ờ.. sợ lắm..!

Phong cười nho nhỏ trêu chị mình:

- Thấy ma hả?

Mộng Trinh trùm chăn kín cả đầu nói với em:

- Ờ.. chị mơ thấy ma…

Vẫn chưa tỉnh ngủ hẳn, Phong nói đùa:

- Ma gì vậy? Đàn ông hay đàn bà?

- Đàn ông… là ma… ma Chàm…

Nghe vậy, Phong tung chăn ngồi nhỏm dậy hỏi chị Mộng Trinh:

- Sao chị biết là ma Chàm? Người Chàm có giống mình không? Họ ra sao?

- Là.. ông vua Chàm…

Phong nói liền:

- Ông vua Chàm mà chỉ thổi hơi vào mặt đúng không?

Mộng Trinh vẫn còn sợ khi trả lời với Phong:

- Đúng là ông vua Chàm!

- Ghê vậy! Ông ấy nói gì?

- Không có nói gì hết…

- Có chắc là người đó không?

- Chắc chắn! Còn có mầu nữa…

Phong ngỡ ngàng:

- Chị nói có mầu là sao?

Lúc này kể cho Phong nghe xong thì Mộng Trinh bớt sợ và đã tỉnh hẳn ngủ nên không trùm chăn nữa khi nói với em Phong:

- Tượng khắc ở tháp chỉ có một mầu của đất nung, còn đây… là thấy râu đen, mắt đen và môi đỏ nữa…

Phong nghiêm giọng nói với chị:

- Tại chị nghịch đấy!... Ôi chỉ là giấc mơ thôi mà!

Mộng Trinh khẳng định với em trai:

- Chị sẽ không bao giờ đi xem mấy lăng tẩm nầy nọ đâu! Phong có đi với ba mợ thì đi, chị không đi đâu!

Phong cố nín cười trước sự nhát gan của chị mình.

- Ăn thua gì… mà chị sợ!

Mộng Trinh cãi:

- Chị đâu có sợ… chỉ là không thích thôi! Nhưng mà Phong đừng kể cho mợ nghe đấy!

- Em biết rồi. Mợ ghét chuyện ma quỷ!

Nói xong Phong lại trùm chăn ngủ tiếp.

Mộng Trinh nằm đó mà cứ bâng khuâng nghĩ về giấc mơ kỳ lạ! Mãi mới ngủ lại được.

*

Thời gian sau, bà Minh muốn con gái cũng học xuất sắc như em trai nên mướn thầy giáo dậy kèm thêm ở nhà.

Thầy giáo còn trẻ măng tên Long, đang là học sinh lớp 12, mà có người giới thiệu với bà.

Cậu thanh niên tên Long bị bà Minh hỏi han đủ thứ về gia cảnh, học vấn và cả bạn bè rồi mới nhận cậu làm thầy giáo dậy kèm cho Mộng Trinh. Nhất là biết chắc chắn cậu ta học rất giỏi.

Ngày đầu tiên đến dậy kèm mới biết mặt học trò, Long không ngờ là cô học trò của mình... lại đẹp như thế! Nhìn Mộng Trinh như tưởng đâu đang nhìn hình vẽ các tiên cô trong huyền thoại! Cả khuôn mặt cô bé thanh thoát, đôi mắt rất to và hơi xếch, lông mi dài đậm và cong. Sống mũi cao và thanh hơi khác những cô gái Việt Nam khác mà Long đã từng nhìn thấy. Nhưng đôi môi của cô học trò nhỏ này mới đáng để trầm trồ vì đỏ mọng, môi dưới hơi chẻ ra và đầy đặn. Nhìn ngắm và cứ muốn ngắm mãi.

Chuyện dậy kèm thật ra chẳng thích thú gì với Long nhưng cứ mỗi buổi chiều sau giờ tan học đến nhà ông bà Minh dậy học cho Mộng Trinh đã trở thành một niềm vui kín đáo cho những mơ mộng hão huyền của cậu trai mới lớn vì cô học trò mới có 10 tuổi! Nhưng nhìn Mộng Trinh như một cô bé lên 12 đang vào tuổi dậy thì.

Cô học trò không hề biết những ý nghĩ thầm kín của thầy giáo Long. Bà Minh dặn con gái phải gọi Long là thầy Long. Nhưng Long lại bảo cô bé gọi anh là anh Long. Chính vì xưng hô như thế nên Mộng Trinh rất thoải mái và dạn dĩ, rất cởi mở với anh Long.

Long rất kiên nhẫn với cô học trò nhỏ, dù Mộng Trinh có làm sai vẫn không bị Long trách mắng bao giờ.

Thoạt đầu đến dậy kèm cho Mộng Trinh, Long còn mang theo sách vở của mình để khi cho cô học trò làm bài thì có thể có chút thì giờ cho bài vở của mình để sửa soạn thi tú tài hai. Nhưng dần dần Long đã bị Mộng Trinh thu hút nên toàn tâm toàn ý buổi học kèm hoàn toàn dành cho cô bé.

Ngắm nhìn Mộng Trinh bặm môi suy nghĩ làm bài thật đáng yêu! Nhiều lần Long tự nhắc nhở mình! Nhắc nhở điều gì không biết nhưng hiện tại mỗi tối trước khi đi ngủ Long cũng nghĩ đến khuôn mặt như thiên thần của cô học trò nhỏ.

Đã có lần trong lúc ngắm nhìn Mộng Trinh như thế, Long đã thử tưởng tượng 5, 6 năm nữa cô bé này sẽ như thế nào? Chắc hẳn là còn đẹp hơn và đáng yêu hơn! Lúc đó Long có thể... nói lời yêu với Mộng Trinh sao? Chà, sao mình có thể nghĩ lung tung như vậy, Long nghĩ thầm và tự cười mình!

Mộng Trinh học tiến bộ hơn nhiều khi được anh Long dậy kèm. Điều này làm bà Minh rất hài lòng.

Bà Minh là người thích buôn bán lầm giầu. Ở ngoài Bắc, trong lúc chồng đi làm cách mạng, một mình bà quán xuyến buôn bán xây nhà hai tầng. Bây giờ gò bó trong nhà nuôi dậy con cái, bà thấy như thiếu thốn một cái gì! Với số lương cố định làm thông ngôn cho người Mỹ thì cứ muôn đời như vậy sao? Ở đây không dễ dàng buôn bán như ở Sài Gòn. Không phải ai ai cũng đổ về thủ đô sao?

Một hôm bà Minh bàn với chồng để bà và hai con về lại SàiGòn ở tạm với bố mẹ bà rồi tìm cách buôn bán, gầy dựng lại cơ nghiệp. Biết vợ có tài kinh doanh nên ông Minh cũng xiêu lòng. Vả lại vợ con ở cùng với cha mẹ vợ thì cũng yên tâm được nên ông Minh đồng ý để vợ mình thử thời vận.

Ông bà chờ hai con học hết niên học mới cho Phong và Mộng Trinh biết ý định dọn về lại SàiGòn.

Mộng Trinh là người thích nhất. Cô bé thích về nhà ông bà ngoại. Phong thì không hề quan tâm là ở đâu vì suốt ngày chúi đầu đọc sách tìm hiểu nên ở đâu thì cũng vậy thôi!

*

Gần hết niên học thì bà Minh cũng không mướn thầy Long nữa. Khi nói cho Long biết là bà và hai con sẽ về SàiGòn, bà không hề biết là quyết định đó của ông bà đã làm tan nát trái tim của Long. Sẽ không bao giờ được gặp lại Mộng Trinh nữa, xem cô bé sẽ trở thành thiếu nữ ra sao, điều này làm bao nhiêu ước mơ thầm kín của Long tan thành mây khói.

Buổi dậy kèm cuối cùng cho Mộng Trinh, Long đã sửa soạn một món quà cho cô bé. Dù chỉ là một vỏ ốc khá lớn nhưng Long đã tận tụy vẽ hình Mộng Trinh như trong trí nhớ của mình trong lòng vỏ ốc đó. Long đã nghĩ một ngày nào đó khi Mộng Trinh lớn lên, nếu còn giữ món quà này do Long làm sẽ hiểu.

Long không bao giờ quên khi đưa món quà tặng cô học trò, Mộng Trinh đã ngây thơ hỏi anh Long:

- Tại sao vỏ ốc lại có hình vẽ bên trong vậy anh Long? Hay đây là tiên cô mắc đọa xuống trần gian?

Long đã giải thích:

- Chỉ là vỏ ốc anh tìm được ở ngoài biển. Còn hình vẽ này là chính tay anh vẽ. Em xem có đẹp không?

Mộng Trinh gật đầu:

- Đẹp lắm! Anh vẽ ai vậy?

- Anh vẽ em đấy! Em đẹp như thế đó Mộng Trinh!

Không hề ngượng ngùng, Mộng Trinh hỏi lại anh Long:

- Tại sao anh lại vẽ em?

Không bao giờ Long có thể nói cho Mộng Trinh biết vì sao mình đã vẽ hình ảnh cô bé trong vỏ sò này. Nhưng rồi sau này liệu Mộng Trinh có hiểu không?

Câu trả lời của Long rất hoang đường và mông lung:

- Anh thích vẽ những cái đẹp... mà em chính là vẻ đẹp đó trong tâm tưởng anh... không phải chỉ bây giờ nhưng là mãi mãi như thế...

Dĩ nhiên cô bé Mộng Trinh chẳng hiểu ý nghĩa những lời nói đó của anh Long cho đến sau này nhớ lại thì tất cả chỉ là những hình ảnh rất mơ hồ về vùng đất Quy Nhơn, ngay cả gương mặt anh Long thế nào thì cũng mờ nhạt như bao hình ảnh khác.

Ngày rời Quy Nhơn về SàiGòn, Mộng Trinh mang theo vỏ sò đó như một kỷ niệm của vùng biển với nhiều cồn cát có lăng mộ Tháp Đôi.